Trận hải chiến với Hòa Lan năm Giáp Thân, 1644-
Một chiếc tàu chiến Hòa Lan bị thủy sư ta đánh đắm ở Thuận An. Đề đốc Pierre Baeck tử trận, bảy nhà buôn Hòa Lan bị tử hình.
Các ngài tất phải kinh ngạc khi mới trông thấy đầu bài, có thể nghi mình hoa mắt, nhìn chữ nọ lầm ra chữ kia; không thế thì câu chuyện này chắc hẳn bịa đặt, như kiểu Phong thần, Tây Du, đâu phải chuyện thật.
Nước Nam ta ở thời đại vua Lê chúa Trịnh mà có thủy sư chiến thuyền khá đến thế ư?
Hòa Lan, một cường quốc nhất nhì Tây phương, tung hoành thế giới giữa thế kỷ XVII, có tiếng là chúa trùm mặt bể với những tàu lớn súng to, quân gia thiện chiến, mà lại bị thủy sư Việt Nam nhà ta đánh bại được ư?
Kỳ thật là một chuyện rõ ràng như hai với hai là bốn, chỉ tiếc sử sách ta coi thường, không biên chép đầy đủ, nhưng chính người Hòa Lan và những nhà buôn phương Tây tới lui buôn bán ở nước ta lúc bấy giờ đều nhìn nhận việc này quả có. Nhiều người công bằng khen ngợi lòng can đảm và chiến thuật của lính thủy Việt Nam. Nhất là các giáo sĩ Pháp sang nước ta truyền đạo hồi thập thất thế kỷ như cố Alexandre de Rhodes và cố Bénigne Vachet hoặc đã dụng công khảo cứu, hoặc được chứng kiến tận nơi, trong sách ký sự đều có ghi chép kiến văn của mình về trận Việt - Hòa thủy chiến một cách xác thực, đáng tin. Những sách ấy còn lưu truyền đến nay, ai tò mò chịu đọc, sẽ thấy nhiều chuyện lý thú quan hệ về lịch sử và phong vật nước ta thời cổ, không riêng gì câu chuyện làm nòng cốt cho bài này mà thôi.
Từ xưa, nước ta vẫn có thủy sư, có chiến thuyền để phòng thủ mặt bể.
Cố nhiên thủy sư ta ngày trước, chỉ là những đội đóng thuyền bằng gỗ, cũng chạy bằng cánh buồm mái chèo như thuyền buôn, có điều cách thức chế tạo khác hơn, ví dụ như: dài mình, rộng bản hơn và cũng có khi bên ngoài bọc đồng cho được chịu đựng tên đạn. Vả lại, không phải chỉ có thủy sư nhà mình mới tầm thường giản dị thế đâu. Từ thế kỷ 16, 17 trở về trước, thủy sư của nước nào trên thế giới lại chẳng là những chiếc thuyền gỗ chạy buồm, chỉ có khác nhau ở khí giới tinh nhuệ, ở người dũng cảm, lịch duyệt và khéo đóng được thuyền to tát, kiên cố có thể chở được nhiều quân lính, đi được biển xa. Chiến thuyền Hòa Lan kéo đến khiêu khích đánh nhau với thủy sư ta ở cửa bể Thuận An, năm 1644, rước lấy bại nhục, chính là hạng thuyền khổng lồ ở đương thời, người ta gọi là tàu trận.
Lịch sử nước ta, từng có nhiều đoạn chứng tỏ ra thủy sư cần dùng và đắc lực.
Từ lúc Đinh Tiên Hoàng dựng lên nước Đại Cồ Việt tự cường độc lập trở đi, có lẽ không triều vua nào sao nhãng công việc xếp đặt tập rèn thủy chiến, không có thời đại nào không thường có việc chinh chiến trên mặt nước.
Đời nhà Lý, danh tướng Lý Thường Kiệt, sau khi sang tận nội địa Tàu đánh thắng quân Tống ở châu Ung châu Khâm, mấy phen đem binh vào miền Nam chinh phạt Chiêm Thành, vẫn dùng chiến thuyền vận tải binh lương và dò đường bể đánh tới.
Đến đời nhà Trần, hai phen Hưng Đạo Vương đánh thắng quân Mông Cổ, ai cũng biết thủy sư giúp sức vào một phần rất lớn. Nhờ có thủy sư của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đánh chẹn ở ải Vân Đồn (tức Vân Hải ở Quảng Yên ngày nay) cướp phá mấy chục hộc lương của giặc khiến cho quân gia Thành Cát Tư Hãn và Hốt Tất Liệt đã từng vẫy vùng gầm thét tới Châu u, mà khi muốn sang nuốt sống Việt Nam bé nhỏ này thì như cổ phải mắc xương, đầu đụng vào núi đá. Mấy tháng sau, Hưng Đạo Vương bắt được cả bọn Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp ở trận Bạch Đằng giang, đuổi hẳn quân Nguyên ra khỏi bờ cõi cũng là công lao thuyền chiến và lính thủy.
Từ đấy, thủy sư ta càng thấy quan hệ cần dùng và mỗi đời lo mở mang thêm nhiều ít.
Hồ Quý Ly, năm 1400, đóng những chiến thuyền hạng to, ở trên có sàn phẳng đi lại, dưới để riêng cho người chèo chống, rất tiện lợi cho việc hành binh và chiến đấu. Vì lúc đánh nhau với giặc, thủy binh tự do huy động trên sàn, không vướng vít gì với những tay chèo bên dưới. Cái sáng kiến họ Hồ đời ấy đáng kể là tài, cũng như chiến hạm của các nước văn minh sau này cốt làm sàn tàu rộng rãi, để đặt súng ống và lấy chỗ cho quân lính huy động tác chiến dễ dàng vậy.
Vua Lê Thánh Tôn (1460 - 1497) định ra quân lệnh về việc thủy chiến cả thảy 31 điều, để rèn tập binh lính và đốc thúc họ phải thao diễn thủy trận luôn luôn.
Đến thế kỷ 17, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, coi nhau như cừu địch, đến nỗi trong khoảng hơn bốn chục năm (từ 1627 đến 1672), hai bên huyết chiến trước sau bảy lần, có nhiều lần đánh nhau cả trên bộ lẫn dưới thủy. Mặc dầu gà cùng chuồng đá lẫn nhau, sự kinh nghiệm chiến đấu cũng giúp cho thủy sư ta tấn hơn trước. Lúc này thuyền chiến của hai bên đã có đặt súng thần công đại bác và dùng thuốc đạn của Tây phương hoặc tự chế tạo cũng có. Ta nên nhớ năm 1614, có người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã đến Huế mở lò đúc súng cho chúa Nguyễn, chính nơi gọi là Phường Đúc ngày nay.
Trận hải chiến với Hòa Lan mà chúng tôi muốn kể chuyện, diễn ra vào giữa thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh đó.
IMột hòm đầu sọ và mũi lõ
Cuối năm Quý Mùi (1643), triều vua Chân tôn nhà Lê, chúa Thanh Đô vương Trịnh Tráng một hôm đang ngồi giữa công phủ cùng chư tướng bàn soạn việc đánh xứ Nam, bỗng thị vệ vào bẩm có sứ của Nguyễn chúa ở Thuận Hóa sai đem ra kính dâng một hòm quà Tét.
Giữa lúc đó Nam triều, Bắc triều đã tuyệt giao và coi nhau như địch quốc tử thù, cách mấy năm lại đem binh đánh nhau một phen long trời lở đất ở khoảng sông Gianh. Thì mới sáu bảy tháng trước, quân Trịnh kéo vào đánh xứ Nam, nhưng tiết trời nóng quá, binh lính mắc bệnh chết nhiều, nên vừa mới rút về xong. Bây giờ, tự dưng Nguyễn chúa sai người tặng quà như thế, Thanh Dô vương không khỏi lấy làm kinh nghi.
Món quà xứ Huế là quà gì?
Kẻ thù muốn dùng kế bỏ thuốc độc ta chăng?
Nhưng khi mở hòm ra xem, thì vật đựng bên trong, chẳng phải độc dược hay quà bánh gì cả, trên hết là một phong thư chỉ viết có mấy chữ, rồi đến mấy chiếc đầu lâu và bảy cái mũi người, không hiểu cắt từ bao giờ và ướp ủ cách nào, mà từ Huế đưa ra Thăng Long, vẫn còn hầu như nguyên vẹn. Thoạt nhìn, ai cũng nhận biết ngay được là đầu mũi người Tây phương. Mấy hàng chữ, đại ý như sau này: “Này Trịnh Tráng! Quân lính tinh nhuệ nhà ngươi trông nhờ là đây. Nhà ngươi hãy nghe lời ta khuyên nhủ: Bây giờ phải tìm lấy những ai giúp đỡ cừ khôi hơn kìa, cho được có thể noi gương bắt chước ta như cuộc thắng trận này” [1]
Thanh Đô vương vừa thẹn vừa tức lộn ruột, chửi mắng rằm rì, quát tháo điệu cổ sứ giả Nam triều vào đây: ý muốn chém nó cho hả lòng.
Lính chạy ra đòi sứ giả Nam triều vô hầu, thì sứ giả Nam triều đã biến đâu mất rồi; bổ tìm khắp nơi không thấy.
Thì ra sứ giả Nam triều đã cải trang tẩu thoát, ngay sau khi làm xong nhiệm vụ chuyển đệ cái hòm quà chết khiếp.
Trịnh Tráng càng nghĩ càng giận; sao mà Nam triều lắm người mưu mẹo trí trá khéo thế? Ông nhớ lại mười mấy năm trước đã có lần Nguyễn chúa sai đem ra cái mâm có đáy, bên trong giấu đạo sắc của Bắc triều đã phong cho mình, cố trả lại Bắc triều, tỏ ý nay mình độc lập và chống với họ Trịnh. Cũng kèm theo miếng giấy viết bốn câu ẩn ngữ ấy, tóm lại là: Ta không nhận sắc. Đến khi tìm đòi sứ giả thì sứ giả đã lỏn ra khỏi Thăng Long, xuống thuyền về Nam rồi. Ngày nay lại diễn tấn tuồng bí mật ấy nữa, chỉ khác là cái hòm dựng toàn đầu mũi người và mấy hàng chữ đắng cay như đấm vào mặt.
Nhưng mà những đầu và mũi Tây dương ấy ở đâu ra? Vì sao mà có? Tại sao lại gửi ra cho chúa Trịnh? Trả lời mấy dấu hỏi đó tức là thuật lại tất cả một vụ án nội tranh ngoại chiến ở nước ta, giữa khoảng thập thất thế kỷ.
Vụ án có thể nói là ly kỳ, thú vị, có quan hệ đến lịch sử ngoại giao, thế mà sử ta không chép được đầy đủ cho bằng những tài liệu của giáo sĩ và thương nhân nước ngoài.
Trước hết, chúng ta hãy đọc đoạn sử dưới đây, chép trong “Đại Nam thực lục tiền biên” quyển 3, trang 8 và 10, về đời ông Nguyễn Phúc Lan làm chúa miền Nam, tục gọi là chúa Thượng (1635-1648).
“Giáp Thân, năm thứ 9 [2].
Thế tử Dũng lễ hầu (sau nối ngôi tức chúa Hiền) đánh phá giặc Ô Lan ở bể Nại Hải.
Lúc bấy giờ, thuyền giặc Ô Lan đỗ ngoài khơi, cướp bóc những khách buôn bán; lính tuần bể tâu bảo, chúa đang bàn định đi đánh. Thế tử liền mật báo cho Chưởng cơ Tôn Thất Trung, ước hẹn đem thủy quân ra đánh giặc.
Trung nghĩ chưa có lệnh chúa bảo đánh, cho nên ngần ngại chưa xuất binh. Thế tử bèn tự đem chiến thuyền bản bộ thẳng tiến một mình. Trung bất đắc dĩ phải dẫn thủy quản đi theo. Ra đến cửa bể, thấy chiến thuyền của Thế tử đã phóng ra ngoài khơi; Trung cầm cờ ra hiệu vẫy lại, nhưng Thế tử mặc kệ, cứ tiến.
Thành ra Trung phải đốc thúc thủy quân tiến theo. Chiến thuyền sau trước, vùn vụt như bay. Giặc thấy cả sợ, nhắm phương Đông mà chạy.
Một chiếc thuyền giặc to nhất còn chậm ở sau. Thế tử truyền lệnh vây bắn. Tướng giặc thế cùng, nổi lửa đốt thuyền mà chết.
Thế tử thu binh trở về.
Ban đầu, chúa nghe tin Thế tử tiến binh ra khơi một mình, lấy làm sợ hãi lập tức đem đại binh đi tiếp ứng. Vừa đến cửa bể, đã trông thấy xa xa ngoài khơi, khói đen bay lên ngất trời, vội vàng thúc quân tiến ra, thì tiếp được tin báo ta thắng trận. Chúa lui quân về bờ bể để đợi: khi Thế tử lên bái yết, chúa giận mà trách:
- Mi là Thế tử, sao dám khinh thân, không biết giữ gìn như thế?
Lại trách Trung chưa bẩm mệnh đã xuất binh. Trung tạ tội, rồi thuật lại trận đánh này, Thế tử anh dũng, không ai bì kịp.
Chúa cười và phán: Tiên quân ta ngày xưa từng phá được giặc bể, ngày nay con ta cũng vậy, ta không phải lo gì nữa.
Nói đoạn, trọng thưởng cho tướng sĩ rồi ngự giá về cung”.
Đấy là đoạn sử ghi chép trận đánh nhau trên bể giữa thủy quân ta với chiến thuyền Hà Lan (Hollande, ta dịch là Ô Lan), mà Hà Lan bại trận: một chiến thuyền hạng lớn tự đốt, còn mấy chiếc kia bỏ chạy tản lạc.
Những đầu lâu mũi lõ, chúa Nguyễn gửi ra chúa Trịnh, như chuyện nói trên đây, chính là đầu mũi người Hà Lan cắt lấy ở đám tù binh và xác chết trong trận hải chiến này.
Có điều sử ta nói trận đánh vào năm Giáp Thân, đối chiếu dương lịch là năm 1644. Theo những tài liệu đáng tin và ngày nay hãy còn, từ người Hà Lan tới lui buôn bán ở nước ta đời bấy giờ, cho đến nhà đương cuộc của họ ở Nam Dương quần đảo, đều nhìn nhận có sự thua trận, nhưng họ để vào cuối năm 1643 tức năm Quý Mùi.
Hai nguồn khác nhau về năm trên năm dưới, và cùng không biên rõ ngày tháng; chúng ta không thể quyết định nguồn nào đúng hơn, chỉ biết rằng trận hải chiến ấy quả có, mà chiến thuyền Hà Lan quả thua, là sự hiển nhiên, không chối cãi được.
Nhưng, chiến thuyền Hà Lan kéo đến cửa bể nước ta làm gì?
Vì sao đến đánh nhau? Có phải thật vì lý do “cướp bóc khách buôn” như sử chép không?
Trận đánh nhau diễn ra làm sao?
Tình cảnh chiến thuyền Hà Lan thua trận ra thế nào?
Phía ta có thiệt hại gì không?
Những vấn đề thiết yếu như thế, chắc hẳn không một người Việt Nam nào không thắc mắc muốn biết. Nếu các nhà chép sử mình bỏ qua, chúng ta có thể mượn nguồn tài liệu nước ngoài mà thấy được ít nhiều ánh sáng.
II
Sự lườm nguýt giữa các chú lái buôn
Phố Hội An hay Fai-fo, tỉnh lỵ Quảng Nam bấy lâu, chính là một thương cảng phồn thịnh đầu hết của nước ta.
Nguyên xưa chỉ là một cái chợ nhỏ, hằng năm đến mùa sóng êm gió lặng, thì có ghe thuyền người Tàu, người Nhật, chở hàng hóa đến bán cho ta, rồi mua sản vật ta đem đi. Công cuộc giao dịch tấp nập độ vài tháng, chợ nhỏ ấy trở lại quạnh hiu tẻ vắng cho đến mùa gió năm sau.
Giữa thế kỷ 16, ông Nguyễn Hoàng vào trấn thủ tại Thuận Hóa và Quảng Nam, nhận thấy Hội An có thể là địa điểm kinh tế tiện lợi cho xứ mình, nếu mở mang to ra chẳng những giúp ích sinh kế của dân, lại thêm dồi dào cho công khố vào khoản thu nhập thuế má. Ông bèn khuếch trương cái chợ nhỏ ấy thành ra phố phường; cấp đất cho người Tàu, người Nhật đến làm nhà, mở cửa hàng cửa hiệu buôn bán vĩnh viễn, lại cho họ được rộng quyền xử trị lấy nhau. Chủ ý chúa Nguyễn là cốt chiêu tập người ngoại quốc đến sinh tu kinh doanh ở đấy cho đông.
Không bao lâu, dọc theo bờ sông dựng lên mấy dãy phố sầm uất. Khu này của người Nhật, khu kia của người Tàu, gần như riêng biệt. Người Nhật làm chùa, bắc cầu, đến nay hãy còn di tích. Hội An lúc đó lại như một trạm nghỉ chân cho những ghe thuyền Mã Lai, Xiêm La, từ Nam Hải đến Trung Quốc và ở Trung Quốc trở về, thường phải ghé đó, hoặc để ăn hàng, hoặc để tránh gió bão.
Trong thời gian ấy người Âu châu có những phương tiện đi bể tấn tới hơn, đã tìm ra con đường đi vòng Hảo Vọng giác (Cap de Bonne Espérance) mà vào Ấn Độ dương và thẳng tiến sang Viễn Đông. Mục đích là để tìm đất để thông thương, truyền giáo và để xâm lược. Vì lẽ sinh tồn trục lợi họ tranh nhau đi; cánh buồm sang Đông càng ngày tấp tới như đi họp chợ.
Lúc thuyền Tây dương đưa những lái buôn và cố đạo tiên phong đến nước ta, hải cảng Hội An tức là nơi tiếp đón họ trước nhất. Rồi từ đấy, họ mới ra Bắc Hà. Mãi sau mấy chục năm, xứ Bắc mới có Phố Hiến làm chỗ tụ họp buôn bán riêng cho ngoại kiều.
Hội An thu lợi cho chúa Nguyễn khá nhiều. Xem trong sử chép thì một thuyền buôn khi đến khi đi đều phải nộp thuế, tùy theo quốc tịch và số hàng hóa ít nhiều mà định. Thuyền Tây dương ra vào đóng thuế nhiều nhất. Theo lệ mỗi thuyền vào bến, thường có món quà biếu chúa; hàng hóa đem đến phải để xem nhà nước có cần thì mua trước đã, rồi mới được bán ra ngoài. Sử chép về khoản thuế đánh thuyền buôn, năm nào xoàng lắm cũng thu được 10.000 quan tiền, năm khá thì trên ba vạn mà phần nhiều là nhờ phần đóng góp của những thuyền buôn từ Tây phương đến.
Trong số lái buôn Tây dương đến buôn bán ở đất chúa Nguyễn, sớm nhất là người Bồ Đào Nha, nối gót là người Hà Lan, sau mới đến người Anh, người Pháp.
Thương nhân Bồ đến Quảng Nam cũng như ra Bắc Hà, không cần mở cửa hàng cửa hiệu nhất định tại chỗ, như thương nhân Hà Lan hay các nước khác. Họ đã có đảo Ma Cao - tức Áo Môn gần Hương Cảng - làm nơi căn cứ, hằng năm đến khoảng tháng Một, tháng Chạp, thì cho năm ba chiếc thuyền chở hàng đến Hội An bán; chừng nào bán hết, mua sản vật xứ ta đem đi. Tại Hội An, họ chỉ để một vài người đại biểu thu xếp mọi việc giao dịch sẵn sàng trước khi có thuyền ở Ma Cao sang, thế là đủ. Có lẽ vì cách buôn bán qua đường như vậy, mà người Bồ không hay có sự gì xung đột với quan dân ta, cũng không bị ngờ vực có giả tâm dòm ngó gì khác hơn là theo đuổi công việc thương mại.
Hay là vì người Bồ lúc ấy ở bên Âu châu đã xuống vai thất thế, bị bẹp cho nên đi ra thiên hạ phải giữ vẻ nhún nhặn, chỉ cốt yên ổn kiếm ăn chăng?
Trái lại, người các nước kia ỷ mạnh, nhất là Hà Lan đương thời vào hạng hùng cường đáng kể, đến đâu cũng muốn đòi nhượng địa, đòi trị ngoại pháp quyền, không thì cũng tỏ ra những cử chỉ vụng về hoặc có ý cường tân áp chủ, khiến cho người ta phải sinh nghi kỵ.
Hẳn có bạn đọc tưởng rằng người Tây dương thi nhau vượt qua muôn trùng sóng gió, đi buôn bán ở đất xa, thế nào lại chẳng nghĩ tình đồng châu, đồng chủng mà thân thiện bênh vực nhau?
Được thế thì chẳng còn phải nói!
Kỳ thật, họ chia rẽ thù nghịch nhau chán ở chốn quê nhà, ở Âu châu rồi, đến sang Mỹ châu, hết sang Mỹ châu qua Ấn Độ tới Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, bất cứ đến đâu trục lợi mưu sinh, hễ đụng đầu chạm trán nhau, thì người nước nọ cũng kể vạch cài bẫy người nước kia, hoặc vì thù riêng, hoặc tranh mối lợi. Ví dụ ông lái Bồ đâm thọc bạn đồng nghiệp Hà Lan trước mặt vua quan nước ta, cùng như thương nhân Hà Lan nói xấu người Y Pha Nho khiến cho nhà cầm quyền Nhật Bản ngờ vực; hay là các công ty buôn của Anh - Pháp âm thầm hất cẳng nhau ở Ấn Độ và Trung Quốc. Thì ra các ông ấy bề ngoài tuy tay bắt mặt mừng, nhưng bề trong xỏ ngầm nhau, muốn giết nhau đáo để. Hình như vì lẽ cạnh tranh sinh tồn và quyền lợi xung đột, mà thiên tính loài người khiến nên như thế, dù cho người xứ văn minh cũng chẳng tránh khỏi; không chừng lại còn tệ hơn.
Người Bồ đến Quảng Nam kinh doanh thương nghiệp một cách chuyên chú từ đầu thế kỷ 17, không mấy chốc người Hà Lan cũng tìm đến, vì họ nghe tiếng Quảng Nam sản xuất tơ, đường, hồ tiêu, khá nhiều, mà các thứ quân nhu như diêm sinh, lưu hoàng, súng đạn thì có bao nhiêu đem tới đó bán cũng hết.
Giáo sĩ Borri, người Ý biết rõ tình trạng của các ngoại thương lui tới buôn bán ở nước ta hồi bấy giờ, - và sự nhận xét, lời phê bình của ông chẳng thế nào nghi được là thiên vị, - nói rằng người Bồ lấy làm bất mãn khi họ trông thấy chú lái Hà Lan vác cần câu đến câu chõ một ao với họ. Thôi thì các ông tìm đủ mánh khóe đâm thọc để cho người Hà Lan bị quan dân sở tại thù ghét, ngờ vực.
Đến nỗi đương cuộc Bồ ở Ma Cao chẳng ngần ngại sai viên thuyền trưởng Ferdinand de Costa là người đã quen thuộc đường lối, đi sứ sang Quảng Nam khẩn cầu nhà đương cuộc ta nên tống cổ thương nhân Hà Lan đi, bởi Hà Lan là kẻ thù bất cộng đới thiên của họ.
Theo tài liệu người Bồ, điều khẩn cầu ấy gặp nhiều khó khăn, nhưng sau cũng có kết quả: có một lúc, Trấn thủ Quảng Nam đã ra lệnh cấm người Hà Lan buôn bán ở Hội An.
Giáo sĩ Borri lại cho chúng ta biết rằng: người Bồ tuy thu được kết quả như thế cùng chưa vừa lòng, còn phái một sứ bộ nữa đến kinh thành Huế bày tỏ với chúa Nguyễn, một hai xin ngài phải đề phòng người Hà Lan cho lắm mới được, vì giống người ấy nham nhiễm, tham lam có tiếng, nếu ngài không coi chừng, thì e sợ họ dần dà sẽ xâm lược đất nước của ngài như cách họ đã làm ở Nam Dương kia vậy.
Người Bồ đẩy cây kẻ thù bằng những miếng đòn thế ấy, kể thật khôn ngoan độc ác. Nhưng chú lái Hà Lan cũng không kém cạnh gì. Để trả miếng nhau, chú lái Hà Lan cũng khéo cài bẫy đâm thọc làm cho thương nghiệp của người Bồ chẳng mở mặt ngóc đầu được ở đất Bắc ta cũng như ở Nhật Bản.
Lái buôn các nước Tây dương đem thân sang đây kiếm ăn không những ngấm ngầm phá đám lẫn nhau đại khái như kiểu vừa nói, lại còn tổ chức những cuộc đón đường bóc lột của nhau trên bể là sự thường thấy. Bọn chuyên môn cướp bể gọi là đàn chó bể (Les chiens de mer), đã hoành hành một độ khá lâu nhất là ở eo bể Mã Lai và quanh vùng hải phận nước ta. Những thương thuyền Bồ, Hà đi về qua đấy mà bị mất cướp hoặc cướp lẫn nhau hằng năm chẳng biết bao nhiêu là vụ.
Cũng vì đó mà khi buôn bán gặp gỡ trên mặt đất xứ sở nào thì hàng thịt nguýt hàng cá, họ càng xem nhau như cừu địch, cố tìm cách kẻ vạch để đánh đổ kẻ xung đột quyền lợi với mình.
Sự thật, chúa Nguyễn đối với người Bồ cũng có nhiều cảm tình và tỏ lòng tin cậy, là vì họ có công tiếp tế quân nhu khí giới cho xứ Nam chống với xứ Bắc lúc bấy giờ. Cho nên họ nói đắt lời không lấy gì làm lạ.
Nhưng chúa Nguyễn nào phải người tầm thường đến nỗi thiên về cảm tình riêng mà quên cả lợi quyền to tát của nhà nước. Lợi quyền ấy là mở toang thương cảng, dung nạp bất cứ thuyền buôn, lái buôn nước nào đến giao dịch, để mà thu thuế, càng nhiều càng hay. Ví phỏng ai có dã tâm thì ta đề phòng và trừng trị, chứ sao lại chiều đài người nọ hất hủi người kia.
Bởi vậy, ông lại gửi thư sang cho công ty Hà Lan ở bán đảo Malacca tỏ bày rằng vịnh bể Quảng Nam rộng rãi yên ổn, thương cảng Hội An tụ họp ghe thuyền các nước lui tới rất đông; phố phường và cửa hiệu người Tàu, người Nhật, người Bồ, buôn bán vui vẻ đông đúc; trong xứ sản xuất đường và tơ hảo hạng. Vậy người Hà Lan nên đến đây mà kinh doanh thương nghiệp. Họ tất được hoan nghênh và sẽ gặp những sự dễ dàng tiện lợi.
Đáp lại cái thịnh tình ấy, hai chiếc thuyền Hà Lan tiện đường ở Nhật Bản về ghé vào Hội An xem xét địa thế trước rồi đến đầu năm 1637, một cửa hiệu Hà Lan mở ra tại Hội An do Araham Duy Kê (Abraham Dujcker) đứng quản lý.
Người Hà Lan được nhà đương cuộc ta tiếp đãi cực niềm nở lại đinh ninh hứa hẹn rằng: từ đây họ hoàn toàn tự do trong cuộc giao dịch, vả lại sau này nếu có chiếc thuyền nào của Hà Lan rủi ro xiêu đạt vào bờ bể Quảng Nam, dù trong thuyền chở bao nhiêu hàng hóa cũng được gia ân miễn thuế.
Ngoài ra, nhiệm vụ đến Hội An mở cửa hiệu và đứng trông nom công việc mua bán, Duy Kê lại được ủy quyền đòi hỏi nhà đương cuộc ta một món tiền.
Nguyên hồi mấy năm trước, có một chiếc thuyền Hà Lan bị gió bão đánh đắm ở nhóm cù lao Hoàng Sa (giữa biển khơi xế Đà Nằng trông ra). Thủy thủ may có bạn chài lưới Việt Nam cứu thoát, nhưng còn món tiền 23.580 đồng vàng, thì anh em lấy mất không trả. Nay Duy Kê xin nhà đương cuộc ta truy tầm hộ để trả lại công ty Hà Lan.
Chẳng rõ bọn chài lưới bỏ túi hay đem về nộp kho, nhưng quan trấn thủ Quảng Nam trả lời rằng, việc đời tiền triều lâu ngày lắm rồi, bây giờ khó truy tầm, thôi thì đừng nói đến nữa. Chỉ biết từ hôm nay người Hà Lan được biệt đãi và có tự do thông thương như điều kiện trên đây đã nói.
Xem thế thì thương nhân Hà Lan cũng được chúa Nguyễn dung nạp và đối đãi tử tế, mặc dầu có lời kẻ vạch kia khác của kẻ thù họ là người Bồ.
Nhưng rồi không khỏi có những chuyện rắc rối xảy đến chém giết, giam cầm, báo thù gây oán, đưa tới trận hải chiến tai hại và mất thể diện cho người Hà Lan là tại làm sao!
Cố nhiên trò đời không lửa làm gì có khói.
Từ đầu năm 1937 đến cuối năm 1942
Giữa lúc ấy Nam triều và Bắc triều đương coi nhau như địch quốc.
Ai đọc sử hẳn nhớ về giữa thập thất thế kỷ, từ 1627 đến 1672, trước sau 45 năm, họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau dữ dội bảy lần. Đôi bên xây pháo đài chiến lũy ở Hà Tĩnh, Quảng Bình, cầm cự nhau, thường ngày có những sự tiếp xúc nho nhỏ không kể.
Khởi từ 1627 cho tới lúc người Hà Lan mở cửa hiệu tại Hội An (1636), hai họ Nguyễn, Trịnh chiến tranh đã trải mười năm và hiện đương dưỡng sức rèn quân để tiếp tục đánh nhau nữa.
Tuy nhiên, cuộc buôn bán giữa Nam - Bắc không vì tình trạng chiến tranh mà bị gián đoạn. Nhất là với thương nhân ngoại quốc.
Hàng năm, người Bồ ở Ma Cao vẫn phái thuyền sang Hội An cũng như ra Bắc, bán hàng đi rồi mua tơ về, được nhà cầm quyền ở hai nơi đối đãi niềm nở. Vì cả chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn cùng mong có thuyền Tây dương đến bán cho mình các thứ quân hỏa cần dùng. Không vậy thì cả hai ngài cùng thiếu khí giới để choảng nhau. Thuốc đạn và kiểu súng đại bác phương Tây lúc ấy được hoan nghênh nhất. Thương nhân Hà Lan cũng vậy. Năm 1636, họ lập xong cửa hiệu ở Hội An, nghĩa là phần đất chúa Nguyễn. Qua năm sau, 1637, họ phái hai chiếc thuyền chở tới 19 vạn bạc hàng hóa ra Bắc và 2 khẩu súng thần công để hiến chúa Trịnh, mục đích chẳng qua muốn được thông thương.
Chúa Trịnh sai mười chiếc thuyền đi rước phái đoàn thương mại Hà Lan và chở cả hàng hóa lên kinh đô Thăng Long, tiếp đãi rất ân cần, rồi cho phép họ mở hiệu buôn bán ở Phố Hiến gần Hưng Yên. Thâm ý Trịnh Tráng muốn ve vãn Hà Lan cứu giúp mình, vì lúc trước ông định cầu người Bồ, nhưng sau thấy họ đối với chúa Nguyễn có cảm tình không thể nào phai nhạt được, thành ra ông xoay ra mong mỏi vào người Hà Lan.
Ông Charles Maybon tác giả quyển “Việt Nam hiện đại sử” (Histoire moderne du pays d’Annam) có đoạn tự thuật người Âu châu giúp chúa Trịnh và chúa Nguyễn từ 1620 đến 1647 ra thế nào? Ấy tức là thời kỳ Nam Bắc chiến tranh.
Người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn rất nhiều. Ta nên nhớ rằng đầu thế kỷ 17, thuyền buôn Tây dương đến nước ta trước nhất, là đến xứ Nam và là thương nhân Bồ. Họ đặt chân lên đất nước này trước hơn cả giáo sĩ Dòng Tên (Les Jésuites). Có một người lai Bồ tên là Jean de Croix đã tới Huế lập ra một xưởng chế súng đại bác cho chúa Nguyễn. Chỗ ấy nay còn dấu tích gọi là Phường đúc. Nhiều khẩu đại bác chế tạo hồi đó hãy còn để ở kinh thành cho tới khi có trận đánh úp quân Pháp do Tôn Thất Thuyết điều khiển (ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu, tức 5 Juillet 1885).
Ngoài ra, người Bồ còn chở đến các thứ vật liệu chế tạo đạn dược cho chúa Nguyễn, cả súng tay và súng đại bác từ bên Tây đưa sang sửa.
Tuy không có chứng cớ gì để quyết đoán rằng lúc bấy giờ người Bồ giúp cho chúa Nguyễn, cả chiến sĩ và nhà chuyên môn để huấn luyện binh lính giúp ngài, nhưng mà những sự ấy cũng có thể có.
Giáo sĩ A. de Rhodes thuật chuyện rằng có một trận Nguyễn - Trịnh đánh nhau, Nam quân dùng rơm làm thành hình nhân mặc áo cầm súng y như người Bồ, khiến Bắc quân mắc lừa, phải chạy tán loạn. Vậy thì trước đây hẳn trong Nam quân phải có người Bồ dự vào hàng ngũ và đánh hăng lắm, cho nên Bắc quân lần này mới mắc mẹo như thế.
Chúa Trịnh vẫn sợ phe đối địch của mình có ngoại viện chính là người Bồ, theo bản ký sự của cố Baldinetti.
Thương nhân Bồ cho ông đáp thuyền đi ra xứ Bắc đều bị tình nghi là do thám, đến nỗi chúa Trịnh bắt buộc họ thề mới được tha. Các giáo sĩ đến xứ Bắc thuở ấy đều nói rằng mỗi khi có thương nhân Bồ đến Kẻ Chợ (tức Hà Nội), chúa Trịnh lấy làm vui mừng và tiếp rước niềm nở. Trong ý mong mỏi người Bồ giúp đỡ vì ông đã nghe chuyện bên Tàu, lúc nhà Minh chống cự Mãn Thanh được người Bồ ám trợ nhiều lắm.
Nhưng rồi Trịnh Tráng thấy rõ các chú lái buôn này chỉ hứa hẹn khôn ngoan, chẳng chịu thực hành cứu viện như ông mong mỏi. Vả lại, họ tỏ vẻ không quên cái tình giao hảo lâu năm với chúa Nguyễn, thành ra Trịnh Tráng đem cả hy vọng đặt vào thương nhân Hà Lan, nhân dịp năm 1637, có thuyền buôn Hà Lan ra Bắc xin thông thương.
Viên trưởng đoàn Hà Lan lúc đó tên là Hạc Sinh (Hartsingh). Nhật ký ông này viết rất tường tận về cuộc tiếp đãi của chúa Trịnh. Chúa vui lòng cho người Hà Lan thông thương và lập cửa hiệu ở Phố Hiến.
Mấy hôm sau, chúa sai người thân tín đến tận nhà trợ Hạc Sinh cật vấn tình trạng trong Nam và hỏi cả thực hư về chuyện người Hà Lan đòi chúa Nguyễn 23.580 đồng tịch thu ở một chiếc thuyền đắm năm xưa. Câu hỏi ấy tỏ ra chúa Trịnh có cách thám thính và biết nhất cử nhất động của bên địch.
Về phía chúa Nguyễn cũng thế. Rồi ta xem chuyện dưới đây sẽ biết.
Sau hết - điều này cần nhất - Chúa Trịnh hỏi Hạc Sinh rằng: Công ty thương mại Hà Lan có thể nào và có sẵn lòng viện trợ xứ Bắc trong cuộc chiến tranh với xứ Nam không?
Muốn cho được việc buôn bán của mình, cố nhiên Hạc Sinh trả lời nửa úp nửa mở, lấy cớ rằng thượng cấp ở Batavia (Nam Dương quần đảo) mới đủ thẩm quyền quyết định.
Hạc Sinh đối đáp như thế là phải. Ví bằng nói có thể thì là trái với nhiệm vụ mình chỉ là viên giám đốc hãng buôn mới lập ở xứ Bắc, không đủ tư cách ưng thuận một việc quan hệ như thế. Ví bằng nói không hẳn, thì e chúa Trịnh bất mãn và thất vọng, thì việc buôn bán của Hà Lan chẳng khỏi chịu ảnh hưởng khó khăn thiệt hại. Nói rằng quyết định việc ấy thuộc quyền thượng cấp ở Batavia, chính là trả lời khôn khéo và đúng sự thật.
Nhưng câu trả lời của Hạc Sinh đã mở rộng cửa hy vọng cho chúa Trịnh. Người ta thấy hai ba lần ông viết thư cầu viện - có bức thư đứng tên vua Lê Chân Tôn - gửi tới viên Tổng đốc Hà Lan ở Nam Dương. Chúa Trịnh lại thường phái sứ đoàn đáp thuyền Hà Lan sang tận Batavia giao thiệp. Có lần chính chiếc thuyền chở sứ đoàn Bắc triều lại ghé vào bến Hội An đổ hàng mấy ngày. Người Hà Lan đã làm một việc khờ dại hay là tự phụ thái quá.
Không cần biết chúa Trịnh có được Hà Lan giúp đỡ cho chăng và giúp đỡ những gì? Có điều xứ Bắc ngỏ ý cầu viện Hà Lan thế nào, mấy phen sai sứ đi về ra sao, nhất nhất chúa Nguyễn do thám mà biết tới chân răng kẽ tóc.
Chẳng có thì người Bồ, kẻ thù bất cộng đái thiên của Hà Lan, cũng thóc mách cho nhà cầm quyền Nam triều biết. Thêm vào đó, thương nhân Hà Lan lại có những cử chỉ ỷ mạnh làm càn, thành ra hiệu buôn và kiều dân họ gặp bước khó khăn rồi đưa tới chỗ kết thúc là trận hải chiến năm Quý Mùi mà chính họ bị hại.
Theo tài liệu Hà Lan, Công Thượng vương, người Tây lúc bấy giờ gọi chúa Nguyễn Phúc Lan như thế, bởi ngài tục danh là Chúa Thượng - không giữ lời hứa hẹn tha thuế cho thuyền Hà Lan bạt phong vào cửa bể xứ Nam, lại còn bắt giam thủy thủ là khác.
Thật thế, năm 1641, có hai chiếc thuyền buôn Hà Lan bị mắc cạn ở gần cù lao Chàm, Công Thượng vương hạ lệnh bắt gần hết thủy thủ mà giam vào ngục. Nguyên nhân không có gì khác hơn là nghi ngờ tức giận người Hà Lan giúp đỡ chúa Trịnh, kẻ thù số một của ông. Công cuộc buôn bán của họ bị làm khó dễ đủ thứ. Đã thế, họ còn hành động khiêu khích không coi quyền hành luật pháp trong xứ ra gì, đến nỗi gây ra lớn chuyện. Cùng trong năm 1641 ấy, cửa hiệu của họ ở Hội An bị đóng cửa.
Phải nói cửa hiệu bị đốt phá thì đúng hơn. Xem trong tập ký ức của giáo sĩ Vachet thì việc này lỗi tại người Hà Lan. Nguyên có một người bản xứ làm công trong hiệu bị ngờ lấy trộm hàng hóa, bọn Hà Lan trông nom cửa hiệu vớ được, chẳng thưa kiện và đưa cho nhà chuyên trách ta xét xử, lại tự do tra tấn đánh đập người ấy cho tới chết. Quan trấn thủ Quảng Nam - chức này thường là một vị Thế tử được chúa tin dùng, - thấy người Hà Lan lộng quyền đến thế, không sao nín được, liền phát binh vây bọc cửa hiệu, khiêng cả hàng hóa bàn ghế đem ra đốt ngay giữa sân; còn vàng bạc cùng các thứ gì đốt không cháy thì đem ra bể mà đổ xuống. Còn chín người Hà Lan trong hiệu thì bắt hạ ngục, rồi ông thân hành về Kinh tâu bày và xin huấn lệnh. Chúa Nguyễn cho ông được quyền tiện nghi hành sự. Ông trở về trấn, điệu bảy người ra pháp trường chém đầu, còn hai người thì được tha chết mà cho đáp thuyền khách về Batavia, để tường trình công việc này cho bọn đồng bang họ biết.
Qua đầu năm sau 1642, một chiếc thuyền Hà Lan do Lịch Viên (Van Liesvelt) cai quản từ ngoài Bắc đi vào đỗ ở bến Hội An. Trên thuyền có mấy vị sứ thần chúa Trịnh phái đi Batavia, chắc hẳn cũng vì sự giao thiệp cầu viện. Lúc đó, chúa Trịnh đang sửa soạn lại cử đại binh vào đánh xứ Nam, tự nhiên cần dùng quân nhu khí giới của nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương tiếp tế.
Trong ý Lịch Viên tưởng chắc có thể che nổi tai mắt của Công Thượng vương, cho nên không ngần ngại ghé thuyền vào bến Hội An, một là để xem cửa hiệu tại đó năm ngoái bị đốt phá ra sao, hai là muốn xin nhà đương cuộc ta trả lại tự do cho những thương nhân thủy thủ hai chiếc thuyền mắc cạn ở cù lao Chàm năm nọ, hiện đang bị nhốt trong ngục Quảng Nam.
Bọn này thông tin ra ngoài, yêu cầu Lịch Viên mua chuộc tự do của họ bằng cách trói phăng sứ đoàn họ Trịnh mà nộp chúa Nguyễn; nhưng Lịch Viên cho là cách bất nghĩa, không chịu làm thế. Về phần Công Thượng vương, hẳn là dọ biết trên thuyền Hà Lan có chở sứ đoàn họ Trịnh, nên chi ông lấy làm bất bình, nhất định không tha, bọn lái buôn và thủy thủ Hà Lan mà ông cầm tù bấy lâu. Lịch Viên đành nhổ neo mà đi Batavia.
Chẳng rõ vị thuyền trưởng này về Batavia báo cáo với thượng cấp ra sao, mà Công ty Hà Lan quyết kế lấy võ lực đối phó với chúa Nguyễn để giải thoát cho những người bị giam kia.
Ngay cuối năm ấy (1642) Công ty Hà Lan phái 5 chiếc thuyền chở 70 tên lính, 152 thủy thủ, từ căn cứ Batavia rầm rộ kéo sang Quảng Nam. Mỗi thuyền một tướng chỉ huy, trong số ấy chính Lịch Viên là một. Chắc vì Lịch Viên đã quen thuộc đường lối, nên Công ty lại ủy nhiệm đi hướng đạo, có chức vụ như là chủ tướng cầm quân đi trận vậy.
Đến nơi, Lịch Viên tưởng chắc ngon ăn lắm, thân dẫn một đội quân lên bộ, định xuất kỳ bất ý, chiếm lấy đồn canh của ta. Không ngờ bị quân ta đón đánh dữ dội. Lịch Viên và mười mấy chú lính Hà Lan bị giết tại trận.
Muốn báo thù cho anh em, một viên tướng khác, tên là Linh Ga (Van Linga), chém đầu hai chục người Việt Nam chẳng có tấc sắt hộ thân, mà quân Hà Lan bắt được ở các xóm chài lưới ven bể.
Linh Ga làm xong “thủ đoạn anh hùng” ấy rồi rút xuống thuyền, chứ không dám tiến sâu vào trong đất ta. Theo bức thư của viên Tổng đốc ở Batavia, đề ngày 12 Décembre 1643 phán đoán về cuộc thị oai này, có nhiều người trách tướng Linh Ga hèn nhát, sao không tiến bừa vào trong xứ, đánh cho quân đội chúa Nguyễn phải khiếp phục và nhượng bộ. Song nhiều người khác lượng thứ cho Linh Ga, bảo y cẩn thận là phải, vì binh lực đem theo ít quá, tiến vào sâu thì tất chết.
Khi thấy quân Hà Lan hành hung sát hại lương dân như thế, Công Thượng vương nổi giận, liền hạ lệnh xử tử một lái buôn Hà Lan trong bọn đang giam ở ngục thất, ý chừng để trả hờn cho bọn dân chài lưới chết oan kia.
Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Linh Ga lại đem quân xông vào các xóm hẻo lánh ven bể, bắt sống 108 người mình, đưa cả xuống thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc.
Người Hà Lan chuyến ấy đem binh lực đến uy hiếp chúa Nguyễn, đã hoàn toàn thất bại, chỉ có kết quả là đào sâu thêm cái hố cừu hận giữa chúa Nguyễn với họ mà thôi. Phải biết hồi bấy giờ Hà Lan là một cường quốc, đang làm bá chủ trên bể, đến Anh - Pháp cũng phải kiêng mặt, thế mà muốn ra oai với xứ Quảng Nam tẻo teo không xong, bị đốt phá tai hại, thêm bao nhiêu người đồng bang bị chúa Nguyễn chém giết, bao nhiêu người đang bị cầm tù mà chưa gỡ ra; họ nghĩ thế nào cũng phải có một chuyến khác “cử binh vấn tội” cho ra tuồng mới được.
Những việc có thể giải quyết bằng ngoại giao khôn khéo một chút, Hà Lan vì thể điện và tự thị sức mạnh, nhất định giải quyết bằng chiến thuyền đại bác.
Ta sẽ thấy kẻ tự thị sức mạnh, coi rẻ người ta, phải rước lấy bại nhục ra sao?
III
Sự phê bình của người Tây Dương
Việc phục thù, hẳn nhà đương cuộc Hà Lan ở Nam Dương sửa soạn chắc chắn lắm, cho nên mãi cuối năm sau, 1643 tức năm Quý Mùi, mới thấy thực hành.
Trong khoảng chờ đợi thời cơ phục thù trực tiếp, Hà Lan hãy phục thù gián tiếp, nghĩa là giúp đỡ xứ Bắc. Sau cuộc thị oai vừa mới thuật ở đoạn trên, “người Hà Lan bắt đầu công khai giúp đỡ họ Trịnh đánh họ Nguyễn”, theo như ông Charles Maybon tác giả “Việt Nam hiện đại sử”.
Linh Ga bắt sống 107 người trong làng xóm ven bể Quảng Nam, điệu cả xuống thuyền, rồi kéo buồm ra Bắc, cốt đem nộp chúa Trịnh chăng?
Người Hà Lan công khai giúp đỡ họ Trịnh như thế nào?
Nếu có, thì bất quá như người Bồ giúp đỡ chúa Nguyễn, tức là tiếp tế quân nhu khí giới, hoặc phái võ quan huấn luyện quân đội họ Trịnh là cùng, chứ không cho mượn thuyền tàu, như ý họ Trịnh cầu cứu.
Chứng cớ là hồi cuối tháng Tư năm 1643, có hai chiếc thuyền Hà Lan đến xứ Bắc. Lúc ấy, Trịnh Tráng đã rời khỏi Kinh đô, đem cả vua Lê đi theo, vào Quảng Bình cầm quân tiến đánh họ Nguyễn. (Lần này là lần thứ ba Nam Bắc chiến tranh).
Được tin phi báo có thuyền Hà Lan đã tới Kinh đô, Trịnh Tráng lập tức viết thư cho viên giám đốc hiệu buôn tại Kẻ Chợ, yêu cầu cho mượn hai chiếc thuyền mới đến, thêm một chiếc thứ ba hiện đỗ trên sông Nhị Hà, cùng chờ hộ lương thực vào cửa Nhật Lệ. Đồng thời, mượn cả viên Phó giám đốc Y sắc Đa Vit (Isack Davits) vào để cầm đầu thủy quân xứ Bắc ở sông Linh Giang.
Nhưng viên giám đốc Hà Lan làm ngơ không cho chiếc thuyền nào đi vào mặt trận. Đến mùa hè, vì tiết trời nóng quá, Bắc quân mang bệnh chết nhiều, họ Trịnh phải rút về; sử ta chép thế. Tuy nhiên, có bức thư đề ngày 19, tháng 8 dương lịch (khoảng tháng 6 ta) của vua Lê Chân Tôn gửi sang Batavia cho viên Tổng đốc Hà Lan, phiền trách về sự thất ước: Bắc quân trông đợi mấy chiếc thuyền ấy mà nó không đến, thành ra phải bỏ dở trận mạc mà lui về.
Vì chuyện ấy, bà con Kẻ Chợ tỏ ý bất bình với người Hà Lan, đến nỗi họ ngượng mặt quá, không dám bước ra khỏi cửa.
Mà ở Hội An, bà con xứ Nam, cũng biết cười người Hà Lan hèn nhát, và đem họ ra làm câu chuyện diễu cợt, khiến họ càng tức thêm.
Sự báo thù tuyết hận lại càng bức bách.
Liên tiếp mấy năm có việc xung đột với người Hà Lan, chúa Nguyễn tất liệu trước mọi sự bất trắc, nên chi lúc nào cũng lưu tâm về mặt Hải Phòng, lúc nào cũng sẵn sàng nghênh địch.
Khoảng cuối năm 1643 (ngay hồi tháng Mười bước qua tháng Mười một, năm Quý Mùi ta), ba chiếc binh thuyền hạng đại - lần này là chiến thuyền hẳn hoi, chứ không như lần trước, chỉ là thuyền buôn mà có võ trang nhiều ít - kéo đến đánh xứ Nam ta.
Ba chiến thuyền này từ căn cứ hải quân Hà Lan ở Jambee (Sumatra, cù lao to nhất trong nhóm Nam Dương quần đảo) tiến phát; tuy không thấy sử sách nào cho biết binh số bao nhiêu, khí giới những gì, nhưng chắc là đầy đủ lắm. Vì nhà đương cuộc Hà Lan phái đi đánh báo thù, để giữ lấy uy tín và thể diện một nước hùng cường phương Tây, hẳn không phải chuyện chơi.
Tổng tư lệnh là Đề đốc Pierre Baeck.
Đoàn tàu chiến Hà Lan - phải gọi là tàu chiến mới đúng, so sánh với chiến thuyền ta - đến cửa bể thì gặp ngay sáu chục chiếc thuyền trận bé nhỏ của ta xông ra vây đánh. Tướng chỉ huy tức là Thế từ Dũng Lễ hầu, con Công Thượng vương, hiện giữ trọng chức Trấn thủ Quảng Nam.
Mặc dầu bên địch khạc đạn như mưa, quân ta chia ra ba đạo, kháng chiến cực kỳ dũng mãnh. Những người quyết tử tiến vào tận nơi mà chĩa súng bắn, cầm lửa đốt, chặt bánh lái, đục sườn tàu, rồi quăng thang dây thi nhau trèo lên sàn tàu dùng đoản đao mà chém quân giặc, làm chúng kinh hoảng trốn chạy tứ tung. Đánh giáp lá cà, quân ta hăng hái bội phần, không kể gì sống chết. Trên sàn tàu giặc, đầm đìa máu thịt chiến sĩ đôi bên.
Ta chỉ có tiến, không lui; chỉ có giết người hoặc để người giết.
Súng nổ liên tiếp, hòa với những tiến quân sĩ hò reo, tiếng trống thúc trận của Thế tử rung động một vùng trời bể, khói lửa mịt mù.
Chiếc tàu Đề đốc, to nhất và nhanh nhẹn nhất bị quân ta chặt gãy bánh lái, cột buồm, và bám cứng vào hai bên sườn mà băm bổ, đến nỗi binh sĩ Hà Lan không sao đánh lui được. Viên Đề đốc thấy tình thế không thể tẩu thoát, mà để bị bắt thì mang nhục, chỉ còn có cách châm lửa vào thuốc súng, tự đánh chìm tàu mà chết.
Hai chiếc kia tìm đường chạy trốn.
Chiến thuyền ta đuổi theo bén gót.
Một chiếc vì chạy tán loạn, lại vì gãy cả bánh lái cột buồm, mất sự điều khiển, chạm vào mỏm đá mà vỡ đôi. Tướng sĩ còn sót trên tàu, đều bị ta bắt sống.
Còn chiếc kia trải qua thiên nguy vạn hiểm và nhờ trời tối mới được tẩu thoát chạy ra ngoài Bắc.
Giáo sĩ A. de Rhodes kể chuyện rằng chúa Trịnh thấy Hà Lan bại trận, hết sức phẫn nộ, truyền lệnh cho các cửa bể xứ Bắc không được tiếp rước chiếc tàu thoát hiểm kia, cũng không được cứu giúp lương thực cho nó. Rồi sau trận này, Công Thượng vương xẻo mũi cắt đầu người Hà Lan, kèm theo bức thư vắn tắt, gửi ra làm quà cho chúa Trịnh, như đoạn trên đầu đã nói.
Nhưng tại sao chúa Trịnh lại phẫn nộ, rất đỗi là đóng cửa bể và cấm giúp lương thực cho chiếc tàu Hà Lan bại trận? Tại sao chiếc tàu ấy lại chạy ra Bắc?
Có lẽ người Hà Lan đánh xứ Nam chuyến này là theo lời hứa hẹn cứu giúp chúa Trịnh chăng? Có lẽ họ đã khoe khoang hải quân một cách thái quá, mà rốt cuộc thảm bại như thế, khiến cho chúa Trịnh thất vọng mà hóa bất bình chăng? Chiếc tàu Hà Lan thua trận không chạy đi đâu mà chạy ra Bắc, là nơi gần nhất, hình như muốn nương náu vào căn cứ một nước bạn mình, để sửa sang buồm lái vậy. Mấy việc ấy tất có liên lạc quan hệ với nhau, tỏ ra người Hà Lan diễu võ dương oai mà chịu lấy trận bại nhục này, có thể vì cái động cơ muốn giữ lời hứa trợ chiến họ Trịnh, chứ không những báo thù chúa Nguyễn mà thôi.
Dù sao, chiến thuyền mỏng manh của thủy quân ta đánh thắng được tàu chiến kếch xù một nước Tây dương hùng cường lúc bấy giờ, chúa Nguyễn và tất cả đồng bào Thuận Quảng, thật quả có quyền tự hào là một trận hải chiến vừa thống khoái, vừa anh dũng nhất trong lịch sử, nếu đem sánh với trận Bạch Đằng giang.
Cái chiến công ấy ghi mãi trong trí nhớ của người Việt Nam ở Đàng Trong, mỗi khi gặp người ngoại quốc, luôn luôn đem ra làm một giai thoại ở trước khói thuốc chén trà. Những người Tây dương đến nước ta cách bốn năm chục năm sau, như giáo sĩ Vachet, thương nhân Anh - Pháp là Bowyear và Poivre, còn được nghe kể chuyện như mới xảy ra hôm qua vậy. Các ông này viết nhật ký đều tự thuật rõ ràng, nhất là giáo sĩ Vachet, người rất thông thạo công việc miền Nam nước ta.
Giờ ta hãy nghe mấy người nhân chứng ngoại quốc về vụ Hà Lan hải chiến xem sao?
Theo như giáo sĩ Vachet thì nơi giao chiến tức là vịnh bể Đà Nằng. Một trong ba chiếc tàu chiến Hà Lan đậu ngay ở cửa bể; còn hai chiếc đã vào tận bên trong, đợi thủy triều lên thì tiến thắng vào sông Hàn. Ta xem họ đợi thủy triều đủ biết là hạng tàu chiến lớn, và quyết tiến đánh vào Hội An, bắn phá thành trì quan trấn thủ Quảng Nam cùng các cơ quan quân sự của ta. Khỏi nói, cũng hiểu mục đích họ là ra oai trả thù, nhân dịp cứu thoát những người họ đang bị giam trong nước ta. Nhưng không để cho giặc thâm nhập trọng địa, thủy quân ta do Thế tử Dũng Lễ hầu chỉ huy và Tôn Thất Trung tiếp ứng, xông ra tận ngoài bể mà tấn công trước. Giáo sĩ Vachet nói chỉ có sáu chiến thuyền xứ Nam lăn xả vào chiến đấu, khéo vận dụng chiến thuật bao vây công kích, hạ được hai tàu chiến Hà Lan ở gần bờ bể nhất; còn chiếc thứ ba thì bỏ chạy thoát.
Nhà buôn Bowyear, người Anh, thì bảo chiến trường ở ngoài biển khơi, giữa khoảng vịnh biển Đà Nẵng và cửa sông đi vào thành Huế. Hai bên đánh nhau suốt ngày, kết quả chiếc to nhất trong ba tàu chiến Hà Lan bị đánh chìm. Thuyền chiến xứ Nam tổn hại mất bao nhiêu tất cả thì ông không rõ. Nhưng ông đồ chừng tổn hại tất nặng lắm, cho nên chúa Nguyễn nổi xung, sai điệu hơn ba chục thương nhân Hà Lan - trong số đang bị giam ở Quảng Nam - ra Huế để chém giết đền bù cho được hả giận. Song triều thần tâu rằng họ là những người buôn bán, không lẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của bọn lính thủy dưới tàu chiến. Nhờ thế, chúa Nguyễn nguôi lòng; năm sau cho cả bọn đáp thuyền buôn của người Tàu mà về Nam Dương.
Đến nguyên do trận đánh này, Bowyear làm tờ báo cáo với thượng cấp mình ở Ấn Độ, thì có hai thuyết khác nhau. Thuyết này bảo tại trước đấy ít lâu; một chiếc thuyền buôn Hà Lan ghé vào bến Hội An, chúa Nguyễn truyền lệnh cho quan trấn thủ Quảng Nam sai lính xuống khám xét dưới tàu, xem có lén chở người Bắc vào chăng, vì người Bắc thuở ấy là cừu địch của ông.
Nếu chở người Nam thì là trái phép, vì ông vẫn nghiêm cấm dân mình trốn đi ngoại quốc. Nhưng người Hà Lan phản kháng sự khám xét, vì đó mà hai bên sinh ra xích mích.
Còn thuyết khác thì nói tại có một lần, thủy thủ Hà Lan cãi nhau với người bản xứ ở cù lao Chàm, rồi họ ỷ mạnh bắt cóc một số đem xuống tàu, kéo buồm đi mất.
Việc này quả có ghi chép trong nguồn tài liệu của người Hà Lan; trên đã có đoạn nói tới.
Duy có giáo sĩ Vachet thì cho nguyên nhân sâu xa, tức là việc từ 1641, bọn thương nhân Hà Lan đã tự do tra tấn đánh đập tới chết một người bản xứ làm công trong cửa hiệu Hội An; vì thế mà gây nên công phẫn, đến nỗi cửa hiệu bị đốt phá, bảy trong số chín người Hà Lan bị chém giết, còn tiền bạc, hàng hóa, bàn ghế, ở hiệu đều bị quăng cả xuống bể. Cuối năm 1643, họ phái tàu chiến đến đánh xứ Nam là cốt báo thù đấy thôi.
Mãi hơn năm chục năm sau, Pierre Poivre thương nhân Pháp, mới đặt chân đến Quảng Nam, vẫn còn nghe nói chuyện ấy. Trong tập ký sự của ông ta cũng có kỹ thuật, nhưng không khỏi có nhiều chỗ sai lầm thất thố, là vì thời gian đã cách khá lâu rồi, ta không lấy gì làm lạ. Ông nói người xứ Nam có trỏ cho xem mấy khẩu đại bác Hà Lan đã bị Nam quân lấy được trong trận hải chiến thắng lợi ấy và còn giữ nguyên để làm kỷ niệm.
Theo những nguồn tin đã kể trên đây, thì giữa thế kỷ 17, thủy sư ta chiến thắng tàu trận Hà Lan là một việc hiển nhiên và thống khoái trong lịch sử không còn phải nghi gì nữa.
Độc giả hẳn muốn biết hình thù một chiếc thuyền chiến của ta ngày trước ra sao, mà lại đánh nhau với tàu chiến một cường quốc và được phần thắng lợi lạ lùng như thế. Chỗ này chúng tôi lại phiền đến sự mục kích của giáo sĩ Vachet.
- “Một chiếc thuyền chiến Annam tầm thước không có đâu cao lớn như chiến thuyền của các nước Tây dương chúng ta. Nội dung chẳng rộng bằng, mà thân hình nó cũng khác hẳn. Bên trong sơn son đỏ chói, ngoài thì sơn đen lóng lánh và thếp vàng trông rất đẹp mắt.
Mỗi bên có ba chục mái chèo; mái chèo cũng sơn thép vàng, buộc vào một khoen sắt, thành ra lâm khi cần dùng, người lính thủy có thể buông tay chèo thấm thoát mà không trở ngại gì, nắm lấy khí giới để sẵn bên mình giao chiến với quân địch. Khí giới ấy gồm có một khẩu súng tay, một ngọn mác, một con mã tấu, một cây cung và túi đựng tên.
Người lính thủy kiêm cả việc chèo thuyền và đánh giặc. Khi chèo, họ đứng hướng mặt về phía mũi thuyền, chăm chú nhìn theo cử động của viên chủ tướng đứng ở đấy. Chủ tướng cầm gươm tuốt trần trong tay, ra hiệu lệnh cho quân lính thế nào, lập tức họ tuân hành như thế. Không cần phải truyền phải bảo bằng lời nói, thanh gươm huy động tức là hiệu lệnh, quân lính làm theo răm rắp, mau lẹ không thể tưởng tượng, là vì họ đã rèn tập thông thuộc lắm.
Trên mũi thuyền đặt ba khẩu thần công, hai bên sườn hai khẩu. Lâm trận, mỗi thuyền chờ một cơ lính, thêm nhiều cai đội phụ theo, để chỉ huy tác chiến”.
Còn người Hà Lan và tàu trận của họ thuở ấy thế nào?
Ta thử nghe ông Maybon thuật lại câu nói sau đây của một vị Tổng binh Tàu ở Quảng Đông, năm 1717, ngỏ ỷ kinh khiếp người Hà Lan:
- “Họ hung dữ và khó chịu hơn hết mọi người. Giống như bầy hổ lang, đi đâu gieo sự khủng khiếp tới đó. Để chân vào đất nào, họ tìm đủ cách để làm chủ đất ấy. Tàu trận của họ thật là dày dạn phong ba bão táp. Trên mỗi chiếc tàu đặt trăm khẩu đại bác là ít. Chẳng ai có thể chống cự họ được.
(Ils sont les plus méchants et les plus intraitables de tous les hommes. Semblables à des tigres et des loups féroces, ils jettent l’effroi partout. Dès qu’ils ont abordé à quelque terre, ils cherchent les moyens de s’en rendre maîtres. Leurs vaiseaux sont à l’épreuve des tempêtes. Chacun porte au moins 100 canons. Personne ne peut leur rêsiter).
Ấy thế mà thủy sư chiến thuyền bé nhỏ của Việt Nam, năm 1644, đã cự địch Hà Lan và thắng trận đấy. Trong tập ký sự pers Voyages của cố Alexandre de Rhodes là người đáng tin nhất, đã viết mấy câu phán đoán như vầy:
“Người Hà Lan đã phải thiệt thòi mà được kinh nghiệm rằng những chiến thuyền nhỏ của Việt Nam có thể công kích mà thắng nổi những tàu khổng lồ của họ; bấy lâu nhờ có tàu ấy họ vẫn tự phụ là chúa trùm trên bể”.
(Les Hollandais ont expérimenté à leur préjudice qu’elles (les galère annamites) peuvent attaquer avec avantage leurs grands vaiseaux avec les quels ils se croient les maîtres de la mer).
Chú thích:
[1] Đoạn này thấy trong tập ký sự của cố Alexandre de Rhodes, người Pháp, sang truyền giáo ở nước ta giữa thế kỷ thứ 11, đã có công sửa sang chữ quốc ngữ, và rất thông thạo công việc nước ta hồi bấy giờ.
[2] Ông Nguyễn Phúc Lan ở ngôi 13 năm đến năm Giáp Thân là năm thứ 9.