← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III NHÀ HỒNG BÀNG-(2879 – 258 trước tây lịch)

Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng

- Nước Văn Lang của chúng ta.

1 – Truyền thuyết về nhà Hồng Bàng.

Các nhà chép sử gọi dòng họ đầu tiên ngự trị giống Lạc Việt là Hồng Bàng thị.

Trong Lịch Sử Xã Hội Việt Nam truy cứu ở Từ Nguyên Hoàng Thúc Trâm giải thích ba chữ Hồng Bàng thị như sau:

1) Hồng Bàng là thứ tên chim nước to hơn con nhạn cánh đen, bụng trắng, màu tro, tính mạnh dạn, thính giác lanh lẹ.

2) Hồng theo ý nghĩa thông dụng là lớn. Tỉ dụ hồng thủy (nước lớn).

3) Chim “Hồng” nói trong sách cổ thường chỉ về con “Hồng hộc” tức là con ngỗng trời.

Nếu đi với “Hoang” thì hồng hoang nghĩa là thái cổ. Bàng cũng theo Từ Nguyên tức là đầy, lớn, bác tạp không thuần túy.

Thị theo Thuyết Văn là gò, núi như Hoàng Đế ban đầu ở đất Hữu Hùng nên gọi là Hữu Hùng thị sau đến đời Hiên Viên chi ngưu gọi là Hiên Viên thị. Như vậy chữ “thị” chỉ do chỗ đất mà được gọi tên là “thị”. Không có nghĩa là họ mà bộ tộc hay “thị tộc” theo danh tư xã hội học ngày nay.

Như vậy Hồng Bàng chỉ là một thị tộc do Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân lãnh đạo.

Theo lời tục truyền thì vua Đế Minh cháu thứ ba đời vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam đến miền núi Ngũ Linh thuộc núi Hồ Nam gặp một nàng tiên, lấy nhau rồi sinh ra Kinh Dương Vương đặt làm vua phương Nam. Sau này Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra một bọc có trăm trứng nở ra 100 con trai, nửa theo mẹ lên núi, nửa theo cha xuống bể Nam Hải, vì mẹ là giống Tiên và cha là giống Rồng do đó có giống Bách Việt rải rác khắp miền Nam Trung Quốc (nước của Kinh Dương Vương lấy quốc hiệu là Xích Quỷ gồm tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây bây giờ). Người Việt ngày nay tự cho mình là con Tiên cháu Rồng là do sự tích này. (Cũng như người Nhật tự xưng mình là con cháu của Thái Dương Thần (Amatérasu),người Tàu cho mình là con cháu Hoàng Đế, người Đức dưới chế độ Quốc Xã vừa qua tự cho mình là một giống người thượng đẳng sinh ra để thống trị các dân tộc khác (theo thuyết Mein Kampt của Hitler đảng trưởng Quốc Xã). Các nhà làm sử sách vì lòng ái quốc, trọng nòi giống mà tô điểm cho dân tộc của mình những điều tốt đẹp hoặc có ý muốn làm phấn khởi tinh thần dân tộc.

Lạc Long Quân phong cho con cả làm vua nước Văn Lang (quốc hiệu đầu tiên của nước ta) xưng là Lạc Vương.

Họ Hồng Bàng kể từu Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương là những triều đại trước hết. Những triều đại này theo ý chúng tôi và cũng dựa vào thuyết của Léonard Aurous seau, đã ra đời vào cuối đời Xuân Thu (6 thế kỷ trước công lịch) bởi nếu cho rằng họ Hồng Bàng xuất hiện từ năm Nhâm Tuất (2897) đến năm Quý Mão (258 trước Công Lịch) vừa đúng 2621 năm, thì mỗi triều vua trung bình 150 năm sau, chúng tôi e rằng có sự sai lầm quá lớn.

Bàn về danh hiệu của Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và 18 đời Lạc Vương ta không thể quên chữ Kinh và Dương là đất Dương, hai châu thuộc địa bàn của giống Giao Chỉ chúng ta. Với chữ Lạc Long Quân cũng vậy. Danh hiệu này chỉ có nghĩa là vua của giống Lạc Long cũng như Kinh Dương Vương là vua miền Châu Kinh, châu Dương, Vân Nam Vương, Hán Đế…nó nhắc tên đất đai hay chủng tộc của các vua chúa, Lạc Long Quân lấy Âu Cơ tức là nàng con gái đất Âu.

Chữ Âu lại gặp trong chữ Âu Giang tên một con sông nước Việt (Chiết Giang) ngày nay vẫn còn tên ấy. Nó nhắc chữ Âu Lạc, Âu Việt, Đông Âu, Tây Âu…

Như trên đã nói, vào thế kỷ thứ 9 một số thị tộc Việt lập ra nước Việt do một nhà quý tộc họ Mị cùng họ với vua nước Sở, do đó ta thấy các vua Sở lấy chữ Hùng làm hiệu thì 18 ông vua nhà Hồng Bàng cũng làm theo các vua nước Sở, tỷ dụ:

Hùng Dịch (1122-1028 tr T.C) Hùng Nghệ (1078 tr T.C) Hùng Đán (1052 tr T.C) Hùng Thắng ( 1001 tr T.C) Hùng Dương (946 tr T.C) Hùng Cừ (887 tr T.C) Hùng Chấp (877 tr T.C) Hùng Duyên (876 tr T.C) Hùng Dõng (847-837 tr T.C)

Và 18 ông vua của nhà Hồng Bàng lấy hiệu như sau:

Kinh Dương Vương (Lục Dục Vương). Lạc Long Quân (hùng Hiền Vương). Hùng Lân (Hùng Quốc Vương). Hùng Việt Vương Hùng Hi Vương HÙng Huy Vương Hùng Chiêu Vương Hùng Vị Vương Hùng Định Vương Hùng Uy Vương Hùng Trịnh Vương Hùng Vũ Vương Hùng Việt Vương Hùng Anh Vương Hùng Triều Vương Hùng Tạo Vương Hùng Nghị Vương Hùng Duệ Vương (1)

Còn nói theo cha một nửa xuống biển, một nửa theo mẹ lên núi, tức là một phần quy tụ ở miền sơn cước, một phần ở rải rác vùng đồng bằng là ra tới bể là lưu vực sông Dương Tử với miền núi ở dãy Nam Lĩnh. Dân tiến xuống bể được nhiều điều kiện thuật tiện nên tiến độ nhiều vì vậy đã sống vào trạng thái phụ hệ, còn đám người lên non chậm việc khai hóa nên còn ở vào chế độ mẫu hệ. Đó là các dân dã man tỉnh Quí Châu, Vân Nam (ở Quí Châu có dân Miêu Tử. Ở Vân Nam có dân Sâm Ly hay Xa Lý đến đời Nguyên mới bị chinh phục. Họ tương truyền đời Chu Thành vương có sai xứ triều cống khi về được Chu Công Đán làm ve Chỉ Nam tiễn chẫn, cho nên họ có tên là Xạ Lý. Cũng có Bộ lạc tên là Lão Qua, xưng là Việt Thường dưới đời Chu, bộ lạc này bị nhà Minh chinh phục. Tài liệu này ở cuốn Les babrbares du Yun nan trong B.E.F.E.O tome 8 1908).

Nhưng một điều quan hệ khác cần phải xét lại là Việt tộc hay họ Hồng Bàng có phải con cháu Thần Nông không và Thần Nông là người Hán tộc hay Việt tộc.

Chúng tôi không đồng ý với cá sử liệu Tàu cho rằng Hồng Bàng là con cháu Thần Nông, điều mà nhiều người Việt chúng ta tin có thật vì quên rằng đấy chỉ là một truyền thuyết.

Ta nhận thấy rằng truyền thuyết trên đây dù sao cũng có phần nào sự thật. Ngày nay căn cứ vào các tài liệu của các nhà khảo cổ và sử học, ta có thể giải thích như sau để hiểu rõ tình trạng dân tộc ta dưới thời Thái cổ rõ rệt hơn:

Vào thế kỷ 30 trước C.L. dân Hán tộc sống dọc sông Hoàng Hà. Tại Lưu vực sông DƯơng tử thì có dân bản thổ: bên bờ sông phía Bắc có dân Miêu và Man, bên bờ phía Nam vùng Động ĐÌnh và Phiên Dương có dân Việt chúng ta ở rải rác đến núi Ngũ Lĩnh, các dân ở đây có trình độ xã hội canh nông.

Một nhà quí tộc dạy dân nghề khai khẩn ruộng đất, sau dân nhớ ơn thờ người ấy làm Thần Nông, Miêu, Man tuy không cùng chung chủng tộc nhưng cùng ở dưới quyền một nhà quí tộc thuộc dòng dõi Thần Nông. Người cháu ba đời của Thần Nông đi tuần thú về phương Nam đến Ngũ Lĩnh gặp một nàng con gái đẹp như tiên, ăn ở cùng nhau xin được một đứa con trai đặt tên là Lộc Tục. Sau vua phong cho con trưởng làm vua dân Miêu và Man ở phía bắc sông Dương Tử và cho Lộc Tục làm vua dân Việt ở phương Nam, nghĩa là đất Kinh và Dương lấy quốc hiệu là Xích Quỉ vào khoảng thế kỷ thước XXIX trước C.L.

Bấy giờ là thời đại phong kiến. Xích Quỉ chia ra ba nước (theo Vũ Cống trong Kinh Thư). Trong ba nước ấy, vùng Động Đình là một, vua Kinh Dương Vương lấy con gái vua kế vùng Động Đình là Long Nữ được một con trai tên là Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là Lạc Long Quân. Vua Lạc Long cưới con gái vua một nước láng giềng đất Âu, nàng Âu Cơ đến đây ra gặp [link=#_ftn1][1][/link]một thời kỳ khuyết sử. Sau này Hán tộc tràn xuống phía Nam qua nước Sở thì nước Xích Quỉ có 100 nhà quí tộc đều xưng là dòng dõi của vua Lạc Long và Âu Cơ. (Ở đây ta có thể loại bỏ việc Âu Cơ đẻ ra trăm con do một bọc nở ra 100 trứng là hiện tượng không từng thấy trong y học). Có lẽ trong dịp áp lực của Bắc phương, có người mưu trí trong các nhà quí tộc đó đã nêu lên thuyết một trăm thị tộc cùng máu mủ, một cha mẹ phải đoàn kết để tự vệ, như vậy chắc trước kia họ thường xung đột với nhau.

Vào thế kỷ thứ 24 trước C.L trong ba nước kể trên có nước Việt thường kinh đô đóng ở phía Nam hồ Phiên Dương trở nên cường thịnh làm bá chủ vùng Phiên Dương và Động Đình. Năm 1352 trước C.L. có sai sứ sang cống vua Đế Nghiêu một con rùa lớn và năm 1109 tr. C.L. có cống cho vua Thành Vương nhà Chu.

Trước thế kỷ XII tr. C.L., trong các quí tộc có người tên là Hùng Dịch chinh phục được dân Miêu, Man miền sông Hán chảy vào sông Dương Tử, tổ chức thành một quốc gia, Tàu gọi là Kinh Man, đóng đô ở Đan Dương gần thành Nghi Xương (Itchang) ngày nay. Đến đời vua Hùng Cừ đem binh đánh lấy nước Đông và Dương Việt (nghĩa là người Việt đất Dương Tử. Việt Chương trước kia là Việt Thường, luôn dịp nước Ngạc ở vào khoảng thành Vũ Xương (Ou T chang) thuộc tỉnh Hồ Bắc cũng bị kiêm tính nốt.

Rồi Hùng Cừ cho con trưởng là Khang ở đất Cú Đản, con thứ hai là Hồng ở đất Ngạc, con thứ ba là Chấp Tỳ làm vua Việt Chương đó là nguyên nhân của chữ Hùng Vương trong truyền thuyến của ta.

Dân Việt quen sống với cảnh thái bình, bỏ lâu chinh chiến, không chống nổi quân Kinh Man nên phải thua. Vì dân số đông, nên dân Việt, một phần phải tiến lên núi Nam Lĩnh và đa số đã tiến xuống Nam Hải rồi lại gặp nhau ở đất Quảng Đông và Quảng Tây sau gọi là Bách Việt vậy.

Từ vua Chấp Tỳ trở về sau lịch sử Việt Thường ra sau? CÓ lẽ có lúc thịnh, vào năm 581 trước C.L., con cháu Chấp Tỳ có người làm vua Việt Thường xưng là Hùng Vương thứ nhất. Người Việt bấy giờ ở theo dọc bờ Nam Hải và Nam ngạn sông Dương Tử cho đến hồ Động Đình, họ đều có xâm mình nên người Tàu gọi là Văn Lang.

Bấy giờ nước Sở trước kia ở Kinh Man trở nên cường thịnh và thạo văn hóa Hán Tộc bành trướng về phương nam trở nên nguy hiểm cho nước Việt thường.

Thế rồi một ông vua họ Hùng bèn thiên đô qua đất Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang đặt quốc hiệu là U Việt. Đến đời vua Hùng Vương thứ VI mà người Tàu gọi là Câu Tiễn (496 tr. C.L.) Việt chiếm được Ngô trở thành cường quốc, làm bá chủ một khoảng đất phía Bắc tiến đến gần tỉnh Sơn Đông phía Tây gồm Việt Thường phía Nam giáp Hồ Tôn.

Câu Tiễn mất, đế quốc chia cho con cháu. Một người con Câu Tiễn được làm vua đất Lạc Việt ở tận phía Nam giáp Hồ Tôn xưng Hùng Vương thứ VII hoặc vì có lẽ là con trưởng, hoặc vì có ý dòm ngó các nước Việt ở phía bắc nên xưng như vậy để tỏ ý là chúa tể chính thức của dân Văn Lang.

Đến đời vua Hùng Vương thứ XVIII, phía Bắc Lạc Việt có nước Âu Việt. Vua nước này là Thục An Dương Vương cướp được Lạc Việt nhập hai nước làm một gọi là Âu Lạc. Vì hai dân đều thuộc thị tộc Việt, ngôn ngữ cũng giống nhau nên con gái Hùng Vương thứ 18 gọi là Mị Nương, con gái An Dương Vương tên là Mị Châu đều có chữ Mị cả. Ấy là bằng chứng dân Âu Lạc tuy là hai nước mà vẫn là người Văn Lang, tức người Việt.

2 – Nước Văn Lang

Bờ cõi của nước Văn Lang theo sử cũ gồm có 15 bộ:

Văn Lang: (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên). Châu Viên: (Sơn Tây vùng núi Ba Vì). Phước Lộc: (Miền đồng bằng). Tân Hưng: (Hưng Hóa Tuyên Quang). Vũ Định: (Thái Nguyên và một phần đất của Hoa Nam). Vũ Ninh: (Bắc Ninh). Lục Hải: (Lạng Sơn và một phần Quảng Tây). Ninh Hải: (Quảng Yên và một phần Quảng Đông). Dương Tuyền: (Hải Dương). Giao Chỉ: (Hà Nội, Hưng yên, Nam Định, Ninh Bình). Cửu Chân: (Thanh Hóa). Hoài Nam: (Nghệ An Hà Tĩnh). Cửu Đức: (Lưu vực sông Đà, sông Mã). Việt Thường: (Quảng Bình, Quảng Trị) không phải là vị trí nguyên thủy. Bình Văn:

Xét địa thế 15 bộ trên đây, ta thấy dưới đời những ông vua cuối cùng Hồng Bàng (thời Chu Mạt) vị trí địa dư của nước Văn Lang đã lùi xuống Bắc Việt, và phía Nam của Văn Lang gồm hai tỉnh Nghệ An, hà Tĩnh ngày nay.

Còn cương vực của nước Văn Lang phía Bắc giáp hồ Động Đình (tỉnh Hồ Nam), phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) phía nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), Phía Đông giáp Nam Hải, là cương vực cổ xưa của toàn thế gia đình Bách Việt chúng tôi đã có dịp nói vào những thời khởi thủy dân Giao Chỉ sinh tụ ở Nam Bộ Trung Quốc tại lưu vực sông Dương Tử, rồi tổ tiên chúng ta di cư dần xuống lưu vực sông Nhị và sông Mã. Tới nơi cuối này, địa bàn của chúng ta quả gồm có đúng 15 bộ đã kể trên. Sở dĩ có sự sai lầm mà ta thấy trong một vài cuốn sử chữ nho về vấn đề cương giới sau này của nước Văn Lang là vì chữ Văn Lang) với chữ Dạ (trong cái tên Dạ Lang) hơi giống nhau. Đây không phải là điều ức đoán bởi sách chép nhầm thật. Quyển Thông Điển (quyển 181 25b) chép: Phong Châu là nước Văn Lang đời xưa (Cỗ này viết chữu lãng “lương” bên chữ nguyệt và cho rằng có sông Văn Lang). Nguyên Hòa Quân huyện Chí (Quyển 38 tờ 9b) nói quả quyết rằng Phong Châu là đất của Dạ Lang đời xưa. Thực thế, trong địa phận huyện Tân Xuyên bấy giờ có khe nước Dạ Lang và đây là địa bàn của nước Miêu Tử.

Nước này ăn qua một phần quảng Tây và Quý Châu, phía tây giáp La La (Lô Lô) gọi là Điền ở phía Tây Vân Nam, phía Đông Hồ Vân Nam thuộc Quận Kiện Ví, khi lệ thuộc về Hán từ năm III trước T.C. Sau quận ấy chia làm hai, phía Bắc là Kiện Ví phía Nam là Thương Ngô. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện Ví giáp Phía bắc và phía Tây sông Dương Tử.

Còn quận thương Ngô giáp phía Bắc quận Kiện Ví và Phía Tây quận Tân Ninh là nước Điền ngày xưa ở phía Đông Bắc Thương Ngô giáp quận Ngũ Lãng, ở đấy có Hồ Động Đình. Tóm lại vì Dạ Lang và Văn Lang đã lấn nhau, tất nhiên người ta phải lầm bờ cõi Dạ Lang là của Văn Lang.

Về vấn đề này, Ô. Lê Chí Thiệp phát biểu một ý kiến khác. Theo ông, trong thư tịch cũ của Trung Quốc không thấy nói tới tên Văn Lang, đến đời Thái Bình ngự lãm nhà Đường mới nói. Văn Lang để gọi chung người Kinh Man (dân sở) ở dọc sông Dương Tử, người Việt ở Chiết Giang và người Lạc Việt là những người có vẽ mình, sau này sống ở Lưu Vực sông Dương Tử trôi dạt dân xuống tới bờ biển Nam Hải, bởi vậy các cổ sử mới ghi bờ cõi Văn Lang: Bắc giáp Hồ Động Đình, Đông giáp Nam Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành)…

Tên Văn Lang này được đặt ra do một quan niệm chủng tộc để phân biệt với giống dân không vẽ mình chớ không phải là dân một nước…

Vậy nên kết luận rằng cương vực cũ của chúng ta khi còn là Giao Chỉ gồm hồ Động Đình, biển Nam Hải, Tứ Xuyên và Hồ Tôn. Sau này dân ta di cư xuống Bắc Việt và vào tới Nghệ An. Đây là vị trí địa dư cuối cùng của ta sau cuộc Nam chinh của nhà Tần và khi đế quốc Nam việt của Triệu Đà thành lập.

Ngoài ra ta còn thấy sử chép nước Văn lang có 15 bộ. Trong đó có bộ Văn Lang, Giao chỉ, Việt Thường là thế nào? Phải chăng nhớ nguồn gốc của mình ngày xưa kia ở miền Hoa Nam, nên dân gian giữ các tên đó để đặt quốc hiệu hay đặt tên cho các bộ?

Giai cấp phong kiến thời thượng cổ của chúng ta như thế nào?

Theo Maspéro trong cuốn Royaume de Văn Lang BEEO trang 9, mỗi Lạc Tướng coi vài làng xóm, thuộc quyền Lạc Hầu là chủ những đất đai rộng bằng một tỉnh hay vài huyện ngày nay. Cũng có khi một vị Lạc Hầu đem chia bớt gia tài cho các con cháu và phong chúng làm Lạc Tướng. Công việc của các Lạc Hầu Lạc Tướng cai trị nhân dân. Khi họ nhàn rỗi thường họp nhau săn bắn. Tính họ hoạt động và hiếu chiến nên hay xung đột với các dân láng giềng. Ra trận họ mặc bộ áo giáp dầy dệt bằng lông chim hay bện bằng cỏ cây để tránh dấu tên hay mũi giáo; áo giáp có hai mảnh che đằng trước hay đằng sau, từ ngang lưng thõng đến bắp chân. Mình mặc áo ngắn chẽn để hở cổ và hai cánh tay trạm hình sặc sỡ. Họ mang lá mộc (có chỗ gọi là lá chắn) hình vuông đan bằng tre trên mặt có kẻ hoa và vẽ mặt người. Đầu họ cũng đội một thứ mũ cũng bằng lông chim thực dài kết cái hình dữ dội. Họ đeo cung lớn, mang giáo dài và dao nhọn, luôn luôn bắn, phóng và đâm. Mũi tên có tẩm thuốc độc chạm vào da thịt dù chỉ sướt qua loa thuốc cũng ngấm vào và phải chết. (Theo Parmentier: trong cuốn Lestambors de bronze).

Dân lo việc giồng lúa cho họ ăn, làm nàh cho họ ở, cắt người phục dịch cho họ mà không được dòi công sá. Xét ra như vậy vậy dân chỉ là một thứ tài sản của họ mà thôi. Ngày nay các dân tộc thiểu số dưới chế độ quan lang ở miền Bắc Việt có thể nói là hình ảnh hoàn toàn của chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng thuở xưa.

Các vị Lạc Hầu, Lạc Tướng tuy giữ quyền tự trị ở khu vực của mình nhưng cũng phải theo về một vị tù trưởng giàu mạnh ở phía Tây bắc Trung Châu sát với Trung du gồm địa phận tỉnh Phú Thọ, Vĩnh yên, Sơn tây ngày nay. Đây là một miền có nhiều thung lũng phì nhiêu, đồi đất tốt, dân đông đảo phát đạt hơn cả.

Kinh đô của Lạc Vương đóng ở Phong Châu (vào địa hạt huyện bạch hạc tỉnh Vĩnh Yên bây giờ). Họ nhà vua gọi Hồng Bàng. Lạc Vương đặt quan chế như sau: tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, các quan nhỏ gọi là Bồ chính. Con vua gọi là quan Lang. Con gái gọi là Mị Nương. Các Lạc Hầu được đặt trên các Lạc Tương và có thôn, ấp lớn hơn. Hết thảy từ vua đến chúa đến các Lạc Hầu, Lạc Tướng điều có quyền thế tập.

Nước Văn Lang ra đời đã chịu cả uy thế của các vương triều Trung Quốc nên ngay buổi bấy giờ đã biết lập chính sách ngoại giao. Về đời vua Nghiêu, nhà đường bên Trung Quốc, sứ thần văn Lang đã có lần đem dâng con rùa lớn. Về đời Chu Thành Vương (nhà Chu) có nói ở đoạn trên của sách này.

Chú thích:

(1) Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (bắc phần).

Thần Nông đây thực ra chỉ có nghĩa là vị thần dạy nghề nông, ông tổ nghề Nông. Có lẽ người ta đã lầm Thần Nông của ta với Thần Nông thị là dòng họ làm vua giống Hán sau Phục Hi thị (4480-4350 tr C.L.)

[2] Có nơi chép Hùng Vương 18 là Hùng Tuấn Vương hiện nay còn ở làng Cổ Tích, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (Bắc phần).