← Quay lại trang sách

Những truyện nhân duyên Pháp - Việt trong lịch sử

Michel Đức, người con lai số 1 của nước ta. Bà Nguyễn thị Sen lên tận Paris để gặp sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ.

Sau khi người Bồ Đào Nha tìm ra con đường vòng Hảo Vọng Giác (Cap Bonne Espérance) qua Ấn Độ Dương, thuyền buôn Tây Dương tới lui miền Đông Á như đi chợ.

Đầu thế kỷ XVII, thương nhân Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, kế tiếp đến mở cửa hiệu buôn bán ở hai thương cảng lớn nhất của nước Nam ta: Đàng Trong là Hội An, Đàng Ngoài là Phố Hiến. Nhất là thị trường sau này khai sinh chậm thua Hội An, nhưng có lẽ tụ họp đông đảo hơn; sử chép hàng mấy nghìn nóc nhà ngoại thương, cảnh vui và bề rộng chỉ kém thành Thăng Long (Hà Nội) cho nên người đương thời đã có câu ví truyền tụng: “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Hiến Nam”. Hiến Nam tức là phố Hiến, ở xã Nhân Dục, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đời Lê, chỗ ấy là trấn lỵ của trấn Sơn Nam.

Trong những thương nhân từ bên kia quả đất mạo hiểm đến kiều cư, doanh nghiệp ở xứ ta lúc bấy giờ, có ít nhiều người bởi sinh lý cần dùng, hoặc muốn xây dựng cơ sở lâu dài, đã kết hôn với đàn bà bản xứ.

Nhưng muốn tìm dấu tích các cô đi tiên phong trên con đường “Tây Nam hợp tác”, dễ thường khó hơn muốn tìm bốn cạnh của chiếc hình tròn; vì thuở xưa ta chẳng có sổ sách hôn thú, cũng chẳng có báo chí nào đăng tin mừng, tin buồn mà hòng tra cứu.

Đến đời Gia Long, nghĩa là đầu thế kỷ XIX, có một vài bà được danh giá với xã hội và để lại tên tuổi trong sử sách.

Trước hết là cô Benoite Hồ thị Huề, vợ ông J. B Chaigneau.

Ai đọc sử cận đại nước nhà chắc hẳn thừa biết ông này là một trong số hơn hai chục người thiếu niên anh tài Pháp do ông giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ sang đóng tàu luyện quân giúp vua Gia Long giữa năm 1789, lúc ngài còn là Nguyễn vương, mới khởi binh ở Gia Định, lực lượng rất mỏng manh. Nhưng không mấy người để ý đến chuyện ông Chaigneau có lấy một người vợ An Nam, mà cuộc nhân duyên ấy lại chính vua Gia Long đã có hảo tâm khuyên nhủ.

Ông là người thao lược, thận trọng, hiểu biết rộng về kỹ thuật hải quân, cho nên được vua ta rất tin yêu, trọng dụng, cho cai quản một chiếc tàu Long và một đội thủy sư, nhiều khi phó thác tất cả công việc án ngữ quân giặc ở mặt bể. Ngài hậu đãi có vẻ hơn cả chư tướng, lúc chuyện vãn hoặc có việc gì sai bảo, thường gọi “ông Long” một cách thân mật chứ không hô tên. Lòng tin yêu của nhà vua đối với ông đầm ấm đến nỗi khi biết ông góa vợ, lại ân cần nghĩ tới sự chắp mối tơ duyên cho nữa.

Lúc ấy vào khoảng cuối năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Vương đã thu phục kinh thành Phú Xuân và thiên đại bản doanh ở Gia Định ra đây. Một hôm, trong triều mở cuộc yến hội tướng sĩ, xong rồi nhà vua cầm giữ ông Chaigneau ở lại sau để hỏi chuyện gia thất.

- Ông Long! Nghe nói... bà nội trợ của ông đã quá cố? - Nguyễn Vương hỏi.

- Tâu Đại vương, quả thật chúng tôi đã nhận được tin buồn rầu ấy; xin cảm tạ Đại vương có lòng hỏi thăm! - Ông Chaigneau đáp.

- Vậy thì ông sắp lo kiếm đôi bạn mới đi.

- Bẩm, tôi không có ý tưởng ấy.

- Ồ! Người ta sống cô độc thì buồn chết! - Nguyễn vương cười và nói - Đại trượng phu ra trận đánh giặc, lúc trở về nhà cũng phải có đàn bà xinh đẹp ở bên cạnh yên ủi, nâng giấc, có thế mình mới thấy có sinh thú được chứ!

- Đại vương dạy rất phải, nhưng...

- Tôi muốn ông cưới ngay người vợ ở xứ này. Những nhà quyền quý, không thiếu gì con gái nhan sắc, tôi có thể làm mối hộ ông được ngay, nhưng chỉ hiềm vì họ không theo đạo. Tôi biết ông là người ngoan đạo, tất phải cưới vợ cũng có đạo mới được. Vậy ông nên tự kén chọn lấy đôi bạn cho vừa ý... Chả phải kiếm đâu xa, chung quanh Kinh thành chắc hẳn cũng có.

Sau câu chuyện này, ông Chaigneau để ý vật sắc được cô Benoite Huề, con nhà họ Hồ ở kinh thành, một nhà làm ăn lương thiện và có đạo gốc trải đã mấy đời.

Qua năm Nhâm Tuất (1802), sau khi Nguyễn Vương chính vị hoàng đế, kỷ nguyên Gia Long độ hai tháng, ông Chaigneau và cô Hồ thị Huề làm lễ hôn phối chính thức trước nhà thờ Thọ Đức ở Kinh thành Huế, giữa ngày 10 Août năm 1802.

Theo người chép gia phả họ Chaigneau, thì đôi lứa này rất là ân ái tương đắc; ông chồng hết sức kính mến vợ và khéo cư xử theo tục An Nam; cô Huề lại là người hiền hậu, chăm chỉ, có gia đình giáo dục tốt, người ngoài trông vào đều phải tấm tắc khen ngợi. Một tay cô nuôi nấng đàn con, chăm nom nhà cửa, đâu đó ngăn nắp chỉnh tề, tỏ ra một người giỏi việc tề gia nội trợ, khiến chồng được yên ổn làm việc vua việc quan, chẳng phải bận lòng về gia sự bao giờ. Nhất là lúc ấy ông Chaigneau cũng như ba ông Vannier, Despian, De Forcant đã trở thành một bực quan lớn tại triều, vua ban cho dinh thự và cắt riêng 50 tên lính hầu; lẽ tự nhiên cô Huề không phải là một người vợ tầm thường mà chính là một bà mệnh phụ đường đường, cử chỉ ngôn ngữ dù đối với ai cũng nhã nhặn, chứ không có chút nào kiêu căng, hợm hĩnh.

Cô ở với ông Chaigneau 13 năm (từ cuối năm 1802 đến tháng 9 năm 1815), sinh được 11 người con vừa trai vừa gái, rồi mang bệnh từ trần, ông chồng khóc than, nhớ tiếc mãi, cho là một vết thương lòng chẳng thể nào hàn gắn được.

Đến sau vua Minh Mạng lên nối ngôi (năm 1820), đem lòng nghi kỵ và bạc đãi các công thần khai quốc, cả người Pháp lẫn người Nam. Ông Chaigneau nghĩ tình thế không nên lưu luyến mũ áo, bổng lộc triều đình Việt Nam nữa, bèn dắt díu cả đàn con về ở luôn bên Pháp. Mười một người con của ông Chaigneau và bà Benoite Hồ thị Huề về sau đều thành đạt: con gái có chồng con, cơ nghiệp tử tế; con trai cũng học hành khá, người này ra làm võ quan, người kia cung chức trong các bộ của nhà nước. Cậu con đầu lòng là Michel Đức thọ đến 91 tuổi, mấy phen được gặp sứ thần của vua Tự Đức phái sang Ba Lê (Paris), và có một bức ảnh truyền lại, khăn đen, áo dài, râu bạc, má hóp, trông tướng mạo giống cụ Phan Thanh Giản như anh em ruột.

Michel Đức sinh tại Huế ngày 25 Juin 1803, trải qua tất cả thời kỳ thanh niên ở kinh thành nước ta, thường được ra vào cung cấm, cho nên hiểu biết công việc của triều Gia Long rất nhiều; sau về bên Tây viết sách “Kỷ niệm xứ Huế” (Souvenirs de Hue), ở một chuyện trước chúng tôi đã có dịp nói đến, kể lại nhiều sự kiến văn lý thú.

Hồi Michel Đức mới bảy, tám tuổi, có một hôm đi theo cha vô trong Nội, theo lệnh nhà vua đòi vào cho ngài xem thử cái kết quả Pháp - Việt hợp tác tốt đẹp đến thế nào.

Lúc ấy, vua ngự ở một chái điện Cần Chánh, ngồi trên chiếu cạp vóc vàng, trước mặt để cái yên viết, bày đĩa son và một chồng tấu sớ; ngài đang cầm bút phê xét giấy tờ, sau lưng vài chị cung nữ đứng hầu châm thuốc và một viên thái giám chờ lệnh sai phái. Trông thấy ông Chaigneau đưa cậu Đức vào, ngài lật đật nhổm dậy và nói cười niềm nở:

- Ha! Ha! Lại gần bên ta, để ta xem mặt mũi có giống ba không, nào!

Ngài để bàn tay trên vai cậu bé, vuốt ve cằm cậu một cách nựng nịu yêu đương, nhìn kỹ diện mạo rồi nói với ông Chaigneau:

- Này, ông Long! Ông khéo nặn thằng bé ngộ nghĩnh dễ yêu quá, chỉ phải cái mũi nó hơi An Nam một tí.

Vua nói rồi cười ha hả, làm cho ông Chaigneau cũng bật cười theo. Cậu bé Michel ta ngây thơ chả hiểu chuyện gì, cũng nhoẻn miệng cười nốt.

Hết lời nọ qua câu kia, nhà vua vui miệng nói liền liền, chẳng để hở giây phút nào cho cậu bé làm lễ tung hô, bài học triều nghi mà cậu đã được mẹ dạy thuộc lòng trước khi theo cha vô nội.

Một lúc sau cậu mới có dịp tung hô “Thiên tử vạn tuế! Vạn vạn tuế” không ngờ mấy tiếng ấy làm vua Gia Long nổ thêm một trận pháo cười và giảng giải cho cậu bé hiểu rằng: ngài cũng là con cha mẹ sinh dưỡng như ai, chứ không phải con trời giáng sinh như người ta lầm tưởng.

Xong đoạn ấy rồi, ngài âu yếm hỏi cậu:

- À, ta quên hỏi con, năm nay mấy tuổi, con?

- Muôn tâu Ngài Ngự! Con được 8 tuổi.

- Con đã học chưa?

- Muôn tâu Ngài ngự! Con đang khởi sự học chữ Phú Lãng Sa và chữ Nho.

- Giỏi lắm! Con gắng học chăm chỉ, nghe! Mai sau, ta cho con làm quan. Con có ưng làm quan không?

- Dạ, con ưng lắm.

- Được rồi! Bây giờ thì con đi vô chào Hoàng hậu; xong, con trở ra đây, ta cho xem hát tuồng, nghe! Con cứ đi mạnh bạo lên, đừng sợ gì cả, đàn bà trong này không phải dữ tợn, họ không ăn thịt con đâu mà lo.

Sau khi Michel Đức theo chân một cung nữ đi vào điện trong, vua Gia Long quay lại nói chuyện với ông Chaigneau:

- Thằng bé sắp vào giữa đám cung tần mỹ nữ, chả biết nó có cảm thấy sung sướng thế nào, tôi tưởng nhiều người muốn ở địa vị nó mà chẳng được.

Trong khi ấy, Michel Đức vào nội cung triều kiến Hoàng hậu, được Hoàng hậu chiêu đãi hết sức niềm nở, một tiếng gọi cậu Đức, hai tiếng gọi cậu Đức, ban cho quà bánh nhiều thứ và hỏi han tẩn mẩn những chuyện đàn bà bên Tây phương ăn mặc thế nào, có nhiều người đẹp không? Cậu trả lời chưa được về quê cha, đất tổ, cho nên tình hình phụ nữ Châu Âu thế nào, cậu không biết rõ, nhưng cứ nghe ba cậu kể chuyện thì bên ấy cũng có nhiều đàn bà đẹp như ở đây. Các bà phi tần và nữ quan cũng xúm xít hỏi chuyện, mỗi người một câu, làm cho cậu bé ứng đối không kịp.

Trở lên toàn câu chuyện ứng đối trong sách “Kỷ niệm xứ Huế” của Michel Đức, xuất bản ở Paris, năm 1867. Kể còn nhiều kiến văn lý thú khác quan hệ về chính trị, về phong hóa, về nhân vật ở thời đại Gia Long, nhưng khuôn khổ giấy mực ở đây chỉ cho chúng tôi lược cử ra một vài giai thoại thế thôi. Nghe chuyện Michel Đức, thì thấy vua Gia Long có vẻ đức độ giản dị, vui tính, nhất là có vẻ bình dân.

Theo như lý do đã bày tỏ chặng đầu, cố nhiên Benoite Hồ thị Huề không phải là người đàn bà Việt Nam thứ nhất lấy chồng Tây Dương. Nhưng kể hạn có tên tuổi ở xã hội và lịch sử, thì chắc hẳn cô là số một, mà Michel Đức, người con đầu lòng Pháp - Việt hợp tác, cũng là số một, đã được ra vào chốn cung điện tôn nghiêm của nước ta.

Đồng thời có hai bà nữa, đến nay cũng còn thấy dấu tích in trong sử sách.

Ấy là cô Hồ thị Nhơn, em ruột cô Huề, lấy ông De Forcant và cô Nguyễn thị Sen, vợ ông Vainnier tức Nguyễn văn Chấn, cai quản tàu Phụng. Cả hai ông cũng là khai quốc công thần của vua Gia Long và cùng làm quan tại triều như ông Chaigneau.

Nhưng đôi bạn trên hình như thua chị kém em, không được nhìn thấy nụ cười hạnh phúc. Vì ông De Forcant không giàu sức khỏe để kham nổi khí hậu xứ này, cho nên chỉ cung chức được ít lâu thì bệnh hoạn lôi kéo đi thế giới khác, để lại cô Nhơn trẻ trung góa bụa và chưa có con cái gì.

Duy cô Nguyễn thị Sen, kể ra sung sướng hơn cả. Nếu có phải hạnh phúc tuyệt đối của đời người đàn bà gồm có ba việc là chồng sang, con đông, tuổi thọ thì quả thật cô được kiêm hưởng.

Lai lịch của cô và nhân duyên buổi đầu gặp gỡ thế nào, chúng tôi thú thật thiếu sự nghiên cứu. Chỉ biết đại khái cô cũng là con nhà đạo gốc, có tên thánh là Madeleine và cùng ông Philippe Vannier kết hôn chính thức, có lẽ trước ông bạn đồng liêu Chaigneau cưới cô Hồ thị Huề. Trong khi má cậu Đức làm bà lớn nhất hô bá ứng ở dinh thự ông chúa tàu Long, thì cô Madeleine Sen cũng đường đường ở ngôi phu nhân nội tướng trong dinh ông chúa tàu Phụng; địa vị vinh hiển ngang nhau, bổng lộc vua ban và quân lính hầu hạ chắc hẳn cũng thế.

Bước sang triều Minh Mạng, bày ra sự thế hay ở dở đi, hai ông Chaigneau và Vannier cùng nộp ấn từ quan, rủ nhau đưa gia quyến vào Gia Định, đáp tàu về Pháp. Có điều, một người thì dắt díu lũ trẻ mồ côi sinh mẫu; còn một người thì thê tử đề huề, mẹ tròn con vuông.

Khi sắp lên đường hình như ông Vannier đã thành thực bảo cô Sen muốn ở lại tùy ý. Sống ở nước Nam lâu ngày, ông thừa hiểu tâm tính người xứ này rất mực lưu luyến gia hương, chẳng muốn vì một lẽ gì xa cách lũy tre xanh đầu làng; huống chi muôn dặm xa xôi, có thể một đi không về như chim hoàng hạc.

Nhưng cô Sen mạnh bạo hy sinh tình yêu quê quán đi theo tiếng gọi của tình yêu, mẹ con.

Rồi thì cắn răng từ giã làng nước, họ hàng; cô Sen nách bồng, tay dắt, theo đức phu quân xuống tàu về Pháp, ở châu thành Lorient là quê chồng, có một nếp nhà vườn tổ phụ để lại.

Vợ chồng vui sống trong cảnh an nhàn được hai chục năm thì ông Vannier qua đời.

Ông mất nhằm ngày 6 Juin 1842, để thương, để tiếc cho người quả phụ 52 tuổi với mười đứa con: 3 trai, 7 gái.

Hai người con trai lớn đi làm việc nuôi mẹ một cách hiếu thảo; còn các cô con gái thì phần đông đã có chồng con, ở riêng.

Đến năm 1863, có sứ bộ Việt Nam sang Pháp. Chắc ai cũng nhớ là sứ bộ Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc Đản, vâng mệnh vua Tự Đức sai đem phẩm vật qua hiến Pháp hoàng Nã Phá Luân đệ tam (Napoléon III) và thương thuyết với triều đình Pháp về việc ba tỉnh Nam phần.

Lúc bấy giờ Vannier phu nhân đã trở nên một bà lão răng long tóc bạc ngót bảy chục tuổi đầu.

Con cháu xem bảo thấy có sứ Việt Nam sang, kể chuyện lại cho bà nghe. Động lòng cố quốc tha hương, bà chẳng quản gì đường xa tuổi già, lập tức cùng cô con gái út lên tận Ba Lê (Paris) để chào các quan sứ nước nhà.

Trong tập nhật ký “Như Tây sứ trình” của cụ Phan Thanh Giản viết, để khi về phải dâng vua ngự lãm, có mấy hàng chép việc: “Lão phụ Nguyễn thị Sen, vợ Nguyễn văn Chấn, tức Vannier, cùng đi với người con gái út, từ Lorient lên tận Paris, tìm đến sứ quán, chào mừng sứ thần, hỏi thăm tin tức quê hương và ngỏ lời kính chúc hoàng thượng an hảo...”

Hôm ấy, bà Sen mặc quốc phục để tỏ lòng nhớ nước. Hơn năm chục năm xa vắng cố hương, quen dùng Pháp ngữ, thành ra quên tiếng An Nam rất nhiều, nói chuyện câu được câu chăng, Michel Đức, con ông Chaigneau, ngồi bên nhắc lại, hoặc thông ngôn hộ, các quan sứ ta mới nghe rõ. Hai mẹ con bà ở Paris mãi đến hôm tiễn chân sứ bộ lên đường, rồi mới trở về Lorient. Cụ Phan Thanh Giản thay mặt vua, tặng bà mấy nén bạc và mấy tấm lụa.

Bà sống mãi đến ngày 6 Avril, năm 1878, thọ 87 tuổi.

Tại Lorient, có hai mộ liền nhau, dựng bia khắc chữ, một bên là Philippe Vannier, một bên là Madeleine Sen, đến nay vẫn còn.