CHƯƠNG THỨ CHÍN CỔ VIỆT ĐỘC LẬP-
Cho tới đây, nước Việt Nam, như chúng ta gọi ngày nay, hay nước Đại Việt, Đại Cồ Việt, như tiền bối chúng ta đã gọi qua bao nhiêu thế kỷ về trước, chưa hề được nói đến trong lịch sử hoặc xuất hiện trên bản đồ thế giới. Nói cách khác, cho đến đây, nước Việt Nam, với ý nghĩa là một quốc gia biệt lập, một nước, chưa hề được hoàn thành. Nhưng đã đến lúc giờ vinh quang nầy điểm, dõng dạc, dứt khoát, với Ngô Quyền, với Đinh Bộ Lĩnh.
I. NGÔ QUYỀN DÀNH ĐỘC LẬPLưu Yểm, khi đặt Lý Tiến làm Giao Châu thứ sử, ông đã dặn rằng: "Giao Chỉ dân hiếu loạn, đãn khả ky my nhi dĩ" (Dân Giao Chỉ thích làm loạn, chỉ nên tìm cách lung lạc họ mà thôi). Nhưng Lý Tiến chưa lung lạc được người Giao Chỉ, thì họ đã bị ngành Giao Chỉ lung lạc. (1)
Năm thứ tư hiệu Đại Hữu (931), Dương Diên Nghệ, người Ái Châu, một trong những thủ hạ họ Khúc, cất quân đánh Lý Tiến, đuổi về Quảng Châu. Để trả thù, Yểm sai viên thừa chỉ là Trình Báu sang đánh Diên Nghệ, nhưng không may đã phải bỏ thây trên chiến trường.
Bị thất bại, Lý Yểm nghỉ một thời gian, có lẽ để củng cố nội bộ vừa để đợi thời cơ. Trong lúc đó, ông phong vương cho các con ông, như phong đứa con thứ chín là Hồng Tháo làm Vạn vương, chẳng hạn (932). (2)
Năm 936, Diên Nghệ bị một nhà tướng là Kiểu Công Tiện giết đi để lên thay. Tên bạo ác nầy không có thời giờ để hưởng quyền thế, vì không lâu đã bị Ngô Quyền đem quân đến vây đánh, phải vội vàng sai sứ sang Nam Hán cầu cứu. Ngô Quyền nầy là người Ái Châu, một tướng có tài của Dương Diên Nghệ và cũng là con rể của ông.
Tiếp sứ của Công Tiện, Lưu Yểm thấy cơ hội tốt đã đến, bèn phong Hồng Tháo làm Giao vương đặt chỉ huy lực lượng chinh phạt cổ Việt, còn chính ông thì đóng quân ở Hải Môn để tiếp cứu, nếu cần. Đang lúc đó, Ngô Quyền đã bắt được Công Tiện, giết đi, như thế diệt được một tay nội ứng nguy hiểm. Rồi ông lập mưu chống cự. Ở lòng sông Bạch Đằng, ông truyền đóng nhiều cộc gỗ làm như những cái chông khổng lồ lấp dưới mặt nước. Nhân khi nước lên, ông cho thuyền đón đánh tàu chiến của Nam Hán đang tiến vào, đoạn giả vờ thua đua nhau chạy ngược dòng sông. Tàu Nam Hán vô tình ồ ạt đuổi theo. Khi tàu địch đã lên phía trên chỗ đóng cộc và nước thủy triều cũng đã cạn, quân cổ Việt mai phục sẵn hai bên bờ cùng một lúc với vô số chiến thuyền đang chực để giao chiến, kịch liệt phản công. Địch quân hốt hoảng quay tàu rút ra thì bỗng gặp phải cộc, chìm vỡ ngổn ngang. Thật là một trận thất bại hoàn toàn cho quân Nam Hán. Đau đớn hơn nữa, chính Hồng Tháo cũng bỏ mạng trên sông. Tại Hải Môn, Lưu Yểm được tin, đành nuốt hận kéo quân về. Phần Ngô Quyền, sau khi diệt được địch, ông đã xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (939).
Cuộc thắng trận của nhà tướng họ Ngô tỏ ra sức mạnh của quân dân cổ Việt cũng như ý chí muốn độc lập của những người đã lâu đời chọn dải đất nầy làm quê hương. Nhưng nền móng độc lập do Ngô Quyền đặt vẫn chưa được vững chắc. Nói cho đúng, với biến cố năm 939, cổ Việt chưa thực sự đã là một nước riêng tách hẳn khỏi Trung Quốc, vì Nam Hán chẳng những chưa phải là Trung Quốc, mà lại chỉ là một ngụy triều đối với Trung Quốc. Bởi vậy, thắng Nam Hán chưa phải là thắng Trung Quốc, và độc lập đối với Nam Hán chưa phải là độc lập đối với Trung Quốc. Nói cách khác, Ngô Quyền đã tiến một bước quan trọng, nhưng bước còn lại cũng còn quan trọng lắm.
Những người kế vị Ngô Quyền không có cơ hội, và có lẽ cũng không có thành ý bước nốt bước còn lại đó. Khi Quyền mất vào năm 944, Trung Quốc vẫn chưa thống nhất. Kể từ khi nhà Nam Hán bị thua ở Bạch Đằng, ở Trung Quốc nhà Hậu Đường đã nhường ngôi thiên tử cho nhà Hậu Tấn (936-947). Trong thời Hậu Tấn, Trung Quốc vẫn còn chia ra làm nhiều nước biệt lập và cừu địch, như Ngô, Thục, Ngô Việt, Nam Hán, Sở (một nước ở vùng Trường Sa, bắt đầu từ 927), Mân, Nam Bình (một nước ở vùng Hồ Bắc, bắt đầu từ 925).
Trong lúc đó, kẻ kế vị Ngô Quyền, là Xương Ngập, còn trẻ tuổi. Quyền, trước khi từ trần, đã phó thác việc giúp đỡ con cho người anh rể là Dương Tam Kha, con của Dương Diên Nghệ. Không ngờ Tam Kha nhẫn tâm cướp ngôi cháu, tự xưng là Bình vương, Xương Ngập cùng một số thân thần phải trốn đến ở vùng Nam Sách.
Để che miệng thế gian, Tam Kha nhận em của Xương Ngập là Xương Văn làm con. Năm 950, nhờ một số tướng sĩ trung thành với nhà Ngô, Xương Văn lật đổ được Bình vương rồi mời anh về Cổ Loa để cùng cai trị. Bấy giờ Xương Ngập lấy hiệu là Thiên Sách vương, và Xương Văn lấy hiệu là Nam Tấn vương. Năm 954, khi Xương Ngập mất rồi, Xương Văn sai sứ sang Nam Hán xin thần phục. Lưu Thành đang làm vua ở Quảng Châu liền sai cấp sự trung Lý Dự đem tiết Việt sang phong cho Xương Văn làm tiết độ sứ Tĩnh Hải. Nhưng khi Lý Dự đến Bạch Đằng, Xương Văn lại sai người ra đón vị sứ Tàu, bảo rằng hải tặc đang hoành hành, nên đường đi rất nguy hiểm. Lý Dự không đi nữa, quay thuyền trở về. Giặc nói đây, có thật hay không, hay chỉ là một cách thoái thác khôn khéo của Xương Văn để khỏi nhận quyền người Nam Hán? Điều đó không được rõ. Dầu sao nền độc lập của cổ Việt cũng chưa được dứt khoát dưới đời nhà Ngô. (3)
II. NHÀ TỐNG THỐNG NHẤT TRUNG QUỐC (4)Trong khi nhà Ngô cai trị cổ Việt, Trung Quốc đã trải qua nhiều biến cố.
Sau nhà Hậu Tấn, ngôi thiên tử qua nhà Hậu Hán (947-950), rồi nhà Hậu Chu (951-959). Thái tổ nhà Hậu Chu cai trị đến năm 954 thì con ông là Thế Tông kế vị. Vừa là những tướng có tài vừa là những nhà cai trị giỏi, hai vua nầy đã khỉ sự liên kết lĩnh thổ Trung Quốc. Năm 957, Chu Thế Tông đánh Nam Đường, tức là nước Ngô cũ (nước Ngô từ năm 937 đã đổi thành Nam Đường), chiếm cả vùng từ sông Hoài đến sông Dương Tử trong đó có cả kinh đô Nam Đường là Dương Châu, và vua Nam Đường phải dời xuống đóng ở Nam Kinh.
Không may, trong lúc đó, một người sống sót của nhà Hậu Hán, tên là Lưu Sùng, em của Hậu Hán Cao Tổ, đến lập quốc ở vùng Sơn Tây, kể từ tháng 3 năm 951, và gọi tên nước là Bắc Hán. Nhà Bắc Hán nối tiếp qua Lưu Thừa Quân (954-968) và Lưu Thế Nguyên (968-979). Hai người nầy không những đã gây rắc rối nhiều cho nhà Hậu Chu, mà còn là một trở ngại lớn cho nhà Tống trong thời buổi đầu. Không mạnh đủ để đứng vững một mình, họ đã nương dựa vào, rồi thần phục, nước Liêu của dân Khế Đan, một thứ người thuộc giống Mông Cổ, đóng ở vùng Liêu hà kể từ năm 907. Hễ mỗi lần quân đội Trung Quốc kéo đến Thái Nguyên, kinh đô của Bắc Hán, là mỗi lần lực lượng Khế Đan vội vàng từ vùng Bắc Kinh kéo đến tiếp cứu.
Nhưng rồi nhà Tống đã cướp ngôi nhà Hậu Chu.
Tháng giêng năm Canh Thân (960), Thái tổ nhà Tống đã êm thấm bắt Cung đế nhà Hậu Chu từ chức để lên thay. Khi nhà Tống bắt đầu, quyền của thiên tử chỉ nằm ở vùng chung quanh, kinh đô Khai Phong, nghĩa là ở các nơi như tỉnh Sơn Tây, một phần tỉnh Hà Bắc, cả tỉnh Sơn Đông, một phần các tỉnh Giang Tô, An Huy và Hồ Bắc. Nhưng, vừa nhân đạo, vừa khôn khéo, lại có tài cai trị, Tống đế đã dần dần chinh phục hết nước nầy đến nước khác. Năm 964-965, Tống Thái tổ (960-975) thôn tính nước Thục ở vùng Tứ Xuyên, năm 971 đến lượt Nam Hán của Lưu Trường (958-971), thế Lưu Thành, và năm 975 đến lượt Nam Đường bị thôn tính. Tống Thái Tông (976-997) đã tiếp tục công việc bằng cách chiếm Ngô Việt vào năm 978. Thế là Trung Quốc đã được thống nhất, lần nữa.
III. ĐINH BỘ LĨNH THỐNG NHẤT CỔ VIỆTThời Ngô Quyền, chưa chắc tất cả mọi nơi trong đất cổ Việt đã thuộc về nhà vua, nhưng các vùng như Giao Châu, Ái Châu, Phong Châu đã từng phục. Khi Ngô Quyền mất, và Dương Tam Kha tiếm vị, hầu như mọi mối dây quân thần đã bị cắt đứt. Hỏi Tam Kha là ai mà có thể có đủ uy tín để ràng buộc kẻ khác? Đã không chịu tùng phục, các thủ lãnh địa phương lại còn rộn ràng đứng lên phản đối. Khi Tam Kha bị truất phế và hai anh em Xương Ngập, Xương Văn cai trị, tình hình êm xuống một thời, nhưng rồi họ Ngô đã cáo chung vào năm 964, và các địa phương lại đâu đòi tự trị đó. Các thứ sử nổi lên như cá đối bằng đầu, chẳng còn ai muốn nghe ai, gây nên một tình trạng loạn hàng thất thứ, mà lịch sử đã mệnh danh là thời kỳ sứ quân. Bấy giờ có mười hai sứ quân như vậy, ở mười hai nơi trong vùng cổ Việt.
Theo Việt sử lược, thì tên của mười hai sứ quân đó như sau:
1) Kiều Tam Chế tên là Hãn, hùng cứ Phong Châu (Bạch Hạc).
2) Nguyễn Thái Bình, tên là Khoan, hùng cứ Bắc Đái (Vĩnh Tường).
3) Trần Công Lãm, tên là Nhật Khánh, hùng cứ Đường Lâm (Giao Thủy).
4) Đỗ Cảnh Công, tên là Cảnh Thạc, hùng cứ Đỗ Động Giang (Thanh Oai).
5) Nguyễn Du Dịch, tên là Xương Xí, hùng cứ Bình Kiều.
6) Nguyễn Lãng Công, tên là Khuê, hùng cứ Siêu Loại.
7) Nguyễn Lệnh Công, tên là Thủ, hùng cứ Tiên Du.
8) Lã Tá Công, tên là Đường, hùng cứ Tế Giang (Văn Giang).
9) Nguyễn Hữu Công, tên là Siêu, hùng cứ Tây Phù Liệt.
10) Kiểu Lệnh Công, tên là Thuận, hùng cứ Hồi Hồ (Cẩm Khê).
11) Phạm Phòng Át, tên là Bạch Hổ, hùng cứ Đằng Châu (Kim Động).
12) Trần Minh Công, tên là Lãm, hùng cứ Giang Bố Khẩu (Vũ Tiến). (5)
Dựa vào các địa danh trên đây mà xét, thì các sứ quân chỉ tung hoành trong một vùng nhỏ của cổ Việt quanh quẩn ở khu vực Hà Nội, Bắc Ninh, Phú Thọ, còn các nơi khác như Ái Châu, tịnh vô không có tiếng tăm gì. Vậy sự thật như thế nào về vấn đề sứ quân?
Việt sử lược là một tác phẩm vô danh chép vào cuối thế kỷ 14 (năm 1377 về sau), mà sự việc được thuật lúc ở đây lại xảy ra vào hạ bán thế kỷ thứ 10. Với một khoảng cách hơn bốn thế kỷ, chắc chắn tác giả không thể có thể phỏng vấn những chứng nhân trực tiếp của các biến cố và nhất thiết phải dùng tài liệu. Mà nói đến dùng tài liệu đồng thời cũng phải nói đến dùng tài liệu nào với phương pháp nào. Về tài liệu có thể là những văn kiện do người cổ Việt để lại, hay là những sử liệu Trung Quốc. Hiện thời, không thể có một tài liệu nào thuộc loại trước, nhưng về loại sau, chúng ta gặp được ở Tống sử đoạn văn nầy:
" Càn đức sơ, Xương Văn tử, kỳ tham mưu Ngô Xứ Bình, Phong Châu thứ sử Kiểu Tri Hộ, Võ Ninh Châu thứ sử Duong Huy nha tướng Đỗ Cảnh Thạc đắng, tranh lập, quản nội nhất thập nhị châu loạn. Bộ dân túc tụ khỉ vi khấu đạo, công Giao Châu. Tiên thị Dương Diên Nghệ dĩ Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan Châu thứ sử, kiêm Ngự Phiên đô đốc. Bộ Lĩnh tức kỳ tử dã. Công Trứ tử, Bộ Lĩnh kế chi. Ký thị Bộ Lĩnh dự kỳ tử Liễn suất binh kích bại Xứ bình đẳng, tặc đảng di tán." (6)
Dịch: "Năm đầu hiệu Càn Đức (963), Xương Văn chết. Viên tham mưu của ông là Ngô Xứ Bình, viên thứ sử Phong Châu là Kiểu Tri Hộ, nha tướng của viên thứ sử Võ Ninh Dương Huy là Đỗ Cảnh Thạc, cả bọn đó tranh nhau lên ngôi, khắp mười hai châu trong quản đại loạn. Dân chúng tụ họp nhau khỉ sự đánh nhau, cướp phá, xông vào Giao Châu. Nguyên trước Dương Diên Nghệ có đặt Đinh Công Trứ làm thứ sử Hoan Châu đô đốc để giữ gìn bờ cõi. Bộ Lĩnh chính là con của ông. Khi Công Trứ mất, Bộ Lĩnh lên thay. Bấy giờ Bộ Lĩnh cùng với con là Liễn đem quân ra đánh bại bọn Xứ Bình, đảng giặc liền tan."
Chúng ta nhận được rằng giữa Tống thư và Việt sử lược chỉ giống nhau ở hai chỗ, là bấy giờ cổ Việt loạn, và loạn lạc ở 12 khu vực, còn tên 12 khu đó thì Tống thư nói là châu mà, Việt sử lược lại kể ra một số những danh từ địa lý quen biết ở vùng Giao Châu và Phong Châu. Về tên những hào kiệt đứng ra làm sứ quân, hai bên chỉ gặp nhau một lần ở tên Đỗ Cảnh Thạc, dư giả là khác hết. Dựa vào phương pháp chép sử có chiều quá ư tự do của tác giả Việt sử lược gặp được ở các đoạn trước mà xét, chúng ta có thể đoán rằng đây chỉ là một cố gắng liều lĩnh của tác giả để lấp đầy con số 12 mà tác giả biết được có lẽ bởi một nguồn nào khác không phải trực tiếp bởi Tống thư. Sự thường, khi loạn lạc mà nổi dậy giữ quyền biệt lập để tranh giành, mỗi đơn vị ít ra phải là một châu, mà người cầm đâu phải là một thứ sử hay một nha tướng hăng hái nào đó, như trường hợp Đỗ Cảnh Thạc. Giả sử những vùng mà những kẻ được gọi là sứ quân chiếm cứ mang những tên như Việt sử lược kể, thì ở cổ Việt bấy giờ phải có nhiều sứ quân hơn là mười hai, vì Đinh Bộ Lĩnh, thứ sử Hoan Châu chẳng hạn, cũng phải là một người trong số đó.
Cảnh loạn ly giày xéo cổ Việt kể từ 964 nầy, hỏi ai đã dẹp yên? Người đó là Đinh Bộ Lĩnh. Từ Hoan Châu, ông đã cùng với con là Đinh Liễn kéo quân ra Ái Châu, rồi ra Giao Châu. Không bao lâu, vào năm 968, ông đã nắm vững được tình thế. Dân chúng biết ơn yêu cầu ông đứng đầu coi việc cai trị. Ông lấy hiệu là Văn Thắng vương, đặt Đinh Liễn làm tiết độ sứ, lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
IV. NHÀ TỐNG PHONG VƯƠNG CHO ĐINH BỘ LĨNHLàm vua được năm năm, Đinh Bộ Lĩnh biết nhà Tống đã thống nhất Trung Quốc, bèn sai sứ xin giao hảo. Tống triều, theo nếp cũ, cho ông chức tiết độ sứ Tĩnh Hải. Nhưng nếp cũ không còn thích hợp với tình trạng mới. Đinh Bộ Lĩnh rất hiểu vậy, và có lẽ triều nhà Tống cũng hiểu vậy. Do đó, năm 975, sứ giả của Đại Cồ Việt lại sang Bắc triều, và lần nầy lượm được kết quả tốt hơn. Thái tổ nhà Tống (960-975) đã không ngần ngại phong cho Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ quận vương trong một bài chế mà Lê Tắc đã tóm lược như sau:
"Bộ Lĩnh sinh tại đất Diên Chỉ, giữ tiết làm tôi, hướng theo phương bắc, thế hệ cao quí, giữ gìn một cảnh thổ phương xa, có chí mến văn hóa của Trung Quốc, thường nghĩ đến việc nội phụ. Nay Cửu Châu thống nhất, Ngũ Lĩnh cũng thanh bình, bèn do đường thủy lục, qua lại cống hiến lễ vật. Nay ta có lời khen ngợi đã sai con xin làm phiên thuộc, vậy phong cho cha làm quận vương cấp tước lộc để biểu dương lòng nhân đức khác thường, nên ghi sâu đặc ân của ta và chúc cho trường thọ." (7)
Đó là bảo đảm đầu tiên và trường tồn của nền độc lập Việt Nam. Sao lại có thể nói bản văn đó bảo đảm nền độc lập, khi nó bao hàm những câu như: "Hướng theo phương bắc", "thường nghĩ đến việc nội phụ", "xin làm phiên thuộc"?
Trước hết, nên nhớ rằng bài chế không phải chỉ có mấy câu đó, mà còn có một số những câu đáng kể khác như: "giữ gìn một cảnh thổ phương xa" hay "phong cho làm quận vương". Các vua Việt Nam sau Đinh Bộ Lĩnh, mãi cho đến Tự Đức, không ai được phong gì khác cao hơn là phong vương. Và việc phong vương trong thế giới Á Đông của thời trước đây không xa, chỉ là một thể thức ngoại giao của một nước lớn, nước Trung Quốc, đối với những nước nhỏ, các lân bang, để cho có một phẩm trật trong phạm vi quốc tế, chỉ thế thôi. Việc phong vương có thể nói lên ý nghĩa thuộc quyền, nhưng chỉ là thuộc quyền theo quan niệm cấp bậc giữa nước lớn và nước bé, chứ không còn thuộc quyền trực tiếp theo kiểu thời Bắc thuộc hay thời Pháp thuộc. Cũng vì thế, mà trong chế nói đến việc Đinh Bộ Lĩnh "giữ gìn một cảnh thổ phương xa", giữ gìn mà không cần có sự can thiệp của Trung Quốc.
Rồi, ngay trong những câu bề ngoài xem ra còn mang dấu vết Bắc thuộc, xét ra cũng đã chứa đựng ý nghĩa biệt lập. Thật vậy, những câu đó là những lời khen. Hỏi tại sao mà phải khen như thế, nếu đất cổ Việt thuộc về Trung Quốc, như thời các thái thú, thứ sử, hay đô hộ? Sở dĩ giao hảo với Trung Quốc là một điều đáng được Trung Quốc khen, đó là vì cổ Việt đã tách ra khỏi Trung Quốc, mà vẫn còn đi lại.
Một điều đáng chú ý khác, việc nhà Tống công nhận quyền độc lập của cổ Việt không phải xảy ra sau một cuộc thất bại của nhà Tống về võ lực, mà chính là giữa thời bình, hơn nữa, có thể nói là trong một lúc Trung Quốc đang khai thắng. Giả sử cổ Việt độc lập vì thắng trận Trung Quốc, thì sự Trung Quốc công nhận độc lập vẫn mang một cái gì gò ép, không nhiều thì ít, và rồi sức mạnh của Trung Quốc có thể thay đổi tình trạng đó đi. Đàng nầy, nền độc lập của cổ Việt đã được hoàn thành trong êm đẹp của thời bình, nên nước Việt Nam chẳng khác gì một quả chín rụng ra khỏi cây mẹ để tự sống một cuộc đời riêng, mang đầy đủ sinh lực trong chính mình. Chính sinh lực nầy đã làm cho nước Việt Nam nhỏ bé chống lại được với nhà Tống trong đầu thời Lê Hoàn, chống lại được với nhà Nguyên trong đời Trần Nhân Tôn, chống lại với nhà Minh trong thời Lê Lợi, chống lại với nhà Thanh trong thời Quang Trung.
Sau hết, một điều nên nhớ nữa, là sở dĩ nước Việt Nam đâm rể sâu và phát triển mạnh trong ý thức độc lập của mình, đó là còn bởi sự người Việt Nam, mặc dầu bắt gốc từ Trung Quốc, đã không còn thuần túy Trung Quốc. Chúng tôi đã trình bày dài dòng và nêu lên mạnh mẽ sự họ là những kẻ đã từ Trung Quốc di cư sang cổ Việt trong thời Bắc thuộc. Nhưng cũng không được bỏ qua sự kiện nầy là họ, khi di cư sang, đã ở với dân Lạc Việt, và nhiều thứ dân man khác, rồi với dân Lâm Ấp. Những dân đó không thể làm cho họ cải biến, bất cứ về phương diện nào, nhưng lại có thể làm cho họ phong phú thêm, phong phú về mọi phương diện, chẳng hạn về nhân chủng, về phong tục, về ngôn ngữ.
Với nguồn gốc đó, với sinh lực đó, và với sự phong phú đó, người Việt Nam là người Việt Nam, và càng ngày càng Việt Nam...
HẾTCHÚ THÍCH
1. Lê Tắc, An Nam chí lược, trang 191.
2. Tên người con thứ chín của Lưu Yểm không phải là Hoằng Tháo như Toàn thư chép (quyển 5, tờ 19a), nhưng là Hồng Tháo.
3. Âu Dương Tu, Tân Ngũ đại sử, trong N.T.N.S., quyển 65, trang 4469, cột 1.
4. Tống sử, trong bộ N.T.N.S., quyển 1, 2, 3, về Tống Thái tổ, quyển 4 về Tống Thái tông.
5. Việt sử lược, tờ 29.
6. Tống sử, quyển 488, ở mục Ngoại quốc, dưới đề "Giao Chỉ", trang 5712, cột 2.
7. Lê Tắc, sách đã dẫn, trang 64.