← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III -NHÀ TRƯNG-(40 – 43 sau Công Lịch)-

Cuộc Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Đầu Tiên Của Việt Nam

- Hai Bà Trưng đuổi Tô Định

- Cuộc phục thù của nhà Đông Hán

- Tính chất Cách mạng của cuộc khởi nghĩa

- Nhưng cuộc cải cách của Mã Viện

1- Phất Cờ Nương Tử

Như ta đã thấy nhà Triệu bị đứt vào năm 111 trước Công lịch rồi nhà Tiền Hán đô hộ nước ta 150 năm. Trong khoảng thời gian này, tuy Nam Việt bị đổi ra Giao Chỉ bộ và sáp nhập và lãnh thổ Trung Quốc, nhưng dân chúng ở đây được hưởng thể chế một nước “phụ dung” nghĩa là quý tộc bản xứ vẫn trực tiếp cai trị nhân dân. Mỗi quận có một quan Thái thú chịu quyền quan Thứ sử là người điều khiển tối cao của Bộ. Ngoài chức Thái thu còn chức quan lệnh để trông nom hành chính ở cấp huyện thành là người Tàu bổ sang. Xét ra hành chính Giao Chỉ bộ không khác gì nền hành chính ở các địa phương khác tại lục địa Trung Quốc nhưng có điều kiện là các Lạc hầu, Lạc tướng của chúng ta vẫn được tại vị nguyên vẹn dầu phải lệ thuộc vào bộ máy chính quyền của người Tàu như trên đã nói.

Nhưng đến đầu thế kỷ thứ nhất (Công Lịch) nhà Teiefn Hán suy kém dần rồi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán từ năm thứ 9 đến năm thứ 26 Giao Chỉ bộ xa triều đình nên không còn liên lạc gì với chính quốc. Nhiều văn thần võ tướng của Hán triều sang tỵ nạn ở nước ra để được yên ổn rồi bọn người di cư này được thay thế dần đám quan lại bản xứ. Họ lại chiếm cả một số ruộng đất ở đây dựa vào thế họ là người của “Thiên triều”.

Bị xâm lăng về quyền hành, lại bị đẽo gọt cả về kinh tế, quý tộc cũng như nhân dân Giao Chỉ rất lấy làm căm phẫn và thấy đời sống bị đe dọa. Lại ngay bấy giờ (Giáp Ngọ (34) năm Kiến Vũ thứ 10) Tô Định sang làm Thái thú ở quận bóc lột nhân dân quá tệ, dân Việt đến nước không còn chịu đựng được hơn nữa.

Họ tuyệt vọng rồi Giao Chỉ bộ trở thành một đống thuốc sung chỉ đợi người ta ném xuống một chiếc qua diêm là bùng nổ.

Đấy là nguyên nhân gần nhất.

Nguyên nhân xa hơn nữa trước khi Tô Định đến Giao Chỉ bộ, dân Việt đã quá nghèo khổ rồi đến nỗi đầu thế kỷ thứ nhất, nghĩa là trước đó trên 30 năm, Tích Quang và Nhậm Diên1[1] hai lương lại của Trung Quốc phải hô hào các loại thuộc bớt tiền lương giúp dân bản địa lấy vợ lấy chồng. Tích Quang cũng như Nhậm Diên nhân dịp này du nhập văn hóa Trung Quốc vào dất Việt bằng cách dạy dân về lễ nghĩa và nghề canh tác, nhờ vậy mới có đủ thóc gạo ăn thì dư hiểu hơn 150 năm sống trong cảnh nô lệ, dân Việt đã lụn bại cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ ở yên trong bấy lâu là vì trước đây Tích Quang, Nhậm Diện đã dùng nhiều thủ đoạn khôn khéo xoa dịu nỗi đau khổ của họ phần nào. Nhưng đây chỉ là những hạt mưa hiếm hoi trong một cánh đồng bị hạn hán lâu ngày. Sự kiện này chỉ trì hoàn được cuộc nổi loạn nhất thời mà thôi. Hai lương lại này đi rồi, Tô Định đến Giao Chỉ đã áp dụng một chế độ bạo ngược tham tàn. Một phần cũng tại từ thời Trung hung (Vương Mãng Đổ, nhà Đông Hán ra đời), chính sách ngoại biên bắt đầu cứng rắn, nhiều luật lệ ngặt nghèo được đặt ra và các Thứ sử phải ở luôn phủ trị không được đi về như trước để phòng loạn. Đấy là những việc đã khêu ngọn lửa oán hờn của nhân dân Nam Việt.

Bấy giờ quý tộc ở Mê Linh, làng Hạ Lôi, tổng Yên Lãng, tỉnh Phú Yên, có nhà Lạc tướng dòng dõi Lạc vương có nhiều uy danh nhất. Con gái là Trưng Chắc rất dũng cảm kết hôn cùng con trai Lạc tướng Chu Diên là Đặng Thi Sách bấy giờ đang làm quan lệnh tại địa hạt này1[2].

Đặng Thi Sách cũng là một nhân vật anh hùng, khí khái, đã cùng Trưng Chắc nên duyên chồng vợ vì đôi bên cùng yêu dân thương nước như nhau, cùng có đầu óc bài Hán. Vợ chồng họ Đặng đã âm mưu cùng mẹ (mẹ bà Trưng) là bà Man Thiện cháu ngoại Lạc Vương góa chồng từ sớm, để lật đỏ chế độ Hán Thuộc. Tình ý của gia đình cách mạng này đã lọt vào mắt của bọn thống trị nên Tô Định thi hành gấp nhiều biện pháp để ràng buộc và bắt bớ các nhà Cách mạng người Việt mà vợ chồng Thi Sách được coi là nguy hiểm nhất. Xin nhớ thêm rằng bên cạnh vợ chồng Thi Sách và Trưng Chắc, quý tộc và hào kiệt cùng nhân dân khắp nơi đều hưởng ứng chẳng khác chi thời kháng chiến chống quân Tần xưa kia.

Bắt đầu là các đồng chí ở Đông Sàng, Liên Chiểu, Phù Xá (Phúc Yên) đem nữ binh đến giúp. Quân số mới có 2.000 sau được quân của các bộ lạc, các huyện, châu, quận gần xa nổi lên ủng hộ đông tới hàng vạn.

Cuộc tổ chức võ trang chống Hán còn ở trong vòng âm thầm, bí mật thì Tô Định cho quân đến bắt vợ chồng ông Đặng Thi Sách. Thế chẳng đừng, cờ Mê Linh liền phất lên công khai nhưng Thi Sách chưa chuẩn bị đầy đủ nên bị tử trận. Việc rất không may này không làm nản lòng hai vị nữ chiến sĩ; Bà Trưng vội thay chồng cầm quyền đại tướng xông ra trước quân thù sau khi thiếp lập xong đại bản doanh ở Nam Nguyên (Hát Môn).

Quân Cách mạng đánh thẳng vào Liên lâu thành (theo Maspéro và C. Patris phủ trị của Giao Chỉ bộ bấy giờ đang ở phía Nam tỉnh Hà Đông, bên bờ sông Nhuệ gọi là thành Liên lâu).

Tương truyền khi xuất trận hai Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng, che lọng vàng, trang sức rất lộng lẫy, tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm19.

Quân Hán bấy giờ phần nhiều là quân Bắc, vóc người to lớn khí giới lại sắc bén, giáp trụ đầy đủ, tiến lui có phương pháp và kỷ luật, tướng tá của họ thông thạo chiến thuật, chiến lược.

Quân Việt thì ô hợp, vũ khí thô sơ, thiếu thốn lại kém rèn luyện ít kinh nghiệm chiến trường. Tuy vậy khi hai quân gặp nhau, quân Việt nhờ có lòng căm thù bốc mạnh như gió bão nên đánh rất hang, quân Hán khắp nơi phải bỏ chạy. Chẳng bao lâu, các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và toàn bộ Giao Chỉ thuộc quyền kiểm soát của quân Cách Mạng. Núi sông của Lạc Việt lại trở về tay chủ cũ sau khi Tô Định và lũ bộ hạ chạy tháo thân về Nam Hải20.

Dẹp yên quân Hán thâu được 5621 thành Hai bà xưng vương đóng đô tại quê nhà là Mê Linh. Nền độc lập được thâu hồi từ năm Canh Tí đến tháng hai năm Quí Mão (40 -43 sau C.L.). Các quy mô lập quốc chưa kiệp thành hình và có điều đáng kể, hieeuk lệnh cũng chưa thấu được các châu, quận xa vì đường giao thông khó khăn. Trên thực tế uy quyền của hai Bà chỉ thi thố được trong nội địa Mê Linh và Chu Diên, nhiều nhất là trong thành ấp, quận Giao Chỉ và Cửu Chân mà thôi22.

2 – Cuộc phục thù của Nhà Đông Hán

Trong giai đoạn có cuộc cách mạng nổi lên ở Giao Chỉ, nhà Đông Hán cũng đang mắc míu vào nhiều vụ lộn xộn bên Trung Quốc nên chưa đối phó ngay được với nhà Trưng. Họ mới chỉ ra lệnh cho các quận miền Nam dự bị xe cộ, thuyền bè, binh sĩ, bắc cầu, đắp đường cũng dự trữ lương thực.

Tháng 12 năm 17 hiệu Kiến Võ (tháng 1 năm 42) Hán triều cử Mã Viện là một lão tướng hữu danh 70 tuổi, vừa đàn áp xong cuộc quật khởi của Lý Quảng ở Hoãn Thành (An Huy) trở về. Mã Viện được phong chức Phục Ba tướng quân cầm đầu cuộc viễn chinh. Phụ tá của Mã có Lưu Long và Đoàn Chí. Họ Đoàn phụ trách về thủy quân.

Các tướng Hán mang hơn một vạn binh sĩ lấy ở các quận Tràng Sa, Quế Dương, Linh Lăng và Thương Ngô. Tháng 9 năm 17 hiệu Kiến Võ (năm 42 sau C.L.); họ lấy thêm 12.000 ở các quận thuộc về bộ Giao Chỉ, (chắc là ở các địa hạt thuộc Nam Quảng Tây chưa chịu ảnh hưởng của nhà Trưng).

Bộ binh của Hán từ Hồ Nam tiến xuống Quảng Tây và Quảng Đông tập trung với thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Đoàn Chí đến đây chưa bao lâu thì bị bệnh và chết. Vua Hán ra lệnh cho Mã Viện theo đường thủy mà tiến vào. Họ Mã phải đi tắt qua Quảng Yên rồi do sông Thái Bình mà xâm nhập vào nội địa của dân ta23. Quân lâu thuyền (thuyền chiến có lầu) lục tục đi theo do sông Bạch Đằng.[3]

Ở những miền Hán quân đi qua bấy giờ không sự kháng cự nào đáng kể, có lẽ các bộ lạc chưa kịp tổ chức kháng chiến hoặc không chịu mệnh lệnh của Mê Linh. Theo Ch. Patris các tù trưởng đã kết hợp với hai Bà chỉ do mục đích đả phá chế độ trung ương tập quyền của nhà Hán không lẽ họ lại tự ý khuất phục hai Bà dù sao cũng chỉ là một trong các nhóm tù trưởng ở xứ Giao Chỉ như họ bấy giờ mà thôi…

Hình như thấy việc đi sâu vào nội địa của nhà Trưng là điều bất lợi, quân Đông Hán lại rút ra hoặc bị đánh bật ra, rồi họ về đóng ở Lãng Bạc gần Tiên Du Sơn, thuộc tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Theo H.Maspéro, Lãng Bạc đây không phải Hồ Tây bây giờ mà là một địa điểm ở sát hai con sông chảy về phía Nam Giao Chỉ, giữa thành Cổ Loa về phía Tây và Long Uyên ở phía Đông. Giáo sư H. Maspéro dựa vào sách Thủy Kinh Chú.

Tới đây khí hậu ác độc của phương Nam đã làm cho binh sĩ Đông Hán tật bệnh nhiều, nào nước lụt, nào mưa nhiều, nắng hạ bốc lên như lửa đốt, trên trời diều hâu đang bay bỗng rớt xuống mà chết. Chính Mã Viện lúc này cũng thấy ngao ngán cho cái ấn phong hầu và cái quyền đại tướng của mình.

Nhưng nghĩ đến sứ mạng quận vương trao cho rất là trịnh trọng. Mã phải gắng. Rồi một trận lớn đã diễn ra tại Lãng Bạc do sự tấn công của Việt quân tự Tây Vu (hay Tây Lý) kéo đến (vào tháng 3 năm 18, hiệu Kiến Vũ tức là tháng 4 năm 43).

Trưng Vương đại bại rút về Cẩm Khê (theo Cương Mục). Cẩm Khê thuộc phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên. Theo chúng tôi ở bên sông Thao, tỉnh Phú Thọ 10 cây số về phía Bắc có huyện Cẩm Khê, trước mặt có nước, sau rừng rậm có núi cao, có thể Trưng Vương đã cố lợi dụng địa điểm quân sự này chăng? Ngay tại làng Hiền Quan trông sang tỉnh lỵ Phú Thọ có một ngôi đền lớn thời một vị nữ tướng của nhà Trưng, điều này cũng đáng cho ta suy nghĩ.

Theo Hậu Hán Thư, Lưu Long phá được nghĩa quân, bắt được Trưng Nhị nhưng Mã Viện Truyện cũng trong sách ấy chép rằng tự Mã Viện đuổi được quân của nhà Trưng đến Cẩm Khê và đánh tan được nghĩa binh. Tháng Giêng năm sau, Mã Viện chém được Trưng Chắc và Trưng Nhị rồi gởi đầu về Lạc Vương báo tiệp. Theo sử ta và theo thần tích làng Hạ Lôi chỉ có Trưng Nhị tử trận, còn Trưng Trắc thì lên núi Hi Sơn rồi hóa. Dã sư của ta nói hai Bà tự trầm ở Hát Giang. Nay ở bãi Đồng Nhân gần Hà Nội có đền thờ hai Bà hàng năm đến 6 tháng 2 thì có hội và quốc tế.

Sau cuộc đại thắng này Mã Viện tiến vào Cửu Chân với hai ngàn chiếc thuyền và hai vạn quân trừ nốt được thủ túc của Trưng Vương là bọn Đô Lương từ huyện Võ Công đến huyện Cư Phong, chém được hơn hai ngày thủ cấp.

3 – Tính chất cách mạng của Cuộc Khởi Nghĩa Năm Canh Tý

Cuộc chống đối một Đế quốc xâm lăng hay thống trị để giải ách cho nhân dân và để thoát ly nô lệ phải được gọi là cuộc Cách mạng. Sử ta trước đây chưa quen với danh thử mới này còn các nhà chép sử vào thời Phép thuộc cũng e dè là điều ta đã hiểu nên chỉ gọi cuộc chống đối của hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa.

Cuộc Cách mạng năm Canh Tý ngày nay được quan niệm là một đấu tranh do thị tộc mẫu hệ lĩnh đạo, do quý tốc chỉ huy và do nhân dân tích cự tham gia, hưởng ứng.

Nó biểu thị được thinh thần bất khuất của ông cha người Việt chúng ta đã luôn luôn coi Tự do, Độc Lập là lẽ sống duy nhất từ thuở còn quy tụ ở lưu vực sông Dương Tử xuống đến phần đất cuối cùng của Hoa Nam ngày nay. Cuộc Cách mạng trên đây đã thành công mau lẹ buổi đầu nhờ sự đoàn kết giữa các bộ lạc không cam khuất thân làm tôi tớ người ngoài. Về sự thất bại của nó. Theo Ô. Bùi Quang Trung, giảng sư tại trường Văn Khoa đại học: “Nhà nước tự chủ do Trưng Vương xây dựng với sự tập hợp của các bộ lạc trong ấy về kinh tế thì quan hệ sản xuất thị tộc còn nặng về chính trị thì xu hướng phân tán tự lập còn mạnh, chưa có cơ sở nào tổ chức vững chắc nên trước sự phản công mạnh mẽ của Hán quân là lực lượng quân sự của một quốc gia hùng cường, thì nó không thể duy trì nổi. Vì thế mà sự thất bại cũng mau chóng và dễ dàng…”

Lương Đức Thiệp trong Việt Nam Tiến Hóa Sử nói: “Một xã hội không thống nhất như xã hội phong kiến đâu có thể gây được sức đoàn kết lâu dài, hướng chi xã hội nông nghiệp lại không phải là chỗ tựa vững bền cho xã hội thị tộc mẫu hệ sinh tồn. Ngay những mâu thuẫn nội tại này cũng đủ làm cho sự nghiệp của hai Bà phải nghiêng ngửa, huống chi hai Bà còn phải đương đầu với những lực lượng binh bị có tổ chức nữa, nên khi Mã Viện đem quân sang chinh phạt, hai Bà đương không nổi đều bị hại. Đám quân ô hợp tự tan ra. Bọn quý tộc phần thì bỏ trốn, phần thì đầu hàng…”

Về nguyên nhân phát sinh ra cuộc cách mạng năm Canh Tý, một số sử cũ của ta đã vô tình cho rằng động lực thúc đẩy nó là một cuộc báo phục của các nhân bà Trưng. Tỉ dụ Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có câu:

Bà Trưng quê ở Châu phong

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền.

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…

Rồi từ Việt Nam sử lược, Việt nam văn hóa sử cương, Khâm định Việt sử…cũng không có sự trình bày rõ rệt tính cách của cuộc Cách mạng này khiến hậu sinh chúng ta có thể lầm rằng bà Trưng đã vì thù hà hơn vì hận nước.

Nhưng nhiều sách sử của Trung Quốc lại nhắc đến việc hai Bà phân minh hơn.

Hậu Hán Thư viết: Người đàn bà ở Giao Chỉ tên là Trưng Chắc với em là Trưng Nhì làm phản “Chú: Trưng Trắc là con gái Lạc tướng ở Mê Linh, vợ người huyện Chu Diên tên là Thi Sách rất hùng dũng”. Thái thú Giao Chỉ là Tô Định lấy pháp luật mà ràng buộc. Chắc oán giận nên làm phản.

Việt Kiều Thư, Annam CHí Nguyên cũng xác nhận như trên, sau này giao sư Maspéro cũng cho rằng: dân tộc Lạc Việt bấy giờ oán ghét Tô Định lắm. Họ đã sắp đặt âm mưu chống Hán và người đứng đầu là Thi Sách. Như vậy ta hiểu rằng Thi Sách không bị giết thì cuộc Cách Mạng vẫn bùng nổ chỉ khác việc Tô Định giết Thi Sách đã thúc đẩy cuộc Cách mạng tiến gấp mà thôi. Ngoài ra ta nên nhớ rằng nếu lòng người không chán ghét Tô Định và chế độ cay nghiệt của nhà Đông Hán, người ta có thể vì cuộc báo thù của một cá nhân mà nổi lên như song cồn chống quân thống trị chăng? Dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã vậy, còn dân Nhật Nam, Hợp Phố là những dân ở xa ảnh hưởng của quý tộc Giao Chỉ thì sao? Tóm lại, khi mà toàn dân nổi lên tranh đấu thì cuộc tranh đấu phải là vì chính nghĩa chớ không bao giờ vì quyền lợi của một cá nhân, dầu cá nhân đó có nhiều uy vọng đến đâu!

Do nhưng lý kể trên, ta có thể kết luận việc chống Hán năm Canh Tý bắt nguồn ở ý định lật đổ chế độ Hán thuộc và do lòng ham sống tự do của giống dòng Hồng Lạc vậy.

Chú thích:

1[1] Tích Quang đến Giao Chỉ vào đầu thế kỷ thứ nhất năm thứ ba hay là thứ ba dời vua Bình Vương nhà Tây Hán. Nhậm Diên làm Thái thú quận Cửu Chân từ năm Kiến Vũ nhà Đông Hán. Cả hai chỉ ở nước ta khoảng 4 hay 5 năm mà thôi.

1[2] Chu Diên thuộc phủ Vĩnh Tương trước thuộc về Sơn Tây sau thuộc về tỉnh Vĩnh Yên.

19 Quân sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên. Hai Bà giải thích rằng việc nước là hệ trọng, không thể vì nỗi đau buồn riêng mà hủy bỏ dung nhan khiến thần thí kém đi. Trái lại, phải phấn khởi quân sắc y phục rực rỡ để quân địch bị xúc động mới dễ thắng.

20 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.

21 Tô Định bỏ chạy. Thứ sử lúc này ở Liên lâu thành với họ Tô cũng tháo lui một lúc bởi bấy giờ nước ta chia ra làm 2 quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Thứ sử đóng tại Giao Chỉ nên cùng ở một nơi với Thái thú.

22 Miền Hợp Phố và Nhật Nam bấy giờ không có quan hệ trực tiếp với Mê Linh vì cách quá xa.

23 Theo Nguyễn Văn Tố, Mã Viện dùng đường biển quan vùng Ô Hứa (Lạng Sơn) men theo một bên là núi, một bên là nhánh Bắc sông Thái Bình để tránh các đầm lầy bởi thuở đó nước thủy triều còn vào đến Trung châu ngày nay.