← Quay lại trang sách

PHẦN 2 – CHƯƠNG I BẮC THUỘC THỜI ĐẠI-NHÀ TRIỆU-BẮC THUỘC LẦN THỨ NHẤT-(207 – 111 trước Công Lịch)-

1) Triệu Vũ vương

2) Triệu Văn vương

3) Triệu Minh vương

4) Triệu Ai vương

5) Triệu Dương Vương

Theo các Việt sử chữ nho và quốc ngữ từ xưa đến nay, Bắc thuộc chia ra làm 5 thời kỳ, kể từ nhà Hán lấy Nam Việt của con cháu Triệu Đà (111 trước C.L.) đến năm Khúc Tiên chúa gây nền tự chủ cho dân tộc chúng ta (906 sau C.L.).

Gần đây nhiều học giả xét lại vấn đề này cho rằng Bắc thuộc (lần thứ nhất) phải kể từ khi Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc (207 trước C.L.), chúng tôi cũng tán thành nhận định này là xác đáng vì Triệu Đà là một tướng nhà Tần, dòng dõi người Trung Quốc xâm lăng nước ta để làm thuộc địa thì việc ngoại thuộc phải kể từ khi Triệu Đà đặt chân vào đất Việt. Đồng thời, ta phải bỏ nhà Triệu ra ngoài cuốn sử nước nàh mới hợp lý. Trái lại, coi Bắc thuộc thời đại bắt đầu từ nhà Hán lấy Đế quốc Nam việt (111 trước C.L.) tức là đặt nhà Triệu vào một triều vua chính thống của dân tộc Việt Nam.

Chúng tôi đề nghị chia Bắc thuộc ra làm 5 thời kỳ như sau này:

- Thời kỳ thứ nhất: Kể từ Triệu Đà thôn tính Âu Lạc (207 trước C.L.) đến năm 111 trước Công Lịch con cháu nhà Triệu bị dứt.

- Thời kỳ thứ hai: Kể từ năm 111 trước C.L. nhà Tây Hán đặt nền đô hộ ở GIao chỉ đến năm 40 sau C.L. có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do hai bà Trưng lãnh đạo. Chúng ta được một thời kỳ độc lập tuy ngắn ngủi từ năm 40 – 43 sau C.L..

- Thời kỳ thứ ba: Kể từ năm 43 đến năm 544, nước ta bị lệ thuộc về nhiều vương triều Trung Quốc, bắt đầu là nhà Đông Hán đến Nam Bắc Triều. Qua năm 544 nhà Tiền Lý ra đời đến thời Hậu Lý Nam Đế tan rã (602) là thời kỳ tranh thủ và vận động độc lập.

- Thời kỳ thứ tư: Kể từ 603 đến năm 906 nước ta thuộc về nhà Tùy, nhà Đường, sau giai đoạn này có Khúc Thừa Dụ ba đời, Dương Diên Nghệ 14 năm, Kiều Công Tiễn 1 đời, Ngô Quyền 3 đời và một thời 12 sứ quân, cộng tất cả 62 năm rồi mới đến Đinh Tiên Hoàng nhất thống nước Nam, từ đó người Việt Nam kế tiếp nhau cai trị lấy nước Nam.

- Thời kỳ thứ năm: Tức thời nhà Minh chiếm cứ nước ta (1407 – 1428).

1 – Chỗ rẽ của Lịch Sử Âu Lạc

Trong khi Văn Lang biến thành Âu Lạc thì tấn bi kịch đẫm máu và nước mắt của xã hội Trung quốc đã kéo dài trên 600 năm, dưới đời nhà Chu, từ từ hạ màn. Nhà Tần ra đời và nền thống nhất của dân Hán thành hình. Rồi triều đại Tần Thủy Hoàng đã đánh dấu lịch sử nước Trung Hoa bằng một chế độ vô cùng tàn ác. Với chế độ này người ta thi hành một chính thể tuyệt đối chuyên chế và bạo liệt: chôn học trò, đốt sách nho để ngu dân, để diệt trừ mầm loạn bên trong, xây Vạn Lý về phương Bắc bằng “xương máu của hnafg triệu sinh linh để đề phòng “ngoại họa”, dựng cung A Phòng nhốt ba ngàn gái đẹp để tận hưởng lạc thú nhân sinh, tung ta trên 50 vạn quân về phương nam mở rộng cương vực Hán Tộc…, tất cả mọi sự việc này đều ngược với quyền lợi đại chúng nên binh hùng tướng mạnh, thành Vạn Lý sau này cũng chẳng bền vừng được bao lâu. Rồi nhà Tần đổ, nền phong kiến TrungHoa lại một phen nữa tơi bời như tro bụi. Giữa lúc này trên nội địa, Hán tộc lâm vào thế biến thì các quan lại ở biên cương cũng thay lòng đổi dạ.

Nhâm Ngao và Triệu Đà cát cứ bấy lâu ở Nam Hải nghe có loạn Trần Thắng bên kia giải Nam Lĩnh liền nảy ý muốn lập riêng một triều đình miền Nam và thôn tính Âu Lạc nữa. Quý Tỵ năm thứ 50 (năm thứ hai đời Tần Nhị Thế) Nhâm Ngao khi gần chết đã khuyên Triệu Đà lợi dụng thời cơ dựng nền tự chủ ở phương Nam. Chẳng bao lâu viên huyện lệnh Long Xuyên (thuộc quận Nam Hải) đã nganh nhiên xưng vương, đổi hai quận Quế Lâm và Nam Hải ra nước Nam Việt, chưa phỉ chí, Triệu Đà còn nhìn sang Âu Lạc nữa.

Theo Việt Nam Sử Lược trang 29 có nói khi Tần mở cuộc Nam chinh An Dương vương xin quy phục nhà Tần vì thế nên Âu Lạc bị đổi ra Tượng Quận. Cuối trang này tác giả V.N.S.L. lại nói: “Năm thứ 50 đời vua An Dương Vương Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc…”

Theo chỗ suy cứu của chúng tôi qua các cổ sử và cả các tài liệu do các học giả hiện đại sưu tầm chẳng thấy chỗ nào nói An Dương Vương xin quy nhà Tần hết. Và xem ngay V.N.S.L. ta cũng thấy điều không ổn, vì nếu An Dương Vương đã qui phục nhà Tần thì Tượng Quân cũng như Quế lâm và Nam Hải đã đặt dưới quyền của bọn Nhâm Ngao, Triệu Đà rồi, đâu còn phải sau này cất quân đi đánh nữa. Phải chăng đây là một sự mâu thuẫn của V.N.S.L.?

Hay đây chỉ là một sự thần phục về tinh thần chăng?

Cũng không, vì chẳng sách nào nói như vậy. Tóm lại, ta chỉ có thể tin như trên đây sau cuộc chinh phục của nhà Tần, ảnh hưởng của Tần chưa ra khỏi đất Quế Lâm và Nam Hải. Vì vậy khi Triệu Đà dựng xong nước Nam Việt mới lo kiêm tính cả Âu Lạc.

Trước khi xưng vương, Triệu Đà truyền hịch đi các cửa ải Hoàng phố, Dương Sơn, Hoàng Hác nói rằng cuộc biến loạn đang xảy khắp nơi, triều đình xa biên cương, hai quận Quế Lâm và Nam Hải cần phải tự chủ để đối phó với tình thế. Các quận huyện đều hưởng ứng. Đà liền cho giết hết các quan lại của nhà Tần đã đặt ra và đưa tay chân của mình lên sau đó đem quân đi đánh Âu Lạc.

Cuộc chinh phục Âu Lạc đến nay chưa có gì rõ rệt trong các sử sách. Có thuyết nói rằng buổi đầu Triệu Đà đánh Âu Lạc bị thất bại sau xin kết làm thân gia với An Dương Vương. Rồi sau này nhân An Dương Vương chểnh mảng việc nước. Triệu Đà đem quân đánh úp. Âu Lạc mât, và do cuộc diệt vong của Âu Lạc mới nảy ra một thiên tình sử đầy máu và nước mắt giữa Trọng Thủy, con trai Triệu Đà, và Mỵ Châu, con gái An Dương Vương.

Dù sao ta đã thấy về thực tế An Dương Vương mất nước. Theo Tư Mã Thiên “Triệu Đà đem binh uy hiếp biên thùy và lấy của cải dụ dỗ hai xứ Mân Việt và Tây Âu Lạc nên sai khiến được họ. “Việc này xảy ra vào năm thứ 9 đời Hán Cao Đế.

2 – Chính trị của Triệu Đà trên đất Giao Chỉ

Sauk hi chinh phục được Âu Lạc, Triệu Đà không áp dụng chế độ phương Bắc, ý giả cho rằng dân Âu Lạc vốn khó cai trị hơn dân Nam việt (tại Quảng Đông và Quảng Tây). Đà chỉ chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Có lẽ quận Giao Chỉ gồm hết địa phận Bắc việt và một phần đất phía Nam tỉnh Quảng Tây nữa. ở mỗi quận, Đà đặt một quan Điển Sứ để coi việc chính trị, hành chính, một quan tả tưởng coi việc quân sự, còn các quý tộc bản xứ vẫn giữ được thái ấp và trị dân như cũ. Con cháu của Thục Phán ở đất Tây Vu, trung tâm điểm Loa thành vẫn được xưng vương (Tây Vu vương) và được biệt đãi hơn cả. Chế độ Triệu thuộc xét như vậy không có gì quá khắt khe và không thay đổi đời sống của dân tộc Lạc Việt là bao nhiêu về các phương diện. Chúng tôi nói như vậy không phải là vì căn cứ vào chỗ Triệu Đà đóng kinh đô ở Phiên Ngung (Quảng Tây) và tập trung hết thảy các hoạt động chính trị, quân sự và kinh tế ở đây, mà xét về chính trị của Giao Chỉ và Cửu Chân. Hai xứ này bây giờ về chế độ thực tế chỉ là hai xứ phụ dung của Đế Quốc Nam Việt ở dưới quyền họ Triệu, GIao Chỉ vẫn giữa được đầy đủ các cá tính quốc gia, tinh thần cố hữu của nó. Lại nhân cuộc thay trò đổi cảnh hai xứ này được thêm sự mở mang kinh tế và chấn hung nông nghiệp. Điều đó phải nhận là có lợi cho dân bản địa.

Và tuy sử sách không nói nhiều về việc cai trị dưới thời Triệu Đà hay dở thế nào ở đất Giao Chỉ nhưng ta tin chắc rằng họ Triệu đã đối đãi dân Giao Chỉ không khác gì với nhân dân hai quận Quế Lâm, Nam Hải. Họ Triệu coi Giao Chỉ và Cửu Chân là giang sơn riêng của mình không như nhà Hán, nhà Đường trước và sau đó đã có sự phân biệt Trung Hoa ngoại di và do sự phân biệt các quan lại Tàu nhờ chỗ triều đình xa biên cương tha hồ vét đầy túi tham, vì vậy mà máu và nước mắt của chúng ta đã đổ ra rất nhiều. Trái lại Đà muốn các đất đai của Đế Quốc Nam Việt mạnh và tiến bộ để sự nghiệp của ông ở phương Nam được vững vàng và lâu bền.

3 – Nam Việt và Tây Hán

Nam Việt lúc bấy giờ đã mạnh về quân sự, về chính trị Nam Việt cũng thiết lập được mọi qui mô, khiến Hán triều phải thắc mắc. Điều này rất dễ hiểu vì Triệu Đà không những là một nhà tướng có tài mà lại còn là một nhà chính trị khôn ngoan sâu sắc, nếu so sánh ông với những người đồng thời tại Trung Quốc, có lẽ ông cũng không thua kém ai. (Xem cách ứng đối, tiến thoái sau này giữa ông với Lục giả, phái viên của Hán triều cử sang Nam Việt). Ông lo mở mang Nam Việt mục đích không chịu lệ thuộc về Trung Quốc, gây cơ sở riêng có đủ tính cách độc lập giữa lúc Lưu Bang bên Tàu đánh đổ nhà Tần dựng nên nhà Tây Hán. Nhân tâm Trung Quốc hướng cả vào họ Lưu như một cứu tinh vì đã từ lâu họ bị ngột ngạt trong cái không khi “bạo Tần”. Lần này với người anh hùng đất Bái nền thống nhất lĩnh thổ và sự thống nhất nhân tâm mới có hiệu lực thật sự, do đó Triệu Đà 13 năm sau đành chịu xưng thần với Hán chúa.

Năm Ất Tị (196 trước Công Lịch) Hán Cao Tổ phái Lục Giả sang chiêu dụ phương Nam. Nhà Triệu bấy giờ đã ra đời được 12 năm rồi và nhà Hán cũng được 11 năm. Trong cuộc gặp gỡ Hán sứ đã có một giai thoại như sau: Triệu ngồi thản nhiên khi sứ Hán tới. Lục Giả vốn là tay chính khác ngoại giao rất có tài nhưng trước thái độ kiêu căng của họ Triệu, ông vẫn bình tĩnh. Ông nói: “Nhà Vua hẳn rõ Hán đế bây giờ đã bình định được toàn cõi Trung Nguyên, thế lức ra sao không phải bàn. Mồ mả và bà con thân thích của nhà Vua ở cả châu Chân Định, nay nhà Vua không chịu thụ phong, không tiếp sứ, cái hại trước mắt hẳn nhà Vua cũng trông thấy…” Vũ nương thấy lời sứ giả quyết liệt tuy cách diễn tả điều lợi hại vẫn mềm dẻo liền niềm nở bước xuống tiếp sứ cười mà nói rằng: “Tiếc thay ta không khởi nghiệp ở Trung Quốc!”.

Do cử chỉ này ta hiểu Triệu Đà bấy giờ trong thâm tâm cũng thấy rằng dù sao Hán vẫn mạnh hơn Nam Việt. Hán chỉ cần sự thần phục của phương Nam để Trung Quốc có một uy thế về tinh thần đối với các ngoại biên mà thôi. Thực ra Hán cũng chẳng mong đòi hỏi và bó buộc gì hơn, Hán vừa gây dựng sự nghiệp, thế còn đang hang, chống lại Hán chỉ có hại, huống hồ Nam Việt so với Hán triều vẫn có thể thua cả lượng lẫn phẩm.

Cuộc bang giao Hán Việt êm đẹp được một thời, đến năm Mậu Ngọ (185 trước C.L.) Hán Cao Tổ qua đời, triều chính nhà Hán trải qua một cuộc khủng hoảng. Vợ Cao Tổ là Lã Hậu cướp ngôi của Huệ Đế. Chính sự ngửa nghiêng Lã Hậu nghe lời dèm pha bãi bỏ việc thông sứ với Vũ vương lại còn ra lệnh cấm người Hán không được buôn bán đồ vàng, đồ sắt và các dụng cụ canh nông với dân Nam Việt. Tóm lại mọi việc giao dịch về chính trị và kinh tế đều đoạn tuyệt hết.

Vũ Vương lấy làm bất bình, ngờ Trường Sa vương thêu dệt điều kia nọ với Lã Hậu, một mặt tự xưng là Nam Việt Hoàng Đế (Mậu Ngọ năm 25 tức năm 5 đời Hán Cao Hậu), để tỏ ý đứng ra ngoài vòng lệ thuộc của Hán triều, một mặt cất quân đánh vào quận Tràng sa là khu vực cai trị của Tràng Sa Vương (quận Tràng Sa ở vào địa hạt Hồ Nam bây giờ, chắc là nới giáp giới của đất Nam Việt).

Phản ứng đó kích thích Hán triều khá mạnh nên hai năm sau là năm Canh Thân, Cao Hậu phái Long Lân hầu Chu Táo đem quân qua Nam Việt trả thù. Thủy thổ phương Nam không thích hợp với Hán quân, nên họ ốm đau, chết hại rất nhiều. Về chiến sự quân Hán cũng không tiến được bước nào đáng kể. Kịp tới Cao Hậu mất (năm 180 trước C.L.) Hán triều xét việc Nam chinh không lợi liền ra lệnh bãi binh. Vũ Vương bấy giờ nhất thông phương Nam, sau vụ này uy danh càng lừng lẫy. Họ Triệu từ đó đàng hoàng dùng mọi nghi thức Hoàng Đế nhường như sánh đôi với Hán Đế ở Trung Quốc.

Họ Lã mất, Hán Văn Đế lên ngôi, cuộc bang giao Bắc Nam lại tiếp tục. Sự thần phục của Đế Quốc Nam Việt thuở đó rất quan hệ cho uy tín của các vương triều Trung Quốc, dường như vương triều nào không có Nam Việt trong vòng lệ thuộc của mình thì vương triều đó không rõ rệt là chúa tể bốn phương, mặc dầu “Thiên Triều Trung Quốc” vẫn coi khinh dân tộc Miền Nam là “Nam Man” cũng như đã gọi giống người bên kia Vạn Lý Trường Thành là Hung Nô hay “Phiên Ngung” hoặc “Rợ Hồ”. Sự miệt thị đó đã tỏ rõ cái tính kiêu ngạo của vương triều Trung Quốc tuy ngay trong thời đó và sau này, lịch sử từng chắng dẫn nhiều phen, vương triều Trung Quốc đã thất cơ lỡ vận và điêu đứng vì bọn “man di mọi rợ” đó: Mông cổ chiếm Trung Hoa, Mãn Thanh vào làm vua Trung Quốc, Lý Thường Kiệt nhập Tống, Trần Hưng Đạo bại nguyên, Nùng Trí Cao đánh chiếm Hoa Nam…

Hán triều lại phái Lục Giả sang Nam Việt và biết rằng xứ này dưới quyền điều khiển của một danh tướng xưa kia của Trung quốc luôn mấy chục năm đã càng ngày càng mạnh, huống hồ vàng thau đã có phen thử lửa, vậy áp dụng một giải pháp chính trị có lợi hơn là một giải pháp quân sự.

Rồi Lục Giả mang một bức thơ có những lời lẽ rất nhũn nhặn, nhờ vậy mà đôi bên Hán Việt lại nối tiếp cuộc hòa hiếu.

4 – Xã Hội Việt Nam dưới thời Triệu Đà

Triệu Vũ Vương mất năm Giáp Thìn (137 trước C.L.) làm vua được 70 năm, thọ 121 tuổi. Sự nghiệp của Vũ Vương thế nào, tới nay Lịch Sử không có biên chép rõ rệt lắm, ngay cả sự nghiệp của các Vua đời Hồng Bàng.

Ta chỉ biết đại khái rằng dưới thời Triệu Đà, mọi tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của Nam Việt đều rập theo đúng khuôn khổ của Trung Quốc.

Với Triệu Đà ta thấy xã hội Việt Nam bắt đầu tiến do sự phát triển về nông nghiệp nhờ sự cải thiện của nghệ thuật canh tác trước đây còn quá thô sơ (nghề săn bắn, chài lưới bấy giờ vẫn còn thịnh). Họ Triệu nhập cảng lưỡi cầy sắt để thay cho lưỡi cuốc bằng đá trau, cho dùng trâu bò thay vào sức người, đem gia súc từ Tàu qua để mở mang việc chăn nuôi, nhờ vậy mà sinh sản lượng tăng gia gấp bội; sự phát triển về văn hóa, chính trị, quân sự cũng do cái bản lĩnh hơn người của họ Triệu đã thúc đẩy dân tộc Việt nam lên một bước đáng kể, nếu ta nhớ rằng dưới đời Hồng Bàng người Việt Nam vẫn chưa thoát ly hẳn tình trạng bán khai, mọi điều còn ở trình độ rất thấp kém trước khi nước ta nội thuộc về phương Bắc.

Sự tiến hóa về các phương diện trên đây tuy còn ít ỏi nhưng cũng đã làm nảy nở ít nhiều ý thức quốc gia của người Việt, nhất là sau những cuộc xô xát bằng quân sự và ngoại giao với Hán triều trong thời Lã Hậu cầm quyền. Ý thức quốc gia đó qua các triều đại sau càng thêm mạnh do những cuộc đảo lộn chính trị ở Trung Quốc và trên đất Việt. Ý thức quốc gia còn nảy nở trong những giai đoạn người Việt độc lập, tự chủ và tự cường nữa. Tóm lại, ta có thể nhìn nhận người cắm cái mốc đầu tiên trên đường tiến hóa của chúng ta là tướng Triệu Đà. Còn nói rằng dân Việt có nên biết ơn sự nghiệp của Triệu Đà hay không thì ta thấy rằng họ Triệu đã mang hết tài năng thi thố trên đất Việt chỉ do một chủ trương kiến tạo một giang sơn giàu mạnh chominfh và cho con cháu chớ họ Triệu đâu có phụng sự một dị tộc.

5 – Những Vua Kế Nghiệp Triệu Đà

Với những trang trên đây, ta thấy Triệu Đà khôn ngoan, tài giỏi thế nào, điều này không ai chối cãi, nhưng đến đời con cháu tiếc thay lại quá đớn hèn. Ta than cho họ Triệu đã dầy công xây dựng một đế quốc có uy thế tại phương Nam, được Trung Quốc kiêng nể, biệt xử thì ta lại không khỏi buồn cho dân tộc chúng ta vừa bộc khởi được một giai đoạn lại bị Trung Quốc nhân sự bất lực của con cháu Triệu Đà mà đè bẹp ngay xuống.

Vũ Vương truyền ngôi cho cháu đích tôn là Hồ, con trai Trọng Thủy và Mỵ Châu tứ là Triệu Văn Vương, tại vị được 12 năm. Văn Vương tính tình nhu nhược, tài năng thấp kém lên ngôi được hai năm thì bị quân Mân Việt (Phúc Kiến) xâm lăng miền biên cương. Vì không đủ sức chống chọi được với quân Mân Việt, Văn Vương liền phái người sang cầu cứu Hán triều, Hàn An Quốc và Vương Khôi được lệnh Hán Đế đem quân đánh Mân Việt. Quân Mân Việt khiếp uy Hán triều sinh nội phản, giết quốc vuông lấy đầu dâng nộp. Nam Việt tránh được cái họa Mân Việt thì lại lần đi vào một mối nguy khác, nghĩa là do sự lộn xộn giữa Nam Việt và Mân Việt, nhà Hán hiểu rằng con cháu Triệu Đà bất lực liền nghĩ ngay đến việc chiếm nốt mảnh đất phương Nam để mở rộng cương vực Đế Quốc. Ta có thể tin rằng Hán triều khi đó chắc là mạnh lắm nên quân Hán chưa tới Mân Việt thì bên trong hàng ngũ quân Mân đã có sự rối loạn và sau đó có cuộc nội phản. Sau vụ Mân Việt bấy giờ chẳng mất đất đai thì cũng ít nhất phải xưng thần, tức là lệ thuộc về Hán, Hán Đế liền tính chiếm nốt Nam Việt, xét cơ hội lúc bấy giờ vô cùng thuận tiện. Khi Triệu Đà còn sống Hán Đế có bao giờ dám nghĩ tới việc này.

Giải quyết xong vấn đề Mân Việt, Hán Đế phái luôn người Trang Trợ snag dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Ai mà không nhớ cái lối vua chư hầu vào chầu Thiên Tử thời Xuân Thu chiến quốc! Thời đó là một thời đại loạn, vua chẳng ra vua (thời Đông Chu khi sắp tàn) tôi chẳng ra tôi, trật tự xã hội đảo điên, mạnh được yếu thua, lớn hiếp bé, cho nên có tục tới chầu hầu Thiên Tửu (phong tục này chỉ áp dụng cho bọn nhược tiểu) nhà vua không đến chầu thì phải cho con đi thay thế để tỏ lòng trung tín, đó là không kể chuyện xưng thần nạp cống hàng năm theo thường lệ. Người làm con tin có khi bị giữ lại 5 hay 10 năm không được quay về xứ sở, trừ dịp may có cuộc biến cố ở chính quốc. Lệ đó đến đời Hán vẫn còn truyền lại; Hán Đế đòi Triệu Văn Vương sang chầu xem Nam Việt có phản ứng gì chăng và nếu không có phản ứng tức là Nam Việt chịu hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Triệu Văn Vương ươn hèn, nhu nhược tất nhiên không dám trái ý “Thiên triều” còn quần thần của nhà vua khi đó rất là lúng túng. Người ta nhớ lại Triệu Vũ Vương lúc còn sống đã nói: “Thờ nhà Hán cho đủ lệ, chớ nên sang chầu vì sang chầu ít có cơ về”. Nghĩa là đối với Hán phải xử theo lối “kính nhi viễn chi”.

Cực chẳng đã, Văn Vương phái Thái tử Anh Tềđi thay. Anh Tề ở luôn tại đất Hán 10 năm có thừa, trong khi đó Hán triều tha hồ làm mưa nắng với triều đình Nam Việt. Năm Bính thin tức năm 125 trước Công Lịch, Văn Vương mất, Anh Tề mới được quay về quê hương để nối ngôi.

6 – Đế quốc Nam Việt sụp đổ

Mười năm sống trên đất Hán, Anh Tề có dan díu với một cô gái điếm ở đất Hàm Đan tức là Cù Thị. Sau này, Anh Tề trở nên Triệu Minh Vương, Cù Thị cũng theo về Nam Việt. Minh Vương cũng chỉ ở ngôi được 12 năm thì thở hơi cuối cùng năm Mậu Thìn (113 trước C.L.). Con là Thái tử Hưng lên thay thế giữa buổi ấu niên. Cù Thị được tôn làm thái hậu đóng vai chỉ đạo cho Triệu Ai Vương.

Hán triều lúc này rất chăm chú đến nội tình Nam Việt, dĩ nhiên vì Nam Việt là miếng mồi ngon, thịt béo. Cơ hội tốt đã đến bởi Ai Vương đã kém, con cũng lại chẳng hơn gì cha, cháu lại đang ở trong vòng thơ dại. Thảm hại hơn nữa, chính sự nam việt lại có người đàn bà chen vào, triều thần lại thiếu kẻ xuất sắc. Hán triều nghĩ ngay đến việc lấy hẳn Nam Việt. Lần này việc thôn tính có thể chắc chắn và dễ dàng hơn, không phải cần đến binh đao. Cũng năm Mậu Thìn ấy, Hán Đế phái sứ giả An Thiếu Quý sang Nam Việt dụ Ai Vương sang chầu, bọn Chung quân biện sĩ, làm chức Gián nghị Đại phu sang tuyên cáo lời dụ ấy. Theo kế hoạch bọn Ngụy thần làm dũng sĩ phụ tá để quyết định; Vệ úy Lộ Bác Đức đem binh đóng ở đồn Quế Dương đợi hiệu lệnh của sứ giả, giữ nhiệm vụ hậu tập. Quân đội tiên phong do Hàn Thiên Thu và Cù Nhạc (em Cù thị) điều khiển, tiến vào cõi Nam Việt đánh phá các ấp nhỏ cách thành Phiên Ngung 40 dặm…

Tóm lại, mưu của Hán triều là đem vua Nam Việt và thái hậu ra khỏi bờ cõi, rồi chiêu hàng triều đình Nam Việt, nếu không xong thì quân đội sẵn sàng tập công ngay tức khắc. Việc đánh phá của Hàn Thiên Thu có ý tiên báo triều đình Nam Việt chính sách của Hán Đế, nếu Nam Việt không chịu khuất phục.

An Thiếu Quý là nhân vật thế nào, và có quan trọng chăng? Y là tình nhân của Cù thị thuở trước khi Cù thị còn là kỷ nữ. Y xin lãnh sứ mạng đó, do hai mục đích công và tư. Rồi những việc gì phải đến đã đến: Hàng ngày y ra vào cung cấm tư thông với Cù thị không kể là điều ngang tai chướng mắt người Nam Việt. Y lại xúi mẹ con Ai Vương đem Nam Việt dâng nhà Hán, việc này được mẹ con Ai Vương hưởng ứng.

Nhưng một người đã không chịu cái trò “Về Hán” ấy, là Thái phó Lữ Gia. Ông là một kẻ huân thần của họ Triệu, làm quan trải 3 đời vua, con cháu tới 70 người dự chính. Ông khuyên can mẹ con Ai Vương nhiều lần không chuyển liền truyền hịch đi khắp nơi tố cáo nhân dân ý định dâng nước của Cù thị và Ai Vương, cùng mưu mô sâu độc của triều Hán. Liền ngay đó, ông họp đại thần đem cấm binh vào trừ An Thiếu Quý và mẹ con Cù thị, trong khi bọn này sửa soạn lên đường…Ông lập con trưởng Minh Vương là Hoảng tử Kiến Đức, con bà Thuật Dương dòng dõi Việt, lên làm vua tức là Dương Vương. Cuộc đảo chánh vừa xong, thì ngoài biên giới quân Hán Việt đã chạm trán nhau, Hàn Thiên Thu tử trận. Lữ Gia cho gói cờ Tiết của sứ giả trả về nhà Hán, và viết thơ nói khéo để tạ tội, mặt khác ông chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu.

Mùa đông năm Canh Ngọ (111 trước T.C.) Phục Ba tướng quân, Lộ bác Đức và Dương Bộc đem 9.000 binh chia làm 5 đạo, ồ ạt kéo sang Nam Việt. Lộ Bác Đức dùng đường Dự Chương đi xuống Hoành Phố. Qua thuyền Tướng quân là Nghiêm và Hạ Lại Tướng quân là Giáp, ra Linh Lang vượt Ly Thủy đến Thương Ngô, Tri Nghĩa Hầu là Quí lấy quân Dạ Lang qua sông Trường kha cùng vây đánh Phiên Ngung.

Hán quân trước hết hãm đường Tầm Thiếp thuộc Quảng Đông, phá Bến Đá của Lữ Gia, cướp được thuyền thóc của Nam Việt. Bác Đức đem tội nhân ở Ba Thục hơn 1000 tiến sau, trong khi Dương Bộc vây kín mặt Đông Nam kinh đô Nam Việt. Bác Đức tới phong tỏamặt Tây Bắc. Trong lúc này Triều đình Nam Việt hết sức chống đỡ, sau địch quân phá được thành và phóng hỏa khắp nơi, thành mất dân phải ra hàng.

Thương Ngô vương Triệu Quang cùng họ với vua Nam Việt và quan Giám ở Quế Lâm là Cư Ông cũng xin giải pháp. Mấy đạo quân Hán của Hạ Lại, Qua Thuyền và quân Dạ Lang của Tri Nghĩa Hầu chưa tới, Nam Việt đã mất. Vua Kiến Đức bỏ chạy ra bể xuống thuyền đi về phía Tây. Hiệu Úy Tư Mã là Tô Hoàng đuổi theo bắt được Kiến Đức. Việt Lang, Đỗ Kế bắt được Lữ Gia. Nam Việt phút chốc tan tành, vua tôi bị giết, năm đó là năm 111 trước Công lịch. Vì cuộc bại trận này, Nam Việt rơi vào vòng nô lệ của Trung Quốc và bị đổi ra làm Giao Chỉ Bộ, chia ra 9 quận trực thuộc quyền cai trị của quan lại Trung Quốc. (theo ch. Patris, Dương Vương và mẹ bị chết trong cung cấm khi Hán quân hãm thành).

Nhiều nhà viết sử hay phê bình nhân vật Lịch sử đã từng lên tiếng kết án hoặc mạt sát Cù Thị, cho rằng mẹ con Cù Hậu đã đưa lại cho người Việt cái họa mất nước. Ý kiến đó thiết tưởng quá khắc khe, tuy Cù Hậu không hẳn là vô tội đối với người Việt. Theo giáo lý Khổng Mạnh, Cù Hậu phải thờ chồng nuôi con để kế nghiệp tiên tổ. Về phương diện xã hội, địa vị của thị lại vô cùng quan hệ vì là kẻ phụ đạo cho thiếu quân. Nếu triều đình Nam Việt chẳng thừa nhận cái ưu thế tuyệt đối của Cù Thị, Cù Thị đâu có thể dự vào quốc chính. Chỉ hiềm người đàn bà này đầu óc quá tầm thường nên không ý thức được cái địa vị cao quí của mình, chỉ biết nghe theo tiếng gọi của ái tình. Ngoài ra, thị tưởng một cách đơn giản rằng mình là người Hán, nay có cơ hội đem nước Việt sáp nhập vào đất Hán là làm được một việc ái quốc huống hồ việc này lại còn do áp ực của tình nhân nữa. Xét cho phải, việc tồn vong của Nam Việt bấy giờ là do thời thế và chỉ nên quy trách nhiệm vào đám người lãnh đạo Nam Việt mà thôi.

Chúng ta ai mà không thấy từ Triệu Văn Vương, Minh Vương, Ai Vương đến Dương Vương thực lực Nam Việt mỗi ngày một kém, do chính sự suy bại dần, nhân tài không có. Sự yếu hèn đó là hậu quả của mấy tiền triều liên tiếp. Triều đình Hán mỗi ngày một mạnh thì trái lại hùng khí phương Nam lại sút kém dần. Tể tướng Lữ Gia và đám triều thần dưới đời Dương Vương, lòng trung quân ái quốc có lẽ có thừa nhưng tài kinh bang tế thế quả đã thiếu sót. Con thuyền mục nát ấy tất nhiên phải tan tành trước cơn gió dữ. Nếu quy tội lỗi cho người đàn bà góa vô hạnh và đứa trẻ thơ ngây chẳng hóa những ông mũ cao áo dài của luôn mấy triều không có trách nhiệm gì chăng? Đấy là ý kiến riêng của chúng tôi, nhưng để so sánh hai quan niệm cổ kim trước các biến chuyển của lịch sử, chúng tôi xin dành ít lời phê bình cho cụ Cử Dương Bá Trạc và sử thần Ngô thời Sĩ qua các dòng dưới đây:

Nước nào cũng có sử,

Chuyện xưa ghi chép đều hoàng đường,

Nước ta có nước từ bao giờ?

Hoa vua đầu hết là Hồng Bàng.

Truyền rằng vua lấy bà Âu Cơ,

Con vua Thủy Tề là nghĩa gì?

Con rồng cháu tiên đẻ trăm trướng,

Biển non hai ngả chia đường đi,

Nước mình lúc ấy chưa có sử,

Người sau thuật lại lắm chỗ kỳ,

Thần quyền thời đại tư tưởng thế,

Càng nói ma quỉ càng không nghĩ.

Cho hay tiền nhân thương nước nhỉ!

Nói quí người mình trong quốc thể?

Như người Nhật kể giống Thiên Hoàng,

Như người Tàu khoe giống Hoàng đế.

Bấy giờ chia nước mười năm khu.

Hong châu một xứ là kinh đô.

Nam giáp Hồ tôn, tây Ba thục,

Đông biển, Bắc đến Động Đình hồ.

Cứ trong bản đồ thật không sai,

Nước ta rầy giáp Quảng đông, tây,

Xưa là một nước tưởng cũng phải,

Bờ cõi ba phần nay mất hai.

Thục phán, Triệu Đà hai vua sau,

Người ở Âu Lạc, người Phiên Ngung,

Hợp với nước mình xáp làm một,

Dựng thành nước lớn trên địa cầu,

Phải chăng giang sơn có hào kiệt,

Tấc vàng tấc đất đừng cho Tàu.

Sau gồm Chiêm Thành lấy Chân Lạp,

Vẫy vùng biển Á nhường ai đâu,

Tiếc thay con cháu hai nhà này,

Giấy người lửa người đốt đang tay,

Người thì yêu con, kẻ mê vợ,

Nước đã gần mất còn chưa hay,

Nỏ rùa thành ốc, khéo bày đặt,

Cho hay Thục Phán người huyền hoặc,

Giữ gìn thành quách nhờ binh oai,

Trấn áp nhơn tâm mượn thần thuật,

Ông cha thì thế! Con cháu ngu.

Vô phúc đẻ phải nàng Mỵ Châu,

Nặng tính gối đệm, nhẹ xã tắc,

Hớ hênh đem nước cho quân thù.

Triệu Đà người Bắc sang làm vua,

Khai hóa người mình công cũng to,

Lê giáo phong tục của Trung Quốc,

Du nhập Nam thổ từ bấy giờ.

Tội với nước mình cũng nhà Triệu,

Vua hiền không có, nước liền yếu.

Kết cuộc, Minh Vương lấy vợ Tàu.

Đem cả non sông làm quà biếu.

Quân gì bán nước, hư là hư!

Lịch sử nước mình từ đây nhớ.

Về sau Đinh, Lê lập quốc lại,

Đất nước còn có như bây giờ.

7. Bàn về công tội của Thái phó Lữ Gia, Ngô Thời Sĩ viết:

“…Lữ Gia cầm quyền một nước, nắm giữ việc binh từ trong đến ngoài Cung phủ, đâu chẳng thuộc quan Chủng tể, Giả sử Lữ Gia là một kẻ sáng suốt, canh phòng cẩn mật, khám xét gắt gao: những lời ở sứ quán không lọt được vào cung, nhưng hạng đằng tần không được vượt ra khỏi cửa, rồi hậu lễ để tiếp sứ giả, nhún lời để đáp vua Hán, bề ngoài tỏ lòng kính thờ nước lớn, bề trong làm vững công cuộc phòng bị để chống cuộc chinh phục của nhà Hán, khiến họ biết trong nước có người tài thì dù họ có muốn ngốn nuốt đi nữa tự khắc cũng phải đổi đường toan tính. Mà từ đó mối binh tranh cũng đến phải ngừng.

“Vậy mà Lữ Gia để cho Cù Hậu và Thiếu Quý gặp nhau, bêu chuyện dâm ô ra khắp trong nước, cùng nhau làm thành cái mưu phụ thuộc vào nhà Hán. Lại trùng trình ngày tháng, biểu qua thư lại, đợi đến khi họ đã sửa soạn hành trang mới có thư cản ngăn, tiệc rượu không lành mới tính việc nổi loạn! Kịp lúc quân Hán đã kéo vào bờ cõi, không còn biết xoay mưu tính chước ra sao, bèn thí vua giết hậu để đi gấp đến bước diệt vong! Đâu lại có hạng người lo nước như vậy mà mong làm nên công chuyện được?

“Vậy thấy cái cuồng của Cù Hậu và cái ngu của Lữ Gia mà biết cuộc bại vong của họ Triệu đã gây nên, xây móng ngay từ lúc Anh Tề lấy vợ và phong tước rồi”.

Nhưng đến một chỗ khác, sử thần Ngô Thời Sĩ nhường nới tay đối với Lữ Gia và thể lượng cho cái khổ tiết của khách cô trung ấy:

“…Lữ Gia là thế thần họ Triệu, đương lúc chúa thơ ấu, nước nguy nghi, đối với nước lớn không biết lấy lễ để thờ, toan tính cái chước giữ nước mình cho bền vừng thì phương lược lại lầm lỡ, bên trong gây nên cái mưu của Cù Hậu, bên ngoài chọc giận vua Hán, rồi không lượng sức, tự làm cho chóng bại vong! Phiên Ngung không giữ được, rồi thế như đất lở không sao cứu nổi đến nỗi mất hết cả phần đất nước cũ của vua An Dương trước, khiến cho cái khu vực mà Hòa Trọng đã dựng ấy cũng thuộc về người Tàu từ Hán đến Đường hàng 5,6 trăm năm!

“Truy nguyên đến cái vạ ban đầu thì Lữ Gia không tránh khỏi tội vậy. Nhưng đó đều là những việc “đã rồi”. Gia riêng không lấy ấn tín nhà Hán làm vinh, giữ vững cái thuyết cho nội phụ là không tiện, không thể bảo là không trí.

“Giết Thiếu Quý, diệt Thiên Thu, gói trả sứ tiết nhà Hán, dàn quân giữ mọi nơi hiểm yếu, rửa sạch cái tức giận cho tiên quân ở nơi suối vàng; không thể bảo là không dũng.

“Bỏ một vua nay lại lập một vua khác, chỉ biết có con cháu Võ Đế, xã tắc họ Triệu, liều sống chết để giữ lấy, chứ không nghĩ đến chuyện khác; không thể bảo là không trung.

“Quân tử bàn người nên lấy từng đốt một. Đến như bỏ hiểm yếu làm mất nước, đành rằng Gia vẫn đắc tội với nhà Triệu. Nhưng từ nhà Triệu đến nay (triều Lê, đời Ngô thời Sĩ) chưa bao giờ có thể thu trọn được cả đất Ngũ Lĩnh, nhìn thẳng tận mặt để tranh với Trung nguyên thì là chuyện còn phải đợi đến những tay thánh hiền, hào kiệt ở sau này, cũng không đủ cho đó là tội của Lữ Gia được (Trích dịch theo nguyên văn chữ Hán trong Đại Việt Sử Ký, ngoại thuộc Triệu Ký).