CHƯƠNG IV -BẮC THUỘC LẦN THỨ BA-(Từ Đông Hán đến Nam Bắc triều)-(43 – 544)--
1 – Cuộc Cải Cách của Mã Viện tại Giao Châu
Nhà Trưng bị diệt rồi, Mã Viện thấy cần phải thiết lập một chế độ chặt chẽ để kìm hãm tinh thần quật cường của dân Giao Chỉ, đồng thời để thanh toán bằng uy quyền và võ lực những yếu tố bảo thủ còn ngăn trở ít nhiều chính sách đồng của Trung Quốc. Thực ra những yếu tố bảo thủ này còn non nớt do từ đời Hồng Bàng đến nhà Thục, nhà Triệu cho tới thời nhà Trưng mở nước, dân Lạc Việt ta chưa ra khỏi tình trạng sơ khai. Nền văn hóa cố hữu của chúng ta dù sao cung chỉ là mọt sự chớm nở đang tràn đầy sinh khí. Mã Viện đã thắng một cách dễ dàng, nhất là lúc này dân Giao chỉ vừa bại trận, tinh thần đang bị tê liệt hẳn, trước một chính sách hoàn toàn dựa vào sắt máu.
Mã Viện đi kinh lý khắp mọi nơi từ Giao Chỉ đến Cửu Chân đặt đồn ải, thành trì để phòng ngự cuộc dấy loạn. Chỗ nào có cư dân đông đúc, Mã Viện đặt quân, huyện rồi dùng người Trung QUốc điều động guồng máy cai trị. Nơi nào rộng quá thì xẻ ra cho nhỏ đi để tiện việc kiểm soát. Chỗ nào có thể mở mang việc canh tác, Mã Viện cho đào sông khai ngòi. Về luật pháp, Mã Viện xin Hán triều ban bố một chế độ riêng biệt giữa người Việt và Hán, tất nhiên để câu thúc dân bản địa gắt gao hơn. (Hán Hậu Thư quyển 44). Với chế độ này, giai cấp phong kiến và quý tộc Giao Chỉ mất hết uy quyền và ảnh hưởng mà Bắc phương đã nhận rõ là rất nguy hiểm cho việc đô hộ, do kinh nghiệm ở những việc đã xảy ra tức là từ nay Giao Chỉ bộ phải chịu chế độ trực trị. Về phương diện kinh tế, xã hội, Mã Viện cũng du nhập vào xứ này mọi phương thức của Trung Quốc.
Kết quả của cuộc thay đổi cảnh này bi đát như thế nào? Chúng tôi nói cuộc cải cách Mã Viện là điều bi đát bởi chúng tôi nghĩ rằng nó đã thủ tiêu một phần quan trọng cái tinh thần cố hữu của người Lạc Việt, là một cái gì quý nhất cho một dân tộc tuy rằng sau này cũng có sự bù trừ một phần nào.
Theo Đào Duy Anh, về phương diện nhân chủng, buổi đầu người Lạc Việt có lẽ còn mang rất ít yếu tố Mông-gô-lích, rồi trải qua hai thế kỷ thuộc nhà Triệu và nhà Tây Hán do sự hỗn hợp Việt Hán, yếu tố này tăng lên, nhưng yếu tố Anh-đô-nê-diêng vẫn còn giữ phần chủ yếu. Sau này với Mã viện và cuộc đô hộ trên một ngàn năm, sự tạp chủng với người Hán lại mạnh mẽ và ráo riết hơn lên, vì vậy sự thay đổi trong con người Lạc Việt càng rộng lớn hơn. Chứng cớ là cái mặt của người đàn bà Việt đào được ở Đông Sơn dưới đời Tống, sau thời kỳ Bắc thuộc, đã có nhiều nét Mông-gô-lích, duy cái sọ là còn dấu tích Anh-đô-nê-diêng mà thôi. Tuy vậy tính tình, phong tục, chế độ của người Việt Nam nhất là người bình dân dưới cá đời Trần, Lê vẫn còn giữ được một phần nào đặc biệt hay cố hữu, nếu so với dân Trung QUốc về phương diện này. Đến nay ta có thể nói rằng dù cuộc đồng hóa trong thời Bắc thuộc đã đi sâu, bén rộng vào cơ cấu chủng tộc và văn hóa của người Lạc Việt, nhưng qua thời kỳ nô lệ Trung QUốc, người Việt đã lấy tư cách Lạc Việt, dung hòa những yếu tố chủng tộc và văn hóa của người Hán tộc và một ít yếu tố của các giống khác để thành một nhân cách riêng. Nhân cách này đã được cấu tạo và đào luyện trong các cuộc tranh đấu đầy gian lao, đau khổ giữa những ngày nhục nhã và vinh quang qua 10 thế kỷ.
Một điều đáng kẻ sau khi hỗn chủng và đồng hóa với người Hán, cái gốc Lạc Việt chia làm hai chi phái: Một chi phí ở đồng bằng, do sự sinh hoạt và giao thông dễ dàng đã chịu khá nhiều ảnh hưởng của Hán tộc. Một chi phái tản mác lên các miền Thượng du ít xúc tiếp với người Hán nên còn giữ được nhiều yếu tố Lạc Việt thuần túy hơn. Đó là những người Mường mà một số đồng bào chúng ta ngày nay còn ngộ nhận là dị tộc.
Về văn hóa Lạc Việt, từ cuộc cải cách Mã Viện, ta còn thấy có sự biến đổi (về kỹ thuật) do những đồ cổ tích đào được ở Đông Sơn, trọng yếu nhất là đồ đồng mà nhà khảo cổ học Goloubew đặt vào thế kỷ thứ nhất thức là thời kỳ Mã Viện làm mưa nắng ở đây. Những đồ đồng này chia ra làm 3 bộ: bố thứ nhất là những trống đồng, lưỡi búa, lưỡi rìu, mũi mác, mũi tên, gươm hai lưỡi, dao găm có hình người cùng một số đồ trang sức thuần túy Lạc Việt, nhất là cái trống đồng Ngọc Lư. Bộ thứ hai là cái bình kiểu biển hồ, cái gương kiểu nhà Hán, những đồng tiền ngũ thù do người Trung Hoa đem đến. Bộ thứ ba là những đồ mà về mặt kỹ thuật đã chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, đại khái cái bình lớn có vết khuôn những miếng giáp đồng, những dao găm, những đồ nửa đồng nửa sát. Để kết luận, ta nhận thấy vài ảnh hưởng của Trung Quốc giữa thế kỷ thứ nhất về mọi phương diện chưa đậm đà lắm, nhưng sau này do cuộc đo hộ của nhà Đông Hán tiếp tới hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, ảnh hưởng của Hán tộc càng ngày càng mạnh nên những đồ dùng đào được ở Đông Sơn về đời Tống chỉ còn là đồ gốm của người Trung Hoa, đồ đồng của người Lạc Việt không thấy dấu vết nữa, chắc là mai một từ thuở đó.
Sự trạng này đã giúp luận cứ cho Maspéro đề kết rằng chính Mã Viện là người đầu tiên đã dùng bạo lực cưỡng gian văn hóa Lạc Việt tức là văn hóa Trung Quốc đi sâu xa vào đời sống của xã hội chúng ta từ cuộc tái chiếm Giao Chỉ của nhà Đông Hán.
Mã Viện chết đi, người Trung Quốc ở thị trấn Đông Hưng [1] có dựng đền và đúc tượng để thờ, ý chừng họ muốn thị oai với dân Việt. Một nhân vật vô danh đi qua có đề bài thơ dưới đây:
Trèo non vượt bể biết bao trùng!
Một trận Hồ Tây chút vẫy vùng
Quắc thước khoe chi mình tóc trắng,
Cân đai đọ với khách quần hồng!
Gièm chê luống những đầy xe ngọc.
Công cáo ra chi dựng tượng đồng?
Ai đó chép công, ta chép oán
Công riêng ai đó, oán ta chung.
Một bài Vịnh hai Bà cũng một tác giả khuyết tên tuổi:
Một bụng em cùng chị,
Hai vai nước với nhà.
Thành Mê khi đế bá,
Sông Gấm lúc phong ba.
Ngựa sắt mờ non Vệ,
Cờ lau mở động Hoa.
Ngàn năm bia đá tạc,
Công đức nhớ Hai Bà.
Chú thích:
[1] Thị trấn Đông Hưng của Tàu trông sang Moncay của ta chri cách con sông hẹp và cái cầu sắt.