← Quay lại trang sách

Đời Lê ta tự chế ra đồng hồ có máy

Lúc ấy các trại lính và đồn canh cửa bể đều có đồng hồ chuông tự mình chế tạo lấy. Người Tây Dương phải kinh ngạc vì tài bắt chước của ta: làm được đồng hồ báo thức giống hệt kiểu Tây.

Các cụ chúng ta đời xưa, hằng ngày muốn lần theo bước chân thời khắc xem đi tới đâu, chẳng qua một vài thói quen tương truyền, một vài sự kinh nghiệm không lấy gì làm chắc. Dù có khí cụ bày ra, cũng là thứ khí cụ đơn sơ, nhiều chỗ thất thố.

Trong dân gian chỉ có mấy phương pháp thông dụng nhất, đại khái là nghe gà gáy trông canh, xem mắt mèo lá khế, hay là ban đêm trông sao, ban ngày đo bóng là cùng. Trừ ra ở chốn triều đường và mấy nhà quyền quý mới có khí cụ xem giờ gọi là “Lậu hồ” hay đồng hồ giọt nước, phát minh từ đời Đường - Tống, người Tàu đem sang bán cho ta dùng. Khí cụ này rất đơn giản, chỉ gồm có ba cái hồ nhỏ, hình vuông để cao thấp chênh nhau; hồ trên hết đựng nước, rỉ lần hồi từng giọt một xuống hai hồ dưới, truyền đến một hồ tròn và để thấp nhất; trong ấy cắm cây thẻ ghi số giờ khắc, nước dâng lên đến ngấn nào tức là giờ đó. Vì cái hồ nước làm bằng đồng, cho nên cổ nhân đặt tên là đồng hồ. Đến sau có cái máy phân giờ chỉ phút của Tây phương đem qua, người mình nhân sẵn tên cũ, gọi ngay là đồng hồ rồi thành tiếng quen vậy.

Mãi cuối thế kỷ 16, đồng hồ gõ chuông và có máy của Tây phương mới truyền sang Đông.

Nó đi theo chân các giáo sĩ thuộc về dòng Tên (Compagnie de Jésu).

Giáo đoàn này gồm toàn những học thức thông thái, nhất là về thiên văn, toán pháp. Các ông lập nguyện đi sang Đông Á truyền đạo Thiên Chúa và đem văn hóa khoa học mới của phương Tây qua gieo rắc luôn thể; lấy khoa học làm môi giới, làm chìa khóa mở cửa cho được lọt vào xã hội các xứ phương Đông để truyền đạo Chúa. Bởi vậy, trong hành lý của ông nào cũng có những sách chuyên môn toán học, có hình quả địa cầu, có ống nhòm thiên văn và ít nhiều món cơ khí kỹ xảo bên Tây mới phát minh, đồng hồ chuông là một.

Lúc thoạt đến mỗi xứ, các ông đem đồng hồ hình đại cầu làm món quà tiến dẫn, cốt kính biếu vua quan sở tại, hầu được ở yên làm việc. Đương thời, một chiếc đồng hồ có máy chạy tích tắc, mấy giờ gõ mấy tiếng chuông, đủ làm sửng sốt dân cư những xứ chưa hề hiểu biết khoa học là gì. Lâu dần, các ông thừa dịp trổ tài đoán trúng nhật thực, nguyệt thực rồi vì người ta sửa sang phép làm lịch. Đạo Thiên Chúa đi đôi với khoa học, mở đường đặt móng ở phương Đông ta từ đấy; có thể nói đồng hồ Tàu, tức là viên gạch đầu tiên.

Theo sách “Tục Thông Khảo” của chiếc đồng hồ chuông thứ nhất từ bên Tây sang Trung Quốc vào khoảng năm 1600, đời vua Minh Thần Tôn niên hiệu Vạn Lịch năm thứ 28, do giáo sĩ Lợi Mã Đậu - Mathieu Ricci - người Ý, đem dâng nhà vua ở Bắc Kinh. Khi dâng, ông chỉ bảo cách thức lên giây và xem giờ thế nào, Thần Tôn lấy làm lạ và thích ý vô cùng, để trong nội điện, cắt riêng bốn tên thái giám chuyên việc săn sóc. Cách độ mươi lăm ngày, mấy cậu vặn vẹo thế nào không biết, đồng hồ lại chạy sai hoặc hỏng chuông một lần; vua sai đem ngựa trong chuồng ngự đi mời thầy đạo sĩ Tây vào tận cung cấm để chữa lại.

Nếu ai để ý trong khi xem sách lịch sử truyền đạo ở nước Nam ta buổi đầu, có thể nhận biết cả ngày tháng một chiếc đồng hồ Tây đặt mình vào xứ Bắc trước tiên: mùng 2 tháng 7 năm 1627.

Người đưa nó đến không phải ai lạ, chính là cố Alexandre de Rhodes, có công sửa sang quốc ngữ ta trở nên văn tự, cùng đi với cố Marquez.

Lúc ấy Trịnh Tráng làm chúa, đem quân thủy bộ vào đánh chúa Nguyễn, bị bại trận trở về. Hai vị giáo sĩ vừa mới đến Kẻ Chợ (Hà Nội) chân ướt chân ráo, được nghe tin như thế trong lòng không vui. Chẳng những không vui, còn lo sợ cho mình nữa. Sợ chúa Trịnh mê tín nghe lời dèm pha, đổ lỗi tại có hai cố mà bại trận cũng nên. Vì lẽ tín ngưỡng trái nghịch phần nhiều nhà nho cùng phái sãi vãi, vẫn hùa nhau ghét đạo Hòa Lan (đời Lê, người gọi đạo Thiên Chúa là Hòa Lan đạo), thường hay bịa chuyện để hãm hại các giáo sĩ Tây Dương và ngăn trở công việc truyền giáo. Đến nỗi có thiên tai nhân sự gì phát ra, ví dụ trời làm đại hạn, dịch lệ, có bận hỏa tai đốt cháy hết mấy phường phố Kinh thành, người ta vớ ngay cơ hội dèm pha với chúa Trịnh rằng: Tại để thầy tu ngoại quốc tự do ở trong xứ truyền đạo Gia-tô, cho nên Trời Phật các ngài hành phạt ta thế đấy. Mỗi lần, vì nể dư luận, nhà cầm quyền ta lại phải thọc cây gậy vào bánh xe tôn giáo mới, bắt buộc các cố đạo hãy tạm đình công việc ít lâu. Phe cừu địch còn đông, nay chúa Trịnh Tráng mới thua trận về, họ cũng đặt gánh trách cứ lên vai tôn giáo không chừng. Vì vậy, hai cố Alexandre de Rhodes và Marquez lo sợ.

Muốn mua lòng chúa Trịnh, hai cố đưa dâng đồ hình quả đất của nhà bác học Euclide mà các giáo sĩ bên Tàu đã dịch ra chữ Hán, có vẽ hình và chú thích rõ ràng.

Chúa Trịnh xem rất chú ý, nhưng có nhiều chỗ mới lạ không hiểu liền vời hai cố xuống tận thuyền ngự cắt nghĩa và hỏi chuyện Tây Dương. Nhân tiện hai nhà truyền giáo nói về đạo lý Thiên Chúa, tuy chẳng thuyết phục được Trịnh Tráng, nhưng cũng gieo được mầm mống tốt vào tâm não một viên thị vệ đứng bên nghe chuyện, rồi sau người ấy chịu phép rửa tội.

Giữa cuộc hội đàm lần thứ nhất ấy, cố Alexandre de Rhodes biếu chúa Trịnh một chiếc đồng hồ treo có chuông. Vì cố nói tiếng An Nam thành thạo, nên có thể chỉ vẽ máy móc và cách dùng cho chúa Trịnh nghe:

- Thưa ngài, đồng hồ này bên Tây chúng tôi mới chế tạo ra ít lâu, đến mấy giờ thì tự nó đánh bấy nhiêu tiếng chuông báo cho ta biết. Đấy kim ngắn chỉ giờ kim dài chỉ phút.

- Ồ, tài nhỉ!... Còn những chữ ghi trên mặt tức là tí, sửu, dần, mão bên nước các ông viết 12 chi như thế phải không? - Chúa Trịnh hỏi.

- Thưa không! Đây là những chữ số Roma từ 1 đến 12. Mỗi khi kim phút trỏ vào ngay số 12 này và kim giờ chỉ vào số 5 chẳng hạn, thì chuông gõ 5 tiếng, ngày đêm không hề sai.

Món quà mới lạ đổi ngay cảm tình của người được biếu. Chúa Trịnh cho phép hai cố ở lại truyền đạo trong phạm vi thế lực của mình.

Cố Alexandre de Rhodes bảo đấy là chiếc đồng hồ chuông treo đem đến xứ Bắc đầu tiên.

Ta nên để ý: “Đến giữa năm 1627, xứ Bắc mới thấy xuất hiện kiểu đồng hồ treo có đánh chuông”. Thế thì trước thời kỳ ấy, dễ thường đã có kiểu nào khác đem tới rồi chăng; ví dụ kiểu đồng hồ đứng và không gõ chuông, chẳng hạn. Điều đó, chúng tôi không muốn hàm hồ quyết đoán, vì thiếu tài liệu. Nhưng cứ xem vẻ chúa Trịnh sửng sốt khi thấy cái máy chỉ giờ của hai thầy đạo sĩ ngoại quốc làm quà, khác hẳn thứ “lậu hồ” rỉ từng giọt nước mình vẫn quen dùng, đủ tỏ ra đến lúc bấy giờ thật là lần thứ nhất Thanh Đô Vương (tước của Trịnh Tráng) nhận biết một chiếc đồng hồ máy từ Tây Dương đem lại.

Phàm món gì đã từng thấy qua, không khi nào người ta lại trầm trồ lấy làm lạ!

Duy có Đàng Trong, nghĩa là từ hữu ngạn sông Ranh ở Quảng Bình trở vào, phần đất thuộc quyền chúa Nguyễn cai trị, người Tây Dương qua lại nước ta hồi thế kỷ 17, 18, quen gọi Cochinchine, có lẽ được thấy đồng hồ máy nhập cảng sớm hơn.

Vì Đàng Trong nước ta mở cửa cho tôn giáo và thương khách Tây Dương vào trước. Sử sách truyền đạo đặt thời kỳ các cố dòng Tên bắt đầu mở đạo ở xứ ta vào năm 1615. Từ ngoài bể đến, bao giờ giáo sĩ cũng thuận đường ghé vào Đàng Trong trước, rồi mới ra Đàng Ngoài. Vẫn biết trước thời kỳ ấy mấy chục năm, đã từng có các cố thuộc về giáo đoàn khác (Franciscains, Dominicains) đến nước Nam rồi, nhưng chỉ có mục đích giảng đạo; về sau các cố dòng Tên lại vì cả mục đích truyền bá văn minh khoa học phương Tây, cho nên chịu khó đem những sách hay máy lạ của phương Tây mới phát minh trong lúc bấy giờ, để mở đường gõ cửa hộ tôn giáo. Mà thích dụng và hợp thời nhất là các sách thiên văn đã dịch ra chữ Tàu và đồng hồ máy.

Vả lại, thương nhân còn đến trước giáo sĩ. Thuở ấy, xứ Bắc chưa có chỗ nào thật là thương cảng cho khách buôn ngoại quốc, thì Đàng Trong đã có Hội An, mở ra từ khoảng 1585. Ban đầu, chỉ có người Tàu, người Nhật buôn bán; sau đến người Bồ Đào Nha, người Hòa Lan tụ tập, thành ra một thương trường đông đúc, vui vẻ. Chả lẽ nào những lái buôn Hòa - Bồ kia lại không biết đầu cơ trục lợi, đem đồng hồ qua, dù không để làm thương phẩm thì làm tặng phẩm cho ông địa chủ, tức là chúa Nguyễn để ông cho họ sinh nhai?

* * * * *

Dù sao mặc lòng, tiền nhân chúng ta khi sống ở khoảng đầu thập thất thế kỷ (17), khi được đứng trước một đồng hồ Tây mới đem sang, nghe nó chạy tích tắc rất đều và chốc chốc lại tự gõ chuông, mấy giờ gõ đủ mấy tiếng, chắc phải trố mắt giật mình, cho là quái vật. Không khéo có cụ nghĩ là bên trong có ma xó hay yêu tinh mà thầy phù thủy cao tay đã làm bùa phép sai khiến, cho nên miếng sắt, miếng đồng mới hoạt động được thế. Các cụ không thể tưởng tượng là một bộ máy tự óc người Tây Dương vừa phát minh chế tạo ra, chưa được bao lâu thì truyền sang đến ta.

Thế mà mấy chục năm sau, có người Việt Nam, chỉ với tài riêng và khí cụ mộc mạc, bắt chước làm được một chiếc đồng hồ giống hệt như anh em song sinh với thứ chế tạo bên Tây, bởi máy móc sản xuất.

Ấy đó mới thật là sự đáng kinh dị.

Nhất là thời đại bấy giờ, ta mới nhất sơ tiếp xúc với người phương Tây, nào đã biết khoa học cơ xảo của người ta là gì? Nào đã được học thầy phương Tây hơn ba phần tư thế kỷ và có hàng trăm kỹ sư bác sĩ như ngày nay?

Chính một người phương Tây tận mắt chứng kiến, trước hết lấy làm kinh dị, sau rồi chép sách để lại, không thì đời sau có ai biết đâu.

Người ấy là ông cố đạo Bénigne Vachet.

Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong nước ta giữa đời chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần, 1648 - 1687), luôn mười lăm năm khi trú tại Hội An, khi ở kinh đô Huế, được nhà đương cuộc ta trọng đãi vì ông tinh thông cả nghề thuốc. Có lần, chúa Hiền vời ông lại kinh để trị bệnh nguy cấp cho một vị hoàng thân mà bao nhiêu ngự y và thầy lang khách đã bỏ chạy cả. Ông bảo phải mổ, nhưng người ta không nghe, vì nhớ lời họ Khổng dạy rằng: “Thân thể, tóc da của cha mẹ cho, không được hủy thương”.

Thân cận với nhiều người bản xứ, ông xem xét tâm tính và năng lực của họ từng ly, từng tí, về cạnh tốt cũng như cạnh xấu, rồi ông nhận thấy người An Nam có đủ tư chất thông minh không kém gì ai.

Nhân tiện ông kể một việc chính mắt đã trông thấy tận nơi và chiêm nghiệm rất kỹ lưỡng, chứng tỏ ra người xứ này mới thấy kỹ nghệ của người phương Tây lần đầu, đã tò mò bắt chước một cách tài khéo thế nào?

Chúng tôi thuật chuyện sau đây, theo như lời ông ghi chép trong sách để lại, năm nọ cố Cadière đã lục đăng vào tập kỷ yếu của Ủy ban Khảo cổ Đông Dương.

Nguyên hồi ông ở Huế mấy năm, chúa Hiền thường triệu vào vương phủ hỏi han về công việc Tây Dương. Có lần, ông nhận được một chiếc đồng hồ báo thức vỏ bạc, gửi mua bên Tây mới đem qua, liền đưa vào kính biếu chúa và chỉ bảo cách dùng cẩn thận.

Cách mấy tháng sau, người thợ bạc trong vương phủ ngồi táy máy tháo tung đồng hồ ra xem làm gãy khấc một bánh xe răng cưa, thành ra đồng hồ không chạy được nữa. Chúa Hiền sai người bảo cố Vachet rằng đồng hồ ngài tặng độ trước hỏng mất rồi.

Ông lấy đồng hồ đem ra nhà trọ xem hỏng ở chỗ nào để chữa lại.

Chủ nhà trọ là một người bản đạo, cũng làm nghề thợ bạc. Trước mắt anh ta, ông tháo máy đồng hồ ra xem và chỉ bảo cho biết hư hỏng tại đâu:

- Ồ! Gãy mất một răng cưa thế này, hèn gì đồng hồ chẳng chết.

Người thợ bạc ấy cầm lấy bánh xe gãy răng, ngắm nghía giây lát, rồi nói:

- Trời ơi! Tưởng là hỏng thế nào, chứ có thế này thôi, thì con chữa được ngay.

- Anh chữa thế nào được? - Ông Vachet hỏi.

- Thưa Cha, chỉ có việc làm một bánh xe răng cưa mới giống hệt cái đã gãy thì được chứ khó gì! - Anh thợ bạc trả lời.

- Hừ! Chuyện máy móc tưởng đâu trò chơi. Phải biết ở bên Tây, người ta có máy đúc, máy cưa, máy bào, máy tiện, bao nhiêu công phu mới làm nên được cái bánh xe thế này, anh nghĩ dễ dàng đấy hẳn? Đừng hòng làm cho mất công.

- Cứ để con làm thử cho Cha xem! - Anh thợ bạc nói cách quả quyết.

Chỗ này, cố Vachet viết: “Tôi mất công giảng giải vì những lẽ gì hắn không thể nào làm được, nhưng hắn chẳng nghe. Thật sự, tôi không tin rằng một người thuở này chưa nghe nói máy móc đồng hồ bao giờ mà lại làm nổi bánh xe răng cưa.

Bảo rằng hắn làm thành công thì chưa thật là đúng. Chẳng những hắn làm được chiếc bánh xe ấy thôi, mà còn lại chế tạo một đồng hồ nguyên vẹn nữa mới kỳ.

Độ 23, 24 ngày sau, hắn đặt vào tay tôi hai chiếc đồng hồ giống nhau làm sao, đến nỗi mắt nhìn không thể phân biệt cái cũ với cái mới, giá như không phải chính mắt trông thấy, thì tôi tưởng chừng mình nằm mộng, không khi nào tin được. Hai đồng hồ lại chạy đúng như nhau”.

Thì ra, với khối óc thông minh và có hoa tay tinh khéo, anh thợ bạc nhà ta đã bắt chước máy đồng hồ Tây, tự chế ra một chiếc giống y như thế. Cố Vachet phải nhìn nhận rằng người An Nam thật có tư chất tốt về nghệ thuật và khoa học. Không trách xưa nay, họ thấy bên Tàu bên Nhật có gì mới lạ, nếu có vật liệu sẵn sàng, họ cũng bắt chước làm được như của người ta, không kém gì mấy.

Ta có thể nhìn anh thợ bạc vô danh ấy chính là tiên phong cơ xảo phương Tây ở đất nước nhà. Anh đã chứng tỏ khoa học máy móc tuyệt nhiên chẳng phải cửa cấm ở trước trí khôn bắt chước của người Việt Nam.

Có người tiếc hộ tài nghệ cho đến danh tính anh ta cùng bị đắm chìm trong đêm tối quần chúng, chẳng ai biết đấy là đâu. Trái lại, ví phỏng tài nghệ ấy được giúp đỡ đến nơi, cái gương bắt chước ấy được khuyến khích, thì kỹ nghệ máy móc ở nước nhà đã xây nền đắp móng từ cuối thế kỷ 17 cũng nên. Nếu được thế thì nước mình đã Tây hóa, nói đúng là khoa học hóa, sớm sủa hơn hai trăm năm và trước tất cả các nước quanh miền Đông Á.

Nhưng chúa Nguyễn trấn thủ miền Nam lúc bấy giờ, đêm ngày lo chống cự họ Trịnh là thế thủ ở phía ngoài và mở mang bờ cõi ở Đàng Trong, không còn ngày giờ tâm trí nào để vào chuyện kỹ nghệ, cũng chẳng nhìn vào văn minh khoa học phương Tây mới nhóm lên và sắp có thể bay nhảy vồ nuốt thiên hạ.

Có điều riêng về kỹ nghệ đồng hồ, chắc hẳn đương thời đã biết rõ ích lợi, cần dùng. Chẳng biết có phải là vang bóng của anh thợ bạc tài hoa kia hay không, chỉ biết từ năm 1733 trở đi, nhiều nha môn, công sở thuộc về trị quyền chúa Nguyễn đã treo đồng hồ kiểu Tây, mà đồng hồ ấy tự ta làm lấy.

Sách Đại Nam thực lục tiền biên tức là sách sử biên chép công việc họ Nguyễn khi còn làm chúa Đàng Trong, quyển thứ 9, về đời chúa Nguyễn Phúc Trú (1725 - 1736) có đoạn chính văn như sau này:

- Quý Sửu năm thứ 8, mùa xuân tháng Giêng, lại đặt đồng hồ ở các dinh và các đồn canh Vũng Tàu ven bể.

Ta nên để ý chữ “lại”, tỏ ra lúc trước ở các dinh cùng các đồn ven bể đã đặt đồng hồ, nhưng rồi bãi đi, bây giờ thấy cần dùng, nên phải đặt lại. Các dinh tức là các tỉnh. Thuở ấy, phần đất chúa Nguyễn từ Quảng Bình trở vào miền Nam gồm có 12 dinh, kể cả ba dinh Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, nam Trung Bộ và ba dinh Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ (tức Nam Kỳ ngày nay). Mỗi dinh có quan trấn thủ làm đầu. Nhà nước cho mỗi dinh đều có đồng hồ, chắc là treo tại công trường Trấn Thủ cho tiện việc quan; cũng như ở các bến tàu cửa bể, cho biết giờ khắc tuần phòng và kiểm xét thương thuyền lui tới vậy.

Nhưng kiểu đồng hồ ấy thế nào?

Muốn cho đời sau khỏi nhầm lẫn với kiểu đồng hồ giọt nước thuở xưa, nhà chép sử chú thích rất tường tận:

“Đồng hồ ở quốc triều ta lúc đầu, bắt chước cách thức của Tây Dương mà làm ra gọi là tự minh chung (...) Bề cao độ một thước; mặt tiền là một tấm đồng lá, chính giữa có vòng tròn, chung quanh khắc giờ: Ngọ ở trên, Tí ở dưới, Mão bên đông, Dậu bên tây.

Thời gian chia ra 8 can 4 duy (...). Ngôi thứ kể bắt đầu từ Đinh là số một, khắc một vạch thẳng; Mùi số hai; Khôn số ba, đếm xuôi mãi cho đến Tí, số mười hai. Lại từ Quý bắt đầu số một; Sửu số hai; Cấn số ba, đếm ngược tay trái từ dưới lên trên đến Ngọ là mười hai. Bên cạnh ghi 24 giờ, mỗi giờ 4 khắc, quanh khắp vòng tròn vạch ngấn 96 khắc.

Chính giữa mặt đồng hồ có hai cây kim. Một kim nằm trong, to mà ngắn, để chỉ giờ, chỉ khắc; một kim nằm ngoài nhỏ và dài hơn, để chỉ phân, chỉ phút.

Phía sau đồng hồ đậy một lá sắt mỏng; hai bên tả hữu cũng che đồng lá.

Bên trong đồng hồ, bốn góc cắm dây trụ đồng, chính giữa năm cây; bánh xe cũng tiện bằng đồng, lớn nhỏ có cả thảy 15 chiếc; trong số ấy có 3 bánh xe to có trục xuyên ngang. Cả bánh xe lẫn trục đều có răng cưa bám lấy nhau, lúc máy chạy thì bánh này cọ xát đưa đẩy bánh kia.

Trên có một quả chuông lớn, sáu quả chuông nhỏ; một dùi đồng để gõ chuông lớn và sáu dùi khác để gõ chuông nhỏ.

Người ta phải làm cái giá, bề cao 5 thước, để đặt đồng hồ lên trên. Rồi lấy ba sợi dây thừng, kết bằng tơ luồn vào trong ba cái trục bánh xe lớn và thả xuống dưới: dây ở giữa hơi ngắn, còn dây hai bên thì dài hơn. Mỗi đầu dây đều buộc một cục chì nặng 6 cân; đầu kia thì buộc một cục chì nhỏ, nặng 1 lạng 7 phân, cốt để nó co kéo bánh xe thì đồng hồ mới chạy.

Khi nào đầu dây cục chì lớn thòng xuống cách mặt đất còn độ 1 thước thì ta đẩy nó lên để cho đầu dây buộc cục chì nhỏ cũng thòng xuống gần đất cho đều nhau; nếu không đều thì đồng hồ không chạy được.

Mặt sau đồng hồ lại có quả đồng, treo chúc đầu xuống gọi là quả lắc (...) để kềm giữ cho sự vận chuyển của máy đồng hồ được điều hòa, không có nó thì đồng hồ chạy sai giờ khắc.

Hễ máy đồng hồ chạy đến khắc thứ nhất của giờ Đinh thì quả chuông nhỏ đánh một hiệp, khắc thứ nhì gõ hai hiệp, khắc thứ ba gõ ba hiệp, khắc thứ tư gõ bốn hiệp. Đến khắc thứ tư, tức là đúng giờ Mùi, bấy giờ quả chuông lớn đánh boong boong hai tiếng. Đến các giờ khác cũng thế: giờ Khôn chuông đánh 3 tiếng, giờ Thân 4 tiếng, rồi Canh 5, Dậu 6, Tân 7, Tuất 8, Càn 9, Hợi 10, Nhâm 11, Tý 12. Đến giờ Quý thì quay lại như giờ Đinh, chuông đánh 1 tiếng, tới giờ Sửu 2 tiếng, Cấn 3, Dần 4, Giáp 5, Mão 6, Ất 7, Thìn 8, Tốn 9, Tỵ 10, Bính 11, Ngọ 12. Mấy giờ chuông đánh đủ mấy tiếng không sai.

Trên nóc đồng hồ có nắp đậy như hình tàu lá sen. Cạnh bên hữu và sau lưng đều che bằng kính thủy tinh; còn bên tả và đằng trước cùng có cửa mở ra và đóng vào được, phòng khi cần mở để xem lại máy móc bên trong.

Ấy là hạng đồng hồ to. Còn có hạng nhỏ hơn, chế tạo cũng như kiểu trên, duy có bên trong máy móc giảm đi số bánh xe và 6 quả chuông nhỏ, bớt cả một sợi dây thừng. Thành ra thứ đồng hồ này không có chuông nhỏ để gõ từng khắc một, chỉ đến mỗi giờ thì đánh chuông lớn mà thôi, ta đo bóng mặt trời mà nghiệm, chẳng sai bao giờ”.

Đấy đồng hồ nước ta lúc đầu thế kỷ 18 phỏng theo kiểu Tây mà tự chế tạo lấy, hình dạng máy móc và cách bố trí giờ khắc là thế.

Với con mắt chúng ta đời nay, đã quen nhìn nhẵn mặt - đến nỗi thuộc nhẩm trong trí - những đồng hồ hiệu Oméga, Wesminster hay hiệu nào khác cũng thế, dấu ghi giờ khắc chỉ 12 chữ số La Mã, thật là giản tiện minh bạch. Giờ xem đoạn sử chúng tôi vừa dịch trên đây, nhiều người tất thấy rối trí khó hiểu. Mà thoạt xem có rối trí khó hiểu thật.

Ngọ trên, Tí dưới, Mão đông, Dậu tây là nghĩa thế nào?

Sao đã từ Đinh bắt đầu số một; rồi lại từ Quý cũng bắt đầu là số một?

Kỳ thật đồng hồ ta tự chế tạo hồi ấy, cố nhiên hình thức và cơ quan bắt chước kiểu Tây đương thời, ngày đêm cũng chia ra 24 giờ; nhưng trên bề mặt đồng hồ ta xếp đặt số giờ theo cách riêng - có lẽ theo phương pháp của “lậu hồ” đời xưa - đại khái như hình vẽ dưới đây. Chúng ta nhận thấy từ Đinh đến Tí 12 giờ, rồi từ Quý ngược lên Ngọ cũng 12 giờ; giờ nọ cách giờ kia bốn vạch nhỏ, tức là bốn khắc.

Đời ấy, trong xứ ta cũng có đồng hồ thật chế tạo bên Tây đưa sang, mà ta mua ở thuyền buôn Tây Dương hoặc các giáo sĩ tặng hảo. Nhà chép sử không quên ghi chép để phân biệt với thứ ta chế ra. Chúng ta nên đọc cả đoạn dưới này, càng sáng nghĩa đoạn trên, nhất là về chỗ giờ khắc.

“... Lại có một kiểu, thật từ nước Tây Dương đem qua: bề cao 1 thước 5 tấc, rộng 1 thước; trên có hình ông tiên cưỡi voi, hai bên cạnh hai con rồng chầu, bốn chân đồng hồ, tức là bốn chân con voi, làm toàn bằng đồng và trạm trổ rất khéo.

Khoảng đằng trước khoét tròn, mặt đồng hồ cũng tròn và tráng men, vành ngoài khắc chữ Tây, từ 5 phút, 10 phút, 15 phút... cho đến 60 phút. Vành trong khắc số hiệu 12 giờ:

Tí Ngọ cùng đứng ở trên, khắc số 12

Quý Đinh cùng đứng một chỗ khắc số 1

Sửu Mùi 2

Cấn Khôn 3

Dần Thân 4

Giáp Canh 5

Mão Dậu 6

Ất Tân 7

Thìn Tuất 8

Tốn Càn 9

Kỷ Hợi 10

Bính Nhâm 11

Rồi lại trở về Tí Ngọ.

Kim đồng hồ cũng có cây dài chỉ phút, cây ngắn chỉ giờ y như kiểu trước. Ví dụ kim ngắn trỏ vào số 1 thì chuông gõ một tiếng; trỏ vào số 12 thì gõ 12 tiếng. Ngoài mặt đồng hồ có tấm kính thủy tinh che đậy, bên cạnh có khuy để tiện mở đóng.

Trong ruột đồng hồ, treo tấm đồng tròn, trong ngoài ba tầng, cùng đóng làm một; bánh xe lớn 2; bánh xe nhỏ 10, cùng mắc vào trục nhỏ đâm ngang và đều có răng cưa.

Trên mặt đồng hồ tráng men, gần cạnh cái trục kim giờ kim phút, có dùi một lỗ để cắm chìa khóa vào lên giây cho đồng hồ được chạy đều luôn. Sự tài khéo thật khó kể hết...”

Xem hai đoạn sử đã dẫn trên đây, chứng tỏ ra lúc đầu thập bát thế kỷ (18), nghĩa là cách nay hơn hai trăm năm, nước mình tự chế tạo lấy đồng hồ máy, bắt chước kiểu của Tây; điều đó không còn phải nghi gì nữa.

Đáng tiếc nhà chép sử không chịu tự thuật rộng thêm, đến cả công cuộc chế tạo, để cho người đời sau được biết những đồng hồ nội hóa này, đại khái tiền nhân đã làm nên với công phu khó nhọc ra thế nào? Thành thân mỗi chiếc đồng hồ như thế tốn kém bao nhiêu? Do triều đình lập xưởng làm lấy? Hay là công nghệ của một bọn thợ khéo tay trong dân gian? Một nghề bắt chước cơ xảo phương Tây sớm đến thế, rồi sau tại sao tiêu trầm mai một đi? Ấy là những dấu hỏi quan hệ thiết tha, khiến cho chúng ta ngày nay đọc sử không thể không lấy làm băn khoăn ân hận vậy.