CHƯƠNG IV NHÀ THỤC-(257 – 207 trước Tây lịch)
Sử chép Thục Vương Phán cướp nước Văn Lang cuối đời Hồng Bàng tức đời Lạc Vương thứ 18. Vấn đề này đã làm nảy nở nhiều mối dư luận khác nhau trong các nhà viết sử.
Lệ thần Trần Trọng Kim cho rằng Thục Phán có lẽ là một họ nào độc lập ở gần nước Văn Lang và căn cứ vào địa dư nếu Ba Thục (Tứ Xuyên) là xuất xứ của Thục Phán đối với Văn Lang phải qua nhiều đường đất, núi sông cách trở, việc chinh phục Văn Lang như vậy ắt không có thể được.
Vệ thạch Đào Duy Anh nghĩ rằng, Thục Phán có thể là một người con trai của vua Thục ở Tứ Xuyên. Năm 316 là năm thứ năm đời Chu Thành Vương, nước Thục bị nước Tần diệt, dân Thục chạy về phía Nam Lĩnh nương náu ở đất Diên Trì là đất của nước Sở cừu địch của nhà Tần mới chiếm được. Phán thấy không đất dung thân chật hẹp liền từ miền Nam Lĩnh Vân nam, tiến xuống lưu vực sông Nhị Hà, thôn tính Tây Âu là Lạc Việt (nước Văn Lang) rồi lập lại nước Âu Lạc. Phải chăng đây là lời giải thích đối với sự hoài nghi của tác giả Việt Nam Sử Lược.
Lại một chỗ bất đồng nữa!
Theo Đào Duy Anh, việc chinh phục Văn Lang do Thục Phán đã xảy ra trước đời nhà Tần nghĩa là đời nhà Chu khi đó dân tộc ta mang tên là Lạc Việt.
L. Aurousseau cho là Lạc Việt vong quốc từ năm 210 trước kỷ nguyên năm Tần Thủy Hoàng mất đến năm 207 là năm Triệu Đà đang oanh liệt ở miền Nam Hải. Nhân lúc Trung Quốc rối loạn, một người con vua nước Thục nào đó đã thừa cơ chiếm đất Tượng Quận của nhà Tần để dựng nước (Tượng Quận tức là Tây Âu gồm phủ Khai Viễn, Thái Bình thuộc địa phận Quảng Tây, phủ Liêm và phủ Lôi, phủ Liêm thuộc địa phận Quảng Đông).
L. Aurousseau đã lầm vì cho rằng Tây Âu với Lạc Việt là một, ông bằng vào lời chú giải của cổ sử ở Tiền Hán Thứ (k.95) nói là Tây Âu tức là Lạc Việt để giải thích chữ Tây Âu Lạc là nước Triệu Đà kiêm tính. Vì sử cổ không nói rõ rằng bấy giờ sở dĩ gọi là Tây Âu Lạc là vì nhóm Tây Âu hay Tây Việt và nhóm Lạc Việt là hai nhóm trong Bách Việt ở miền Quảng Tây và Bắc Việt ngày nay đã do An Dương Vương gồm làm một nước tức sử ta gọi là nước Âu Lạc.
Trên đây chúng tôi đã có dịp nói đến việc đánh Bách Việt của nhà Tần trong đó Thục Phán đã đóng một vai trò quan trọng. nay dẫn thêm ít tài liệu theo sách Hoài Nam Tử để hiểu cuộc tranh đấu giữa Thục Phán và vua nhà tần trong cuộc Nam Chinh của họ.
Khoảng năm 221, giữa lúc toàn thịnh nhà Tần (năm 33) đời Tần Thủy Hoàng dùng bọn lưu vong, rể thừa và lái buôn làm lính tiến xuống miền Nam là nơi sinh tụ của người Bách Việt. Việc này xảy ra khoảng năm 221 – 214 trước Tây Lịch. Quan Hiệu Úy là Đồ Thư đem quân lâu thuyền cùng tướng Sử Lộc đào sông vận lương đi sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Dương, Quế Lâm (nay là huyện Minh Quý tỉnh Quảng Tay), Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) sau khi diệt được nhóm Đông ÂU và Mân Việt. Đến lượt Tây Âu cũng bị cuộc xâm lăng của đạo quân viễn chinh Trung Quốc. Tù trưởng Tây Âu là Dịch Hu Tống nhưng ở đây quân Tần vấp sức kháng chiến dẻo dai của Tây Âu. Người Việt (Tây Âu) rút vào rừng sống cùng cầm thú, và cứ đêm tối lại đem quân ra tập kích quân Tần. Cuộc kháng chiến kéo dài 10 năm. Sau quân Tần chết rất nhiều. Đồ Thư bị hại, quân Tần hao tổn đến vài chục vạn, phần bị giết, phần thì không chịu được lam sơn chướng khí. Tần triều đành ngừng lại và thiết lập bộ máy cai trị ở các miền đất đai đã lấy được lập r aba quận Nam Hải, Quế Lâm (Quảng Tây), Tượng Quận.
Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt(2).Chúng tôi không đồng ý vì bắc Việt khi đó là ÂU Lạc đã thành Tượng Quận thì sau này đâu có sự kiêm tính của Triệu Đà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam SỬ Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục này mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận.
Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập.
Ai đã cầm đầu cuộc kháng chiến có hiệu quả của Tây Âu? Theo Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký trong lúc tù trưởng bị hại, nhóm Tây Âu vô chủ thì người Kiệt Tuấn được nhân dân Tây Âu cử ra là An Dương Vương nhà Thục, vào khoảng năm 219 đến năm 207. Thục Phán đã nhân cơ hội nhà Tần suy, quân Tần thất bại mà thâu phục nhóm Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc. Trong việc chống nhau với Tần, Thục Phán tỏ được một tinh thần dung cảm phi thường. Trong việc chống nhau với Tần, Thục Phán tỏ được một tinh thần dũng cảm phi thường. Có thể nói như vậy là vì lúc này Tần vừa gồm thâu 6 nước, nhất thống Thiên Hạ Trung Quốc dựng thành Vạn Lý bên trong dẹp được mọi phản lực của giai cấp phong kiến có nền móng từ mấy ngàn năm, bên ngoài thuyết phục được các phiên bang ngang tang hùng mạnh. So với sự tiến hóa của giống Hán tộc bấy giờ thì quả thật các thị tộc Việt đáng gọi là “Man di”. Vậy mà Thục Phán dám đem sức “mọi” chống với một đế quốc phú cường, hùng hậu thì cái tinh thần bất khuất ấy cũng là đáng phục. Lại nhân lúc nhà Tân lâm vòa thế biến, Thục Phán chinh phục Văn Lang dựng nên một quốc gia riêng một phương trời, Phán quả là một kẻ có óc tự cường và biết lợi dụng thời cơ.
Thục Phán chiếm được Văn Lang từ năm Giáp Thìn (257 trước Công Lịch). Xong việc chinh phục Phán xưng là An Dương Vương lập kinh đô ở Phong Khê tức huyện Đông Anh tỉnh Phúc Yên bây giờ, và hai năm sau cho đắp thành Cổ Loa (Tên thành là Cổ loa vì xây cuốn nhiều vòng như hình trôn óc, hiện nay còn dấu tích ở huyện Đông Anh và cái giếng Trọng Thủy, thành này lại có tên là Tu Long. Người Đường gọi là thành Côn Luân vì thành ấy cao lắm, rộng nghìn trượng).
Thục Phán đã đem văn hóa que hương mình là nước Thục du nhập vào đất Việt, thiết lập mọi quy mô chính trị quân sự, dạy cho người Việt xây thành bằng đất, lấy tre làm cung nỏ, tên bịt đồng là hai kỹ thuật sở trường của người Thục. Rồi nhờ địa thế hiểm trở của Tây Âu và Âu Lạc lắm rừng nhiều núi lại thêm tinh thần quật cường của người Việt, Thục Phán đã lập nên sự nghiệp trên đây (đã nói trong việc đương đầu với làn song Nam tiến của giống Hán).
Dân tộc Âu Lạc bước vào trường tranh đấu và được phát triển mọi khả năng có lẽ từ khi được Thục Phán lãnh đạo, tiếc rằng không có cuốn sử nào nói về sự nghiệp của Thục Vương. Sau này với Triệu Đa, một tướng có tài thao lược của Trung Quốc hùng cứ miền Hoa Nam, tình thế của Âu Lạc không bao lâu phải đi sang chỗ rẽ. Rồi năm thứ 50 đời An Dương Vương, Âu Lạc bị lọt qua tay họ Triệu và thành một nước phụ dung của đế quốc Nam Việt. Trong lúc này nhà Tần đã đổ, Hán lên thay. Việc xâm chiếm Âu Lạc xảy vào năm 180 sau khi Cao Hậu nhà Hán qua đời và lúc này Triệu Đà đã xưng đế ở Nam Việt.
Theo thuyết chính thống, An Dương Vương không thuộc về một thị tộc Việt nào hết nhưng một vài sử gia ngày nay cho là An Dương Vương là người ngoài cũng chưa có chứng cớ đầy đủ. Theo tác giả trong giai đoạn lịch sử này. Hán tộc chưa có mặt miền Hoa Nam, Thục Phán có thể là một lĩnh tụ phong kiến cũng thuộc Việt tộc như nhiều lãnh tụ khác trong đám con Hồng cháu Lạc. Miền Hoa Nam quá rộng lớn, sông núi cách trở nhiều, Việt tộc lại phân tán khắp nơi mới có sự bỡ ngỡ này.
Vịnh Bi Kịch Thành Loa
Thành Loa trăm thước chẳng còn bền.
Mống rùa ba tấc chẳng là thiêng.
Nước nhà dấy mất tại người cả.
Gió mưa gây dựng công khó nhọc.
Nam gồm Văn Lang, bắc Ba Thục.
Dư đồ muôn dặm mở mang tới.
Một tấm sơn hà một tấm vóc.
Sẵn sang cơ nghiệp không biết giữ.
Chiến đã không xong, hòa cũng ngộ.
Biên phòng chểnh mảng, thù hận quên.
Quanh quẩn một lần hai tại lỡ.
Thân già đâu nới kẻ thù gia.
Chồng nào thương vợ, con lìa cha.
Giặc ngồi sau lưng nói chi nữa.
Nước ôi nhà ôi, biến Đại Nha!
Dương Bá Trạc
Cổ Loa Hoài Cảm
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa.
Trải bao gió táp với mưa sa.
Nỏ thiêng hờ hững giây oan buộc.
Giếng ngọc vơi đầy giọt lệ pha.
Hoa cỏ vẫn cười ai bạc mệnh.
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa.
Hưng vong biết chửa người kim cổ?
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Trần Tuấn Khải
CHÚ THÍCH.
1 - Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quân nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ song so sán địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quân chính thuộc về một phần đất của Tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng.
2) Theo sử ký của Tư Mã Thiên là cuốn sử lâu đời hơn tất cả và đang tin hơn hết, việc chinh phục Âu Lạc do Triệu Đà vào năm 180 trước kỷ nguyên chớ không phải vào năm 207 như Việt Nam Sử Lược đã dẫn. Tức là năm Giáp Ngọ như sử ta.
3) Theo Đào Duy Anh “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam” Mân Việt mất vào khi quân Tần đánh Bách Việt chớ không phải do Triệu Đà, sau này cùng thời với việc cướp nước Âu Lạc của An Dương Vương.
4) Thuyết nói rằng An Dương Vương chưa chắc đã là người ngoài, căn cứ vào sách Quảng Châu Ký và Giao Châu Ngoại Vực Ký. Sách này chép: Khoảng 221-214 Quân Tần đánh người Việt, giết được vua Tây Âu (tức Âu Lạc) gọi là Dịch Hu Tống. Coi đoạn sách này thì ta có thể cho rằng trước khi có cuộc xâm lăng của nhà Tần đất Giao Chỉ đã gọi là Tây Âu. Vua Tây Âu là Dịch Hu Tống bị giết có thể là vị Lạc Vương cuối cùng. Sau này dân Việt giữa lúc vô chủ và nguy biến đã cử người Kiệt Tuấn đứng ra lãnh đọa cuộc kháng chiến là An Dương Vương nhà Thục, vậy Thục Phán chẳng phải là người nước Thục ở miền Tứ Xuyên. Còn cái tên Tây Âu hay Tây Âu Lạc hay Âu là dongười tàu đặt ra để gọi xứ ấy cho có sự phân biệt với các rợ Việt khác.