Một bài thơ giết người
14 chữ làm chết hai cha con ông Tiền quân Thành. - Có lẽ quả bảo tại ông Thành làm bộ luật Gia Long.
I
Trái núi đẻ ra con chuột
Giữa tháng Chạp năm Ất Hợi, niên hiệu Gia Long thứ 14 (dương lịch 1815), trong các giới quan liêu - nhất là bên võ - ở kinh thành Huế, xầm xì bàn riêng nói nhỏ với nhau về một vụ âm mưu phản nghịch rất quan hệ.
Những kẻ rỉ tai nói mánh câu chuyện ghê gớm ấy, hoặc chỉ mới phong thanh chứ không biết rõ thực sự, hoặc cố ý phóng đại ra, muốn khoe mình thông tỏ công việc quốc gia triều đình hơn. Làm khổ cho người được nghe phong thanh, bất giác hồi hộp kinh hoàng, tưởng đến cảnh tượng máu chảy thành suối, đầu rụng như sung, không khéo tất cả cung điện phố phường đều ra tro, mà đất sắp nghiêng trời cũng sắp ngã vậy.
Song người ta có thể vuốt ngực để thở, vì vụ âm mưu phản nghịch ấy bị phát giác.
Có điều nó quan hệ, và rất mực quan hệ, là bọn âm mưu không phải người thường, chính là cha con một vị công thần khai quốc, chức cao quyền lớn, hiển hách tại triều. Mà người đã phát giác âm mưu cũng là bậc rường cột triều đình tương đương như thế. Trong tay lại nắm được chứng cớ hẳn hoi có thể nói là tờ hịch khởi loạn. Rồi xem...
Ấy, trong giới am hiểu sự tình, khi mới nghe lỏm, thì thầm với nhau ở bóng tối nhà riêng, đại khái là thế.
Kỳ thật, chỉ là câu chuyện trái núi đẻ ra con chuột.
Gọi là âm mưu phản nghịch, gọi là chứng cớ hẳn hoi, rút lại có một bài thơ tám câu dưới đây, không hơn không kém.
Văn đạo Ai châu đa tuấn kiệt.
Hư hoài trắc tịch giục cầu ti.
Vô tâm cửu bão kinh sơn phác,
Thiện tưởng phương tri ký bắc kỳ.
U cốc hữu hương thiên lý viễn,
Cao cương minh phượng cửu cao tri.
Thử hồi nhược đắc sơn trung tể,
Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky.
Nguyên văn bài thơ thấy chép trong sử “Đại Nam Thực lục chỉnh biên đệ nhất kỷ” quyển thứ 51; ông Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược) đã dịch ra quốc văn như sau này:
Ái châu nghe nói lắm người hay.
Ao ước cầu hiền đã bấy nay.
Ngọc phát Kinh sơn tài sẵn đó.
Ngựa kỳ ký bắc biết đâu thay!
Mùi hương hang tối xa ngàn dặm.
Tiếng phượng gò cao suốt chín mây.
Sơn Tể phen này dù gặp gỡ.
Giúp nhau xoay đổi hội cơ này.
Cố nhiên, về mặt văn chương, kể cũng là một thiên giai tác; nhưng ở đây người ta không cần nói chuyện văn chương, chỉ cần soi móc nội dung, về chỗ dụng ý lập ngôn của tác giả.
Nào, nội dung có gì?
Chẳng qua tác giả cốt gửi cho bạn ở Thanh Hóa (Ái Châu), vì từng nghe tiếng là bậc hiền nhân danh sĩ đời nay, cho nên trong bụng hâm mộ khát khao, mong được gặp gỡ. Nào ngọc phát Kinh sơn, ngựa kỳ Ký bắc; toàn mùi hương hang tối, tiếng phượng gò cao, toàn là lời hình dung tâng bấc tài năng danh vọng của bạn theo lối thù phụng thanh nhã thế thôi. Trong đấy, nào có một ý, một chữ gì tỏ ra chê bai vua chúa hay oán hận triều đình, khiến người ta buộc được phản nghịch cho cam?
Giá như bài thơ chỉ đến đó là hết, thì còn phải nói làm chi, mà cũng không có chuyện. Khốn, nhưng sinh sự và giết người là ở hai câu sau chót:
“Thử hồi nhược đắc Sơn trung tể?
Tả ngã kinh luân chuyển hỏa ky”
Tất cả mối manh vụ án bài thơ giết người, tất cả sợi dây nghiêm hình đối với tác giả, đều trói chặt vào 14 giữ ấy.
Đào Hoằng Cảnh, người Tàu ở đời Lương Vũ Đế (502-549) tài cao học rộng, ở ẩn trong núi; vua mời mãi ra làm quan không được; mỗi khi nhà nước cho việc gì khó khăn, phải sai người vào núi hỏi ý kiến. Vì thế, người đương thời gọi là Sơn trung tể tướng (quan tể tướng trong núi).
Tác giả bài thơ là anh học trò, là chú lê dân, sao lại được phép mong ước có một vị Sơn trung tể tướng? Mà để làm gì? Để giúp nhau xoay chuyển hội cơ này, có phải rõ ràng muốn chuyển di cuộc thế, dòm ngó mạng trời, tức thị muốn rủ nhau cướp nước làm vua, chứ còn gì nữa?
Vậy thì điều mong ước ghê gớm ấy, chính là dấu tỏ âm mưu phản nghịch.
Ta nên biết ở thời đại quân chủ độc tôn, khoan nói sự hành vi xâm phạm đến quyền độc tôn ấy, nội một ý nghĩ, một câu văn, đại khái như bài thơ trên đây, cũng đủ kể là tội ác nguy hiểm ra thế nào?
Nhất là bố đẻ ra nó, hay nói rõ hơn, người bị vu cáo hoặc bị tình nghi đẻ ra bài thơ ấy, lại là Nguyễn văn Thuyên, con ông Nguyễn văn Thành, Trung quân Đô thống chế, tước Quận công, hiện đang làm quan to nhất trong triều.
Chúng tôi muốn nhấn mạnh ở những tiếng “bị vu cáo hoặc tình nghi” bởi duyên do vụ án chỉ là chuyện tư thù nhỏ mọn gây ra, nhiều chỗ mập mờ khuất khúc, đáng làm cho ta ngờ vực; trong sử chép cũng chẳng thấy chỗ nào chứng thực có phải Nguyễn văn Thuyên là tác giả bài thơ hay không?
Lấy tài liệu trong sử đời đó, xem vụ án phát khởi và diễn biến ra sao thì biết.
II
Níu áo cụ lớn để vòi tiền
Với những chiến công oanh liệt giúp vua Gia Long khai quốc và bài văn tế “Trận vong tướng sĩ”, thêm bộ luật lệ Gia Long, Nguyễn văn Thành đã ghi tên mình vào lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19, là một văn gia, là một nhà kiêm cả chính trị, pháp luật.
Thật thế, sau khi vua Gia Long thắng được Tây Sơn, thống nhất toàn Việt, ông Thành có làm Bắc thành Tổng trấn ít lâu, rồi về làm quan tại trào, phụng mạng sửa sang hình luật trong nước tức là bộ luật Gia Long.
Lúc xảy ra vụ án cậu ấm nhà ta, ông Thành đang làm quan hiển hách nhất trào, trên cả các ông Lê văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng, Trịnh Hoài Đức, mặc dầu cùng hạng công thần khai quốc như nhau.
Những người như Thành, công danh phú quý to quá, nếu khéo tri túc mà kịp thời lui trước đi, có thể tránh được nhiều điều hệ lụy và trọn hưởng tuổi trời chẳng hơn. Ngày xưa Phạm Lãi giúp vua Câu Tiễn báo thù phục quốc xong rồi, lẳng lặng trốn đi, bơi thuyền Ngũ Hồ, người đời phục là minh triết; không như Văn Chủng, tham quyền cố vị, đến nỗi bị Câu Tiễn giết chết. Thịnh danh đa lụy, cho nên cổ nhân vẫn kiêng. Đằng này, Thành đã đi tới quá chỗ thịnh danh, làm sao cho khỏi bị người ganh tị, ngờ vực? Bắt đầu ngay từ nhà vua mà đi, nói chi thiên hạ trông mong vào mình rất nhiều, nhưng không phải ai cũng được làm vừa lòng, tự nhiên mọi sự thù oán tiểu nhân mọc mầm đâm rễ từ đó. Đến khi biết ra thì đã quá muộn!
Thành trước có người môn khách tên là Nguyễn Hựu Nghi, vẫn lui tới ăn ở trong nhà, có khi giúp Thành về việc biên chép giấy tờ, trong ý không có gì khác hơn là mong nhờ cất nhắc có chút công danh địa vị. Nhưng rồi sau Nghi làm việc lầm lỗi với Thành sao đó, phải bỏ trốn đi, ghim lòng thù oán.
Lần hồi Nghi khéo luồn lọt được làm môn hạ ông Lê văn Duyệt, vì hắn thừa biết ông này với Thành vốn không ưa nhau.
Ông Duyệt thấy Nghi có tài khẩu biện, đem lòng yêu mến tin dùng, dần dà cất nhắc cho hắn tới chức Thiêm sự bộ Hình. Thầy trò tương đắc nhau có lẽ vì chung một kẻ cừu địch: Nguyễn văn Thành.
Tuy thờ chung một chủ, đứng chung một triều, nhưng Thành - Duyệt vẫn khinh ngầm ghét đắng nhau, thuở ấy không ai không biết. Người ta kể lại nguyên ủy từ trận đánh nhau với binh Tây Sơn ngoài hai chục năm trước. Lúc bấy giờ hai tướng cùng ngồi trên lưng voi đốc chiến, Thành rót rượu uống cho thêm dũng khí; lại rót mời Duyệt đôi ba lần, Duyệt đều từ chối. Thành ép mãi, Duyệt nói:
- Đây tôi lúc nào cũng thừa dũng khí có cần như bác phải nhờ hơi men đâu!
Thành cười, nhưng trong lòng căm Duyệt từ đấy. Vả lại, Thành vẫn tự phụ mình hơn tuổi, văn võ toàn tài, con nhà dòng dõi, không phải như Duyệt xuất thân là anh hoạn thị, chỉ nhờ trận mạc đánh nhau giỏi, mà rồi cùng Quận công, Đại tướng, ngang vai bằng hàng với mình. Cho nên Thành hay tỏ ý khinh bỉ Duyệt, làm Duyệt ấm ức đã lâu.
Duyệt thu nạp Hựu Nghi là người đã bị Thành đuổi, lại cất nhắc cho làm quan, thâm ý chưa chắc không phải cốt làm cho bỉ mặt Thành cho bõ ghét.
Không có gì chứng tỏ ra Duyệt muốn dùng Hựu Nghi làm khí giới để trả thù hãm hại người bạn đồng liêu; nhưng riêng Hựu Nghi căm hờn Thành đuổi nên dụng tâm lập kế báo thù thì có.
Hựu Nghi, vốn người Thanh Hóa, khi làm chức Thiêm sự bộ Hình, có nuôi trong nhà một anh chàng đồng quận; tên Nguyễn Trương Hiệu, vào hạng thư sinh bất đắc chí, đi kiếm ăn giang hồ, vì học khá, chữ tốt, thuật số cùng tinh; lại được vẻ người như là thật thà, thêm có khẩu tài.
Bấy nhiêu đặc tính của Trương Hiệu khiến Hựu Nghi để ý ngay đến chỗ lợi dụng làm khí giới để tiết phẫn với Thành, bèn tìm cách cho Trương Hiệu được trở nên người nhà thân mật của con Thành là Nguyễn văn Thuyên.
Cậu ấm con cụ lớn này, đỗ cử nhân từ mấy năm trước, nhưng tính khí hào phóng tự do, không thích làm quan, dựng một nếp nhà riêng ở phường Đông Ba, lấy nơi tụ họp văn nhân thi sĩ xa gần, ngày ngày uống rượu ngâm thơ với nhau làm vui. Thuyên lại sẵn tiền và chuộng khách, nghe đâu có danh sĩ, không ngần ngại sai người vác tiền đi mời mọc kỳ được tới kinh đô, để cùng chè chén ngâm vịnh chơi.
Chủ tâm Hựu Nghi xếp đặt cho Trương Hiệu được “nhập nội” nhà Thuyên, đã rỉ tai bảo nhỏ:
- Chú mày để tâm rình mò cử động thằng Thuyên có điều chi khác lạ, phải bảo cho tôi biết ngay nhé!
Không bao lâu... Một hôm, vào khoảng thượng tuần tháng Chạp năm Ất Hợi, Trương Hiệu hí hửng chạy về nhà Hựu Nghi đưa cho xem một phong thư, và nói:
- Đây là bài thơ chính chữ Thuyên viết. Nó sai tôi cầm ra Thanh Hóa đưa cho Văn Khuê và Đức Nhuận (hai người đều họ Nguyễn và danh sĩ tỉnh Thanh) mời bọn ấy vào Huế chơi. Bác xem hai câu kết rõ ràng ý tứ phản nghịch triều đình, đến mười họ nhà nó cũng phải chết!
Tức là bài thơ các ngài đã thấy đoạn trên.
Giữa lúc đó, ông Lê văn Duyệt Tổng trấn Gia Định, vừa mới về kinh bệ kiến được mấy hôm.
Hựu Nghi cầm bài thơ tang chứng và dẫn cả Trương Hiệu lại tố giác với ông Duyệt.
Ông này ghét Thành đã sẵn, nay vớ được tang chứng thế này còn gì khoái ý hơn; lập tức vào nội, mật tâu với vua.
Vua Gia Long xem rồi, cho là việc mập mờ bỏ qua không muốn tra cứu, trao bức thư lại cho ông Duyệt, bảo đưa trả người đầu cáo, tức Trương Hiệu.
Tất cả màn đầu đã diễn trong vòng kín đáo, chắc hẳn cha con ông Thành không biết gì cả. Ta thấy trong màn thứ hai chứng rõ điều đó.
Hựu Nghi lập mẹo bày khôn cho Trương Hiệu về miếng giấy nằm trong tay nó:
- Cái bút tích tày trời thế này, chú mày đã tố giác để lập công cầu thưởng không xong, giờ đem ra xoay tiền thằng Thuyên và lão Thành, chắc được. Bao nhiêu nén bạc mà chúng nó chẳng phải chuộc về!
Quả nhiên, Trương Hiệu đến nhà Thuyên làm tiền, với khí giới đe dọa trong tay; nếu không hối lộ thì sẽ đưa ra tố giác. Mà tố giác thì hai câu thơ cuối sẽ trói cổ Thuyên về tội âm mưu phản nghịch là tội chết chém.
Có tật giật mình, Thuyên phải đút nhét vào lòng tham của Trương Hiệu mãi, cho được êm chuyện.
Nó lấy tiền nhiều lần rồi, nhưng vẫn giữ chặt bức thư tang chứng làm như lúc nào cũng đeo thanh gươm ở trước cổ Thuyên.
Tới khi vắt mãi cậu ấm không còn ra nước hối lộ được nữa, Trương Hiệu xoay đến cụ lớn.
Thằng cha giang hồ thuật sĩ này, có lá bùa sát nhân trong mình, cho nên mật to hơn mật Khương Duy, không ngần ngại đón đường ông Thành, níu chặt lấy áo ông mà vòi tiền.
Có lẽ ông Thành vững lòng tin tưởng con mình ngay thật chăng? Vì ông làm quan đến cực phẩm triều đình, con ông sinh trưởng phú quý, lại có học thức, đỗ cử nhân, bảo rằng nó mưu phản thì vô lý quá. Dù chính nó làm bài thơ ấy chăng nữa, bất quá là khẩu khí ngông nghênh của một kẻ khát rượu cuồng thơ, trẻ người non dạ; có tội thì đánh đòn hay ở ngục là cùng, chẳng đến nỗi chết đâu mà sợ. Huống chi có thể trông mong ở lượng khoan hồng của nhà vua, nghĩ lại công lao ông bách chiến mà tha thứ cho con ông.
Hay là ông biết chắc tang chứng trong tay Trương Hiệu là đồ giả mạo chăng? Có lẽ. Vì có thể tin rằng Hựu Nghi lập mưu cho Trương Hiệu nhập nội nhà Thuyên, cốt học giống hệt lối chữ Thuyên, rồi tự làm bài thơ nguy hiểm kia để vu cáo; mục đích vừa lập công, vừa báo thù. Nếu vậy thì càng nên làm ra minh bạch, nhất là ông đã soạn ra hình luật cho nhà nước, tất phải trừng trị những quân “ngậm máu phun người”.
Chẳng biết có phải ý nghĩa của ông Thành như hai điều nghi vấn đó không? Chỉ biết khi tên Trương Hiệu níu áo vòi tiền giữa đường, làm ông nổi xung lên, tức khắc sai bắt trói cả Trương Hiệu lẫn Văn Thuyên, con ông, đem giam vào ngục trong trại binh Quảng Đức. Rồi ông thân hành vào triều đem hết công việc tâu vua, và xin xét cho ra lẽ.
Vua giao cho đình thần mở cuộc thẩm vấn.
Thế là vụ án trở nên công khai.
III
Bố tự tử, con bị chém
Cuộc xét hỏi bắt đầu ngay.
Trước mặt đình thần, Thuyên cực lực bày tỏ mình bị vu oan giá họa, không hề có bụng mưu nghịch; chính bài thơ tang chứng kia không phải mình làm, mà cũng không phải chữ mình viết.
Nhưng Trương Hiệu khai rõ đầu đuôi một hai khai quả quyết rằng Thuyên mưu nghịch; lại dẫn chứng cớ, môn khách của Thuyên là Đỗ Văn Chương cũng biết việc đó.
Hình bộ đòi Văn Chương ra đối chất, thì hắn đã về Gia Định từ trước rồi.
Vua Gia Long thấy chứng tá chưa đủ, bèn hạ lệnh cho Thuyên ra khỏi ngục thất, - nghĩa là cho tại ngoại hầu tra, - đợi Hình bộ tư bắt Văn Chương ra đối chất sẽ hay.
Bước qua đầu năm sau “Gia Long 15, dương lịch 1816” bọn thù ghét Thành bấy lâu được dịp đàn hặc đủ thứ, cố phá hoại thêm cho tòa nhà đã dột, chiếc thuyền đã hư. Những tấu sớ hạch tội Thành dâng lên như bươm bướm.
Gay gắt nhất là Nguyễn Duy Hòa, Ký lục tỉnh Quảng Trị (tức quan đầu tỉnh hồi bấy giờ) về Kinh bệ kiến, cốt để dâng sớ xin nghiêm trị Thành. Đại ý nói rằng:
“Con Thành là Thuyên, ngầm mưu phản nghịch, đã bị bại lộ, vậy mà Thành vẫn còn nghênh ngang mũ áo, đứng trên bách quan, còn gì là triều đình thể thống?
Triều đình là chốn tôn nghiêm, làm mẫu mực cho thần dân thiên hạ trông vào. Nay tên Thuyên đã bị giao cho đình thần xét xử lại được yên ổn về nhà; phép luật thi hành thế ấy làm sao treo gương ra mẫu cho thiên hạ?
Huống chi Thành làm luật, tự tiện rút bỏ khoản này khoản kia, lại cất nhắc tên Trần Hựu, là đứa gian phi mà giấu bịt cái tội nó cưỡng dâm vợ người đi, thế là ngầm kế bè đảng dối vua hại nước. Đến nỗi xây mộ cho mẹ cũng làm trái phép quá phận, kể đạo làm tôi, thế là tội to lắm.
Bệ hạ có thương xót y có công lao, thì cũng nên đưa ra công luận, lấy phép sửa trị, sau sẽ lấy ân mà bảo toàn cho, có thế quốc pháp mới được công bằng, gian thần mới biết kiêng sợ v.v...”
Vua trao sớ này cho đình thần bàn xét, ông Thành chỉ nhận lỗi mình cất nhắc Trần Hựu sai lầm, còn các khoản khác thì đều biện bạch cãi chối.
Nhân đấy vua nhắc đến bài thơ bội nghịch của Thuyên, và nói:
- Ý thơ bài thơ sao mà trái ngược thế nhỉ? Phải biết có Lương Vũ Đế, mới có Sơn trung tể tướng chứ. Thằng Thuyên là người gì mà dám ao ước có Sơn trung tể tướng?
Các quan im lặng cả, vì chẳng ai ưa gì ông Thành mà hòng bênh vực. Vả lại ở thời đại ấy, mấy ai dám nói trái ý vua? Trừ ra Hình bộ tham tri Võ Trinh thường ngày có cảm tình với ông Thành, nay muốn nhân dịp bào chữa hộ cha con ông đôi chút.
- Tâu bệ hạ, bài thơ ấy quả thiệt ý tứ “bội nghịch”. Nhưng ở trong có câu “U cốc sinh lương thiên lý viễn” chữ Hương ấy đáng là chữ Lan mới phải vì chữ Lan thì lạm húy cho nên Thuyên dùng chữ Hương. Cứ xét nội một chữ ấy, nó còn biết kiêng sợ không dám dùng đến, vậy thì không phải nó thực lòng muốn bội nghịch”.
Câu nói như thế bất quá là cách biện hộ của một thầy đồ gàn, chỉ kiếm chuyện bào chữa vu vơ, chứ không dám nói thẳng vào vụ án. Thế mà cũng đủ cho vua Gia Long nổi giận lôi đình, cho là tùng đảng, tức khắc lột chức Võ Trinh mà giam vào ngục. Rồi vì tội đó mà sau ông bị án phát phối làm lính ở Quảng Nam.
Sự thật, thâm ý vua Gia Long cùng chẳng ưa gì ông Thành. Lẽ quan hệ nhất là thường tình ông vua sáng nghiệp, một khi đánh xong giặc, lên ngôi tôn rồi, bao giờ cũng ngờ vực công thần khai quốc. Săn hết thỏ thì giết chó, săn bắn hết chim thì muốn bẻ ná, trò đời xưa nay vẫn thế. Huống chi ông Thành cũng có ỷ mình công to, vả lại vua tôi thân mật từ những khi còn bôn ba hoạn nạn với nhau, cho nên lời nói việc làm không khỏi đôi khi sơ suất hay quá bộc trực, khiến vua lấy làm bất mãn. Ông lại hay năn nỉ xin lập Hoàng tôn Đán (con ông Hoàng tử Cảnh) làm vị trừ quân mai sau, điều đó trái hẳn ý vua, vua sinh ra ngờ vực rằng ông muốn có ấu quân để rồi chuyên chính lộng quyền cho dễ. Tuy nhiên, một người có công to như Thành, không thể bỗng dưng đem giết đi; nhưng nếu tự Thành làm nên tội vạ để cho vua có cớ trừ khử, hoặc là hạ bớt uy quyền và kiêu khí của Thành xuống, chắc hẳn vua được khoan tâm trúng ý.
Chẳng thế sao vụ án cha con Thành chưa xong, đã vì một câu nói mà buộc tội Võ Trinh tùng đảng, cho đến cách chức bỏ tù?
Tháng Hai, đến kỳ tế Nam Giao. Triều thần cùng tâu rằng Thành đang có tội, không nên cho dự vào lễ tế trọng thể ấy.
Vua nói rằng: Thành là đại thần nhà nước, dù thằng con y phạm vào bội nghịch, nhưng việc còn mập mờ, đang xét chưa xong, vậy không lẽ mới nghe lời nói của một bên, đã vội sơ tình với người bầy tôi huân cựu? Đoạn, vua cứ cho Thành được dự tế.
Thành trông thấy cả triều thần xúm lại trị mình lấy làm ức quá, tự nghĩ không còn chỗ dựa nào khác hơn là chính vua. Một hôm, vua ra triều xong, đứng dậy về cung, Thành rảo bước theo đến tận cửa, nắm lấy áo vua mà ngăn lại khóc lóc và nói:
- Tôi nhỏ lớn theo phò bệ hạ cho đến ngày nay, vốn không có tội gì cả. Bây giờ bị người ta xúm nhau vu hãm, bệ hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn cho người ta giết tôi, mà không nhủ lòng cứu gỡ hộ ư?
Nguyễn Đức Xuyên thét mắng:
- Nhà ngươi có tội hay không, sẽ có công luận xét xử, cớ sao dám vô lễ ở chốn triều đình như thế.
Vua không nói gì, dằng áo về cung, giận Thành về cử chỉ ấy, cho nên từ đó không cho vào chầu nữa.
Đầu tháng Tư, người chứng quan hệ là Đỗ Văn Chương ở Gia Định đã ra tới Kinh. Trước mặt đình thần, Văn Chương khai đúng như lời Trương Hiệu, nghĩa là bài thơ chính Thuyên làm và chữ Thuyên viết. Tóm lại, Thuyên quả có mưu nghịch.
“Chúng khẩu đồng từ, ông sư cũng chết” vì thế, Thuyên bị bắt vào ngục, mà Thành bị thu quyền chức Trung quân đại tướng.
Vua hỏi ông Phạm Đăng Hưng:
- Thế, tên Thuyên đã chịu phục tội nó chưa?
- Bẩm, chưa!
- Nó manh tâm làm phản có chứng như thế, sao còn gân cổ chối cãi là nghĩa làm sao?
- Tâu bệ hạ: tên Thuyên tự nghĩ nó là con nhà công thần, hẳn bệ hạ không nỡ giết; mà đình thần tra hỏi, cũng không dám tận tình hết phép, cho nên nó cứ gân cổ chối cãi vì đó.
Lời tâu của Phạm Đăng Hưng có nghĩa như chúng ta hiểu ngày nay: Muốn cho nó phục tội, thì đưa ra “bó giò” hay “tra điện” thử xem!
Hẳn lúc bấy giờ vua Gia Long cũng hiểu như thế, cho nên ngày hôm sau ngài phú thác cho ông Tả quân Lê văn Duyệt công việc tra hỏi Thuyên.
Ta nên nhớ Duyệt vốn thù cay ghét đắng Thành, nay con Thành vào tay ông tra hỏi, có chắc gì được công bằng nhân đạo không? Thêm một chuyện vừa mới xảy ra: tên Hữu, lính đào ngũ ở Trung quân, không hiểu sao lại đăng vào Tả quân, làm bộ hạ ông Duyệt. Được mấy hôm, nó lấy trộm quả ấn Tả quân trốn đi; lúc bị bắt, khai rằng ông Thành xui bảo, cốt là đầu độc hay ám sát ông Duyệt, nhưng việc không xong, nên chỉ trộm lấy quả ấn. Cố nhiên tên Hữu bị chém, mà ông Duyệt thì căm tức ông Thành hơn.
Rồi thì vua hạ lệnh trao truyền cho ông Duyệt tra hỏi.
Sử chép rằng: ông Duyệt tra hỏi, Thuyên chịu phục tội ngay, không còn gân cổ chối cãi gì nữa. Đến nỗi Lại bộ Tham tri Trần văn Tuân nói riêng với ông Duyệt: “Trung quân với Tả quan như là anh em ruột thịt. Bây giờ Trung quân chẳng may như thế; ngày khác đến lượt ông thì sao?” Duyệt nghe nói giật mình, sắc mặt buồn rầu, nhưng sự đã muộn.
Vin vào cớ Thuyên đã thú nhận tội lỗi, đình thần buộc tội cả ông Thành, tâu xin xử tử.
Vua truyền xét lại vụ án một lần nữa.
IV
Râu ông nọ, cằm bà kia
Dần dà đến tháng 11 năm ấy, ở Thanh Hóa có việc Lê Duy Hoán, con cháu vua Lê ngày trước, toan mưu khởi, tin tưởng câu sấm “Phá điền thiên tử xuất” là ứng nghiệm vào mình. Mưu sĩ tán rằng: Phá điền là chữ thân mà Duy Hoán tuổi Thân, vậy là điềm có thể khôi phục ngôi vua nhà Lê. Nội bọn đã uống máu ăn thề, sửa soạn khởi binh thì cơ mưu bại lộ, bị bắt cả nút.
Các quan Bắc Hà đã hội đồng xét án một lần, lại đóng cũi đưa Duy Hoán về Kinh, để Hình bộ phúc thẩm.
Trong khi đó, Thành vẫn bãi chức ở nhà, Thuyên vẫn bị giam trong ngục, hai cha con bị cáo hơn một năm nay mà chưa thành án.
Không ai ngờ vụ án cha con nhà này với vụ án Duy Hoán lại có liên lạc với nhau.
Chỗ ám muội nhất, đáng nghi nhất, là khi trước Duy Hoán đã bị tra tấn xét hỏi ở dinh Tổng trấn Bắc Hà, chẳng hề nói gì đến Thuyên. Vậy mà mấy tháng sau, giải về Hình bộ phúc thẩm, Duy Hoán lại khai rằng Thuyên âm mưu với hắn, viết thư bảo hắn làm phản.
Tại sao lời khai hệ trọng như thế, mà nay có trước không?
Chuyện thật ám muội.
Ta có thể quyết đoán rằng: triều thần xin làm tội cha con ông Thành, nhưng vua còn ngần ngại chưa y, nhân nay có Duy Hoán khai thế kia, cố ý làm cha con ông Thành chóng chết và tất phải chết vậy. Họ thừa biết như thế là trúng vào ý muốn kín đáo của vua.
Khi Hình bộ dâng án từ lên ngự lãm, vua xem rồi nói:
- Lạ! Tên Thuyên bị nhốt trong ngục bấy lâu, làm sao xui bảo ai làm phản được kia? Lời khai này tuồng như trẻ con, vậy đình thần phải xét đi xét lại để cho minh chính tội trạng mới được.
Bọn thù ghét lại tìm cách dúi thêm:
- Tâu bệ hạ, chúng nó ngầm mưu với nhau, hẳn là từ khi Thành làm Tổng trấn Bắc Hà, chứ không phải đợi lúc có tội ở ngục mới viết thư xui bảo đâu!
Lý luận ấy được vua Gia Long cho là phải. Đến đây, ta có thể ngờ luôn cả vua Gia Long cũng có quan hệ ít nhiều trong lời khai của Duy Hoán. Vì chính ngài muốn tìm một cớ đích đáng để khép Thành vào tội, cho khỏi bị thiên hạ hậu thế chê mình bất công. Ví bằng chỉ một bài thơ của Thuyên, chẳng qua phạt Thành dạy con bất nghiêm, thì đến giáng chức của nhau là cùng, có lý nào đè ra mà chặt đầu cho phải?
Mấy hôm sau, đình thần lại tâu rằng đã tra hỏi Duy Hoán đôi ba phen, y đều khai đúng như trước, tỏ thật cha con Thành quả có phản nghịch, vậy xin trị tội. Bấy giờ vua nói nhân nghĩa:
- Trẫm đãi Thành không bạc, nay hắn đã tự tác nghiệt làm vầy, Trẫm không thể vì tình riêng mà bỏ phép nước.
Thế rồi ngài ra lệnh bắt Thành cùng các con, giam ở trại lính Thị trung, và sai triều thần định án.
Hồi này là đầu tháng 5 niên hiệu Gia Long thứ 16 (dương lịch 1817), nghĩa là vụ án cha con Thành lòng dòng trải một năm rưởi.
Triều thần hội đồng hỏi Thành:
- Ông có làm phản không?
Thành đáp:
- Không?
- Ông có dự biết việc con ông làm không?
- Cũng không.
Đó là mấy câu vấn đáp ghi chép trong sử.
Lúc trở ra, nét mặt Thành hằm hằm tức tối, về nhà giam nói với Thị trung Thống chế Hoàng Công Lý rằng: “Án xử như thế là xong rồi. Vua bắt tôi chết, mà tôi không chết, thì không phải là trung”.
Tối hôm ấy, Thành ngồi viết tờ biểu trần tình để lại, rồi uống thuốc độc chết. Trong biểu có câu này thiết tha đau đớn: “Người ta sớm rèn tối luyện, thêu dệt ra cực ác cho cha con tôi. Không còn chỗ nào kêu ca, đành chỉ có chết”.
Vua xem thương khóc, nhưng lại giận sao Thành không gỡ tội mà chết, té ra càng tỏ mình lỗi thật.
Thử hỏi Thành còn gỡ tội bằng cách nào trong khi từ vua tới triều thần đều muốn cho chết; từ một bài thơ không đâu cho tới lời khai dụng tình của Duy Hoán, người cố đặt điều thắt buộc để dồn đến chỗ chết mới thôi?
Xem những người như Võ Trinh, như Trần văn Tuân, muốn kêu gọi công tâm nhà vua, và bênh vực Thành đôi chút, thì đều bị quở phạt trừng trị, hoặc bỏ tù, hoặc cách chức, vậy thì bảo Thành còn gỡ mình vào đâu, kêu ca với ai cho khỏi phải chết?
Mà xét cho cùng Thành có tội tình gì? Có chăng là tội đã làm công thần quá to, có danh vị quá lớn mà bị vua chúa nghi kỵ. Có chăng là tội đã sinh ra đứa con làm một bài thơ ngông cuồng ở giữa thời đại chưa được nguôn luận tự do. Rút lại chỉ có thế thôi. Ấy là chưa nói bài thơ có thật phải tự Thuyên làm và viết ra không; hay chỉ là một tang chứng giả mạo do bọn cừu địch bịa ra để báo thù hãm hại.
Điều ấy đến nay vẫn là một vết hoài nghi trong sử. Nhưng các quan tòa ở đời ấy chẳng hoài nghi chút nào, cho nên họ kết án Thuyên cũng như Duy Hoán đến cực hình lăng trì: đánh một tiếng trống, xẻo một miếng thịt.
Ta đem so sánh, thấy sự bất công hiển nhiên. Duy Hoán đã có hành vi khởi loạn, chứng cớ rõ ràng, bị bắt tại trận, bảo rằng phép nước phải xử đến cực hình, cũng cho là được đi. Trái lại, Thuyên chỉ mới có ý nghĩ bội nghịch tỏ ra ở hai câu thơ, mà lai lịch rất hồ đồ, tự tích còn ngờ vực, cho đến Duy Hoán khai rằng Thuyên viết thư xui bảo khởi loạn, cùng là vô bằng vô chứng. Lấy lẽ công bằng, Thuyên dù có tội, cũng nên được hưởng luật giảm nhẹ một bậc mới phải. Thế mà đình thần làm án Thuyên cũng phải tùng xẻo như Duy Hoán, nhà vua nỡ lòng chuẩn y án ấy và cho thi hành, không chút nào châm chước tình lý, như vậy chăng phải người ta dụng tâm và đồng ý hãm hại cha con ông Thành ư?
Mấy hôm sau, trong khi Thuyên bị trói tay gông cổ, điệu ra pháp trường để cho quân đao phủ cắt từng miếng thịt, Trương Hiệu nghênh ngang đi vào kho, lĩnh 500 quan tiền của vua ban thưởng. Tai vạ kẻ nọ làm nên lợi lộc cho người kia, là thế.
V
Phải chăng quả báo nhãn tiền?
Chúng tôi đã nói ông Thành chẳng những là một danh tướng ở đời Gia Long mà thôi, lại là một tay chính trị sắc sảo, một nhà sửa sang luật lệ phần nhiều còn lưu truyền đến nay.
Nước ta từ đời Gia Long về trước, còn chia biệt Đàng Trong, Đàng Ngoài, chính trị pháp luật khác nhau. Đèo Ngang trở ra, thuộc về trị quyền vua Lê - chúa Trịnh, dân sự tố tụng đã có luật Hồng Đức rành rẽ. Quảng Bình trở vô, từ khi chúa Nguyễn trấn thủ, mở mang bờ cõi thẳng tới bể Nam Hải, trong khoảng hơn hai trăm năm, mọi việc phép tắc cai trị thường phải tùy chỗ thời mà châm chước biến thông, chưa có mực thước nhất định. Kế đến triều đại Tây Sơn, luật phép trong nước lại trải một phen sửa đổi bất nhất nữa.
Đến khi vua Gia Long đã thống nhất toàn quốc, liền nghĩ tới việc sửa sang luật pháp cho được nhất trí và hợp thời. Vì một nước đã thống nhất, thì luật pháp là sự quan hệ sinh mạng tài sản của dân, rường mối trật tự nhà nước, cố nhiên không thể như xưa, thi thố mỗi nơi một khác. Ngay luật Hồng Đức, nay đem áp dụng trọn vẹn cho toàn quốc, cũng không hợp nữa. Đời mới phải có luật mới.
Bởi thế, năm Gia Long thứ 10 (Dương lịch 1811), vua truyền cho đình thần lập một hội đồng chuyên việc làm luật.
Ngài chọn ông Nguyễn văn Thành làm chức tổng tài, tức là chủ tịch hội đồng ấy. Chẳng nói ai cũng biết nhiệm vụ ông quan hệ to tát đến đâu. Không những quan hệ đối với lòng vua tín dùng mà thôi, lại còn quan hệ đối với quyền lợi nhân dân, cả hiện tại lẫn tương lai, từ đương thời đến hậu thế. Một người phụ trách trông coi công việc soạn ra sách luật, há phải chuyện chơi?
Thấy sử chép rằng ông làm công việc ấy ròng rã hai năm: xét lại luật cũ từ đời Hồng Đức nhà Lê nước ta tham chước với luật nhà Thanh bên Tàu, làm ra một bộ luật mới gồm 398 điều thành 22 quyển.
Ấy tức là bộ luật Gia Long, như ta thường gọi. Nhiều khoản trong đó, tới nay người ta còn phải dùng để xử phân kiện cáo; ngay ở Nam phần trong thời Pháp thuộc cũng vậy, nhất là về những vụ hương hỏa điền thổ.
Sách luật này, ông Thành làm xong dâng lên vua duyệt. Vua liền sai khắc bản in để ban hành trong nước.
Khi bắt đầu phát ra vụ án bài thơ giết người, nghĩa là vụ án con ông Thành, sách luật do ông trông coi biên soạn đã được nhà vua ban hành rồi. Các ngài hẳn nhớ năm Ất Hợi niên hiệu Gia Long thứ 14; vụ án Thuyên phát khởi vào giữa tháng Chạp năm ấy.
Ta cần biết - điều này rất quan hệ - bộ luật Gia Long tiếng rằng theo luật Hồng Đức mà sửa lại, nhưng kỳ thật ông Thành sao chép gần hết luật Thanh, chỉ sửa đổi chút ít thôi.
Tệ hại nhất là cụ lớn chép cả những điều khoản “yêu thư yêu ngôn” trong luật Thanh cốt trói buộc ngôn luận tư tưởng của dân Trung Hoa; không khác gì tự đánh lấy sợi dây để thắt cổ cậu ấm nhà ta trước nhất.
Nhà Thanh nguyên là giống người Mãn Châu thiểu số, hồi thập thất thế kỷ thừa được cơ hội Trung Quốc rối loạn, mượn cớ lân bang cứu cấp, đem binh lực đến chinh phục mà làm vua, cai trị cả Hán tộc đa số, đến nỗi uy hiếp người Hán tộc phải róc tóc để bím như mình. Cố nhiên Hán tộc âm thầm phản đối; nhiều người thương nòi yêu nước, kế tiếp nhau bạo động hoặc tuyên truyền bài Thanh, chẳng lúc nào ngớt. Thường tình con người ta, trừ ra bị sức mạnh đè nén, không bao giờ thích để kẻ lạ ở đâu đến, làm chủ đất nước mình, cai trị bà con mình.
Vua Càn Long nhà Thanh, khi làm sách luật đặt ra mặt luật “yêu thư yêu ngôn” (sách bậy nói bậy) cốt để ngăn ngừa trừng trị những người Hán tộc tuyên truyền bài Mãn. Phàm một lời nói, một câu văn, một bài thơ, một quyển sách, hơi có ý tứ gì châm biếm triều đình thời cuộc hay động chạm đến uy quyền Mãn Thanh, tức là yêu thư yêu ngôn, âm mưu phản nghịch, xử vào cực hình.
Dưới triều Mãn Thanh, bốn chữ vắn tắt, lỏng lẻo và ghê gớm ấy đã trói cứng tư tưởng ngôn luận của người Tàu, mất tự do; bao nhiêu chí sĩ văn nhân vì nó mà chết oan uổng!
Đằng này, Nguyễn triều làm chủ Việt Nam không như trường hợp Mãn Thanh ở Trung Quốc, vậy thì ông Thành không nên chép y mặt luật yêu thư yêu ngôn vào sách luật nước mình mới phải. Nhưng bắt chước người ta cả điều khoản cay nghiệt ấy, cố ý ngăn cấm tự do tư tưởng ngôn luận của bà con đồng bào chăng? Hay là thấy dân tâm Bắc Hà lúc bấy giờ còn tưởng nhớ khôi phục họ Lê, nên ông nghĩ phải dùng mặt luật ấy để áp chế phong trào?
Chỉ biết rằng ông Thành làm ra sách luật vừa xong, người phạm vào khoản yêu thư yêu ngôn mà chết trước nhất, chính là con ông.
Tòa án đình thần quả thật đã vin ngay khoản ấy mà khép được Thuyên vào tội chết đấy. Không có thì một bài thơ đùa bỡn ngông cuồng, làm gì đến nỗi tác giả nó bị xẻo từng miếng thịt?
Bởi thế, người đời lấy thuyết nhà Phật ra phân đoán vụ án này nói rằng ông Thành bị quả báo nhãn tiền chẳng phải vô lý.
Nhân tiện, ta nên biết qua cái chung cuộc của Nguyễn Trương Hiệu, người rất khả nghi đã giả mạo cả bài thơ lẫn tự tích để tố giác vu hãm Thuyên mà lấy thưởng.
Sau khi lĩnh thưởng 500 quan tiền, hắn về quê nhà sinh nhai thế nào không rõ, cách ít lâu lại bước chân lên đường giang hồ. Loanh quanh 17 năm sau, thấy làm môn hạ của Bạch Xuân Nguyên, Bố chánh tỉnh Gia Định. Mùa hạ, năm Minh Mạng thứ 14, Lê văn Khôi dấy binh chiếm thành bắt được Trương Hiệu đem ra chặt đầu, nói rằng: “Đây là một thằng tiểu nhân vu cáo lập công, cho nó đi theo Xuân Nguyên luôn thể!”
Cái chết của Trương Hiệu cũng là chuyện quả báo; người tin thuyết nhà Phật nói thế.
HẾT