← Quay lại trang sách

CHƯƠNG II NHÀ TÂY HÁN-BẮC THUỘC LẦN THỨ HAI-(111 trước Công Lịch – 39 sau Công Lịch)-

Đơn vị Hành chính trên đất Giao Chỉ.

- Bộ máy chánh quyền của Tây Hán.

1 – Những Khu Vực Hành Chính Trên Đất Giao Chỉ Dưới Đời Tây Hán

Đế quốc Nam Việt mất thì ở bên Giao Chỉ các quan lại của nhà Triệu cùng cá Lạc hầu Lạc tướng cũng mất tinh thần xin đầu hàng tuy Hán quân chưa vào cõi. Hai quan điểm sứ Giao Chỉ và Cửu Chân, nghe lời dụ của quan Giám quận Quế Lâm là Cư Ông, cũng đến dinh Lộ Bác Đức xin quy phục và nộp sổ dinh của dân Âu Lạc bấy giờ có 40 vạn. Một điều đáng chú ý, tại đất bản bộ của An Dương Vương là đất Tây Vu mà trung tâm điểm là Loa Thành, khi nghe thấy con cháu họ Triệu suy vong, các quý tộc địa phương toan thừa cơ hội để quật khởi. Tả tướng Hoàng Đồng do nàh Triệu đặt ở Giao Chỉ đàn áp ngay cuộc mưu toan cách mạng này.

Đối với Nam Việt và Giao Chỉ (nước phụ dung của đế quốc Nam Việt) nhà Tây Hán lập thành các quận như sau:

Nam Hải Hợp Phố vào địa hạt Quảng Đông Uất Lâm Thương Ngô gồm đất đai tỉnh Quảng Tây Giao Chỉ Cửu Chân Nhật Nam gồm Bắc Việt và mấy tỉnh Trung Việt Châu Nhai Đạm Nhĩ tức là Đảo Hải Nam

Theo Hán Thư Địa Lý Chí, Giao Chỉ gồm 92.440 nhà, 746.217 người, có 10 huyện là Liên Lâu, An Định, và Câu Lâu, Mê Linh, Khu Lương, Bác Đại, Tây Vu, Long Biên và Châu Diên. Mỗi huyện là một thái ấp của quý tộc cũ. Xét vị trí của 10 huyện trên đây, ta thấy rằng đại khái địa bàn của Giao Chỉ là vùng Trung du và Hạ du Bắc Việt, khoảng giữa lưu vực sông Nhị Hà và sông Thái Bình. Trị sở quận Giao Chỉ bấy giờ là thành Mê Linh nay là làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên. (Sử cũ gọi là Châu Phong, trung tâm điểm của các Lạc vương xưa).

Còn Tây Âu xưa kia An Dương Vương đã hợp nhất với Văn Lang. Có lẽ nhà Hán đã đem xép nhập vào với quận Quất Lâm ở Quảng Tây.

Cửu Chân gồm 35.743 nhà 166.013 người 7 huyện: Tư Phố, Cư Phong, Đô Lung (Đô Lương ngày nay chăng?), Dư Phát, Hàm Hoan, Võ Thiết (xưa là Võ Công) đại khái tương đương với miền Thanh Hóa lưu vực sông Mã, sông Chu và miền Nghệ Tĩnh.

Trị sở miền Cửu Chân có thể gọi là Tư Phố tức là làng Đông Sơn gần Hàm Rồng, mà 25 năm trước đây nhà Bác Cổ Viễn Đông đã khai quật được nhiều di tích về thời đại đồ đồng. Quận Cửu Chân từ trước đến bây giờ thuộc địa bàn của người Lạc Việt.

Nhật Nam

Quận Nhật Nam đến đời Tây Hán mới có, ở phía Nam Cửu Chân, phạm vi của nó kể từ phía Nam Đèo Ngang đến miền Nam đèo Hải Vân tức là vào khoảng giữa Trung Việt bây giờ. Quận này gồm có 15.460 nhà, 69.485 người, có 5 huyện là Chu Ngôm Ty Cảnh, Lộ Dung, Tây Quyền và Tượng Lâm. Trị sở,theo sự suy đoán của Đào Duy Anh, ở Tây Quyền tức là nơi Chiêm Thành sau này dựng thành Khu Túc để giữ biên giới của họ về phía Bắc. Địa điểm này giáp sông Gianh, tỉnh Quảng Bình, mà di tích thành Hời vẫn còn đến bây giờ. Dân ở đây là các bộ lạc thuộc giống Anh-đô-nê-diêng sống tại các nơi rừng rậm hay theo dọc sông biển. Di duyej của họ là những người Mọi, nhưng trên bờ sông Gianh bấy giờ đã xuất hiện một số người Lạc Việt ở đây rồi, căn cứ vào các đồ đồng đào được ở đây giống hệt đồ đồng đào được ở Đông Sơn.

Nhà Tây Hán để nguyện vẹn bộ máy cai trị của Giao Chỉ đã do nhà Triệu thiết lập. Xin nhắc rằng nhà Triệu xưa kia cũng tôn trọng tình trạng và chế độ của dân bản địa nên ta đã có thể coi dù thay thầy đổi chủ dân Lạc Việt ta vẫn giữ được nề nếp xưa về chính trị cũng như phong tục, bở vậy một vài học giả ngày nay cho rằng trên thực tế nước ta đã là một nước phụ dung dưới đời nhà Triệu.

Nhà Tây Hán vẫn dùng hai quan Điển Sứ của nhà Triệu, và họ được đổi sang chức mới là Thái Thú. Trên các Thái Thú có quan Thứ Sử tất nhiên là người Trung Quốc. Các Lạc hâu, Lạc tướng dưới quyền Thái Thú coi việc trị dân như cũ. Họ vẫn giữ quyền thế tập và chỉ phải mỗi năm nộp thuế cống cho Thái Thú, các Lạc dân vẫn làm ruộng nộp lúc cho các Lạc hầu, Lạc tướng như dân Mường, Thổ, đối với các quan Lang ngày nay. Họ có bổn phận phục dịch vào các việc xây thành, đắp đường, dựng lâu đài, doanh trại. Bên cạnh quan Thái Thú có một võ quan chức Đô Úy, chỉ huy một số quân đồn trú để giữ trật tự. Tóm lại, nhà Tây Hán trong 119 năm đô hộ đối với dân Lạc Việt buổi đầu bằng một chính sách tương đối tự do và nhân nhượng, nhưng sau khi Vương Mãng thoái, nhà Hán trung hung đối với các châu quận xa có sự thay đổi do mục đich kiểm soát ráo riết các miền ngoại biên. Trước kia, quan Thử Sử (như chức Thủ Hiến, hay Toàn quyền thời Pháp thuộc) cứ tháng 8 bắt đầu đi kinh lý, rồi đến đầu năm sau về Kinh trình bày mọi việc. Như vậy vị Thứ sử không ở nhất định tại châu trị. Đến đời Trung Hưng, các Thứ sử không được dời châu trị, dù có tang cha mẹ. Sự ngặt nghèo này gián tiếp cho ta biết trong thời Tây Hán, mầm cách mạng của dân ta thường hay nảy nở làm cho Bắc Triều phải ngày đêm thắc mắc, nên buộc các Thứ Sử phải luôn luôn có mặt tại trị sở để đối phó với tình thế, đề phòng sự bất trắc, và thi hành những luật lệ khắc nghiệt.

Cơ cấu hành chính thời đó đã thiết lập như sau đây: Thứ sử có các Lạc Viên tức là Tòng sự sử giúp việc. Dưới là quan Thái Thú có một viên Quận thừa thay mặt Thái Thú khi có nhiều việc. Chung quanh Thái Thú có các Duyên sử chia ra các Tào tức là các phòng giấy. Tỉ dụ Công tào sử lựa chọn người có công lao để tuyển dụng. Mỗi Tài có 1 số Thư tá (thư ký) chuyên việc giấy tờ, bẩm báo. Các quan lại cấp trên giúp việc Thức Sử và Thái Thú là người Trung Quốc còn từ Duyên sử và Thư tá thì không nhất định phải là người Trung quốc, tức là người bản xứ cũng được dùng đến, miễn có văn tự.

Trước cơ cấu chính trị và hành chính trên đây, ta nhận thấy tuy nhà Tây Hán có đạt ra nhiều phép tặc để ràng buộc dân chúng bản thổm quân đội thường trú lúc nào cũng có mặt để đề phòng mầm loạn, nhưng việc cai trị trực tiếp nhân dân vẫn ở trong tay quý tộc ta. Và chỉ có quý tộc bản thổ mới có đủ uy lực tinh thần và vật chất để cai trị nhân dân, khi đó còn sống lẻ tẻ từng đoàn thể theo hệ thống phong kiến. Vì vậy, nhà Hán không thể bãi bỏ cái vai trò của quý tộc Giao Chỉ, mặc dầu bao giờ cũng nghi ngờ, e ngại.

Có điều khiển ta phải suy nghĩ là chế độ Lạc Hầu, Lạc tướng thời bấy giờ rõ rệt giống chế độ phong kiến thời Trung Cổ ở Âu Châu sau này, các công, hầu, bá, tử, đá sống nhởn nhơ trên mồ hôi nước mắt đám nông nô. Duy tình trạng quý tộc và dân chúng Giao Chỉ thuở đó có sự đặc biệt là họ cùng bị áp chế mỗi giới một cách. Do chỗ đồng thuyền đồng điệu này, sau trên một thế kỷ đau khổ, họ đã hợp sức với nhau để đánh đuổi kẻ thù chung.

Viên Thứ Sử đầu tiên trên đất Việt là Thạch Đái, đóng ở Lũng Khê (thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh bây giờ), không thiện mà cũng không ác. Trong một thời gian, việc giao dịch giữa Giao Chỉ bộ với nhà Tây Hán không thấy sử sách ghi chép máy. Mãi đến năm Kỷ Sửu tức là năm Khiến Võ thứ năm, đời vua Hán Quang Vũ (nhà Đông Hán), mới thấy có chuyện Thứ sử Giao Châu là Đặng Nhượng cho sứ đem công vật về Trung Quốc. Trong thời Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, các quan cai trị Trung Quốc tại Giao Chỉ bộ không chịu thần phục (Đặng Nhượng, Tích Quang, Đỗ Mục…). Cuộc bang giao giữa Hán Triều và Giao Chỉ bộ đứt đoạn hẳn. Sau này vua Quang Vũ trung hung mới có sứ bộ Giao Chỉ đi lại. Đáng chú ý, một số quan lại, trí thức Trung Quốc lánh nạn chính trị chạy qua lưu trú ở Giao Chỉ đã góp một phần đáng kể trong việc mở mang văn hóa ở đây. Và lương quan của nhà Tây Hán có một vài người như Tích qunag và Nhậm Diên (không phải là Nhâm Diên), Thái thú Giao Chỉ, Cửu Chân đã tỏ được lòng chân chính với người Việt trong những năm đầu của Công Lịch là lúc xảy ra cuộc đô hộ được ít lâu.

Tích Quang sang bên ta từ đời vua Bình Vương (Tây Hán) vào khoảng năm thứ hai, thứ ba và Nhậm Diên từ năm Kiến Võ nhà Đông Hán. Họ khái hóa cho nhân dân, nhờ vậy dân mới được hiểu biết các điều lễ nghĩa, luân thường, đạo lý. Họ khuyến khích nông nghiệp bằng cách chỉ bảo trồng trọtcanh tác, khẩn hoang để tăng gia sản xuất. Trước kia, dân Giao Chỉ quen sinh sống bằng nghề săn bắn, chài lưới. Họ dạy việc lễ nghi, hiếu hỷ đặt thành quy tắc, và đáng chú ý học thực hành cả lòng nhân đạo bắt đầu ngay từ họ là những nhà cầm quyền (các lại thuộc phải san sẻ một phần lương bổng của mình để cấp đỡ dân chúng trong việc lấy vợ, lấy chồng). Do điểm này, ta hiểu nhân dân Giao Chỉ bấy giờ túng quẫn như thế nào. Và ta nên nhớ rằng các công cuộc Nhậm Diện và Tích Quang chỉ là sự tiếp tục sự nghiệp của tướng Triệu Đà thuở trước. Tiếc rằng Nhậm Diện chỉ cai trị quận Cửu Chân có 4 năm rồi phải đổi đi nơi khác. (Dân ta nhớ ơn ông nên làm đền thờ và lấy tên ông để đặt cho con, có lẽ theo ý họ, nhờ có công mà có dòng có giống?).

Sau này chế độ Tây Hán mỗi ngày một khe khắt do chính sách trực trị được thi hành triệt để, quý tộc và sĩ dân Giao Chỉ không chịu được sự bóc lột và tàn ác của đế quốc nên phải vùng dậy cùng nhau tranh đấu, chống kẻ xâm lăng.