CHƯƠNG VII NHÀ TRẦN (1225 – 1413)-NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI ĐỜI TRẦN SƠ--
NHÀ TIỀN TRẦN
Trần Thái Tông (1225 – 1258)
Trần Thánh Tông (1258 – 1278)
Trần Nhân Tông (1279 – 1293)
Trần Anh Tông (1293 – 1314)
Trần Minh Tông (1314 – 1329)
Trần Hiến Tông (1329 – 1341)
Trần Dụ Tông (1341 – 1369)
Trần Nghệ Tông (1370 – 1372)
Trần Duệ Tông (1372 – 1377)
Trần Phế Đế (1377 – 1388)
Trần Thuận Tông (1388 – 1398)
NHÀ HẬU TRẦN
Giản Định Đế (1407 – 1409)
Trần Quý Khoách (1409 – 1413)
I. Trần Thái Tông (1225 – 1258)
1 – Tàn Sát Họ Lý.
Lý Huệ Tông và Chiêu Hoàng tuy bị gạt ra ngoài lề sân khấu chính trị thuở đó và mặc dầu Trần Cảnh đã lên ngôi. Thủ Độ vẫn còn thắc mắc. Muốn cho địa vị của dòng họ mình hoàn toàn vững chắc, Thủ Độ liền lo tiêu diệt hết thảy dòng giống của nhà Lý. Trần Thái Tông mới lên 8 tuổi nên giờ đây Thủ Độ đóng vai chúa tể trong nước với chức Thái Sư Thông quốc Hành quân chinh Thảo Sứ. Mặc dầu xuất thân không phải là kẻ có căn bản học thức uyên bác, nhưng Thủ Độ thông minh lỗi lạc phi thường, Thủ Độ lại có tính rất cương quyết để làm những việc tàn ác kinh thiên động địa nếu cần.
Một hôm Thủ Độ đi qua chùa Chân Giáo thấy Huệ Tông đang ngồi nhổ cỏ liền nói một câu: “nhổ cỏ phải nhổ cả rễ cái của nó đi!”
Huệ Tông liền đứng dậy đáp: “Nhà ngươi nói thế ta đủ hiểu lắm rồi”. Sau mấy hôm Thủ Độ cho mời Huệ Tông. Huệ Tông biết ý liền vào nhà trong thắt cổ. Thủ Độ được tin đem các quan triều thần vào tế khóc rồi đem hỏa táng và chôn tại tháp Bảo Quang.
Năm Nhâm Thìn (1232) trong dịp các tông thất nhà Lý làm lễ tế tiên hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường (làng Hòa Lâm, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh) Thủ Độ cho đào hầm làm nhà lá ở trên. Khi các tông thất nhà Lý vào lễ, Thủ Độ cho đánh sập cả xuống hố. Thủ Độ cho chôn sống hết. Sau đó nhân ông tổ họ Trần tên là Lý, Thủ Độ hạ lệnh trong nước ai họ Lý đều phải cả ra họ Nguyễn, mục đích xóa hẳn họ Lý trong ký ức của dân chúng và hậu thế.
2 – Đảo Lộn Nhân Luân
Chiêu Thánh lấy Trần Thái Tông 12 năm vẫn không có con, Thủ Độ liền bắt Thái Tông bỏ, giáng xuống làm công chúa rồi đem chị bà Chiêu Thánh tức là vợ Trần Liễu vào cung làm hoàng hậu vì bà này đang có mang ba tháng do ý muốn giữ vững cái ngai vàng vừa cướp được.
Thủ Độ xa hơn nữa nên xướng thuyết: Trai gái họ Trần lấy lẫn nhau. Rồi Thủ Độ thi hành ý tưởng này trước nhất, bằng sự kết duyên với Thái hậu Trần Thị, vợ Lý Huệ Tông, chị họ của Thủ Độ khi đó đã giáng xuống làm Thiên Cực công chúa. Đây là một việc loạn luân từ cổ đến kim chưa hề có, nhưng nó có một cái lợi chắc chắn (tương đối) là tránh được cái nạn thoán nghịch của ngoại thích. Trần Liễu uất ức không chịu được đem quân làm loạn nhưng không nổi, rồi nhân khi Thái Tông ngự thuyền đi chơi, Trần Liễu giả làm người đánh cá lén đến thuyền ngự tạ tội. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ rút gươm định chém Trần Liễu. Vua Thái Tông hết sức cản ngăn mới xong. Sau Thái Tông cắt đất Yên Phụ, Yên Dương, Yên Sơn, Yên Bằng (thuộc Đông Triều, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) làm thái ấp cho Trần Liễu và phong làm An Sinh vương.
Về phần vua Thái Tông đối với sự áp chế của Trần Thủ Độ cũng đau khổ. Một đêm ngài bỏ kinh thành trốn đi ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên). Thủ Độ đem các quan đi đón về triều, Thái Tông không chịu về tuyên bố rằng mình còn ít tuổi không kham được việc lớn và yêu cầu triều đình tìm người xứng đáng thay Ngài.
Thủ Độ liền bảo các quan: Hoàng thượng ở đâu thì triều đình ở đó rồi truyền lo liệu xây dựng cung điện. Thượng tọa chùa Phú Vân phải vào kêu nài Thái Tông mới chịu xa giá về kinh.
3 – Việc Đánh Dẹp Trong Nước
Việc họ Trần cướp ngai vàng của họ Lý, giết tróc con cháu nhà Lý, thay bậc đổi ngôi một dòng họ đã trị vì 216 năm và đã làm nhiều công ơn cho đất nước, đảo lộn nhân luân phong hóa không khỏi gây nên một cuộc khủng hoảng chính trị lớn trong giai đoạn đầu tiên. Sĩ phu trong nước có một phản ứng khá mạnh và ở các nơi dân dã cũng có nhiều sự xôn xao. Rồi nhiều cuộc phiến loạn đã bùng ra. Nhưng phải công bằng mà nhận rằng nhân tâm bắt đầu rối ren kể từ mấy ông vua bất lực cuối cùng của họ Lý, (đời vua Cao Tông trở đi). Giặc cướp nổi lên bốn phương. Tại Quốc Oai thuộc tỉnh Sơn Tây có quân Mường, tại Hồng Châu có Đoàn Thượng chiếm đất Đường Hào, ở Bắc Giang có Nguyễn Nộn. cả hai đều là cựu thần của nhà Lý cũng xưng vương chống lại tân triều, hùng cứ mỗi người một nơi và thu hút được một phần đáng kể nhân tâm trong nước; nên thế lực của họ đã làm cho Trần triều phải lo lắng.
Thủ Độ đem quân dẹp bọn Mường xong liền mở cuộc giảng hòa chia đất cho Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Tất nhiên đây chỉ là một giải pháp tạm thời trong khi Thủ Độ xét chưa nên hoặc chưa thể lấy võ lực để đàn áp hai vị thủ lĩnh đối lập hoặc lúc ấy tình thế chưa được thuận tiện. Chúng ta có thể tin như vậy vì con người dám cương quyết chống quân Mông Cổ sau này lại nắm phần toàn thắng như Trần Thủ Độ và con cháu họ Trần có hùng tài đảm lược đâu có thể cùng đứng chung mãi một cõi với Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn. Hoặc giả Thủ Độ e dè cái tiêu bài chính nghĩa “Phù Lý diệt Trần” của hai người này đang có hiệu lực thao túng nhân tâm thì việc chia đất giảng hòa cũng là một kế sách đánh đổ cái chiêu bài trên đây của hai họ Đoàn, Nguyễn?
Năm Mậu Tí (1228) giữa Đoàn Thượng và Nguyễn Nộn có xung đột. Nguyễn Nộn đánh bại Đoàn Thượng chiếm đất Đườn Hào nhưng mấy tháng sau Nguyễn Nộn vắn số, thế là cái đinh cắm vào mắt họ Trần tự nhiên rớt xuống. Việc thống nhất và an ninh mấy tháng sau lại được như trước.
Trừ được mọi mối loạn, Thủ Độ cũng theo tục nhà Lý hằng năm có cuộc hội thề tại đền Đông Cổ vào ngày mùng 3 tháng 4.
4 – Những Công Cuộc Cải Cách
Năm Nhâm Dần (1242) muốn thi hành chính sách cận dân và thân dân, nhà vua và các quan phải cần tiếp xúc luôn luôn với đại chúng và phải sống một đời sống hoàn toàn như họ; Thủ Độ nghĩ vậy liền tổ chức mỗi làng thành một nước nhỏ để tiện việc cai trị. Ở mỗi làng có quan của nhà vua bổ về cai trị, nên có công đường để làm việc. Vì thế làng nào cũng thể theo Công quán bên Tàu xây dựng một nóc đình. Đình phải lập bên các lộ chia ra đoản đình (5 dậm có một cái) và tràng đình (10 dậm có một cái) cùng một kiểu hình vuông, nóc có 4 mái uốn cong, góc kiến thiếtchắc chăn, tường gạch mái ngói, các người dân sở tại cắt ra phục dịch. Những khi vua quan hay quý khách vãng lai hoặc lưu trú, người trông nom là đình trưởng có phận sự canh phòng ngăn ngừa trộm cướp, lo liệu việc ăn uống dầu đèn. Để đền bù vào công khó nhọc, đình trưởng được quyền sai phái, trừng trị dân đình trong vòng 10 dậm, cầy ruộng công hay hưởng lương bổng và phẩm trật.
Thủ Độ chia nước Nam làm 12 lộ (tỉnh). Mỗi lộ có nhiều xã. Các quan tứ ngũ phẩm trở lên xung chức Đại tư xã, ngũ phẩm trở xuống xung chức Tiểu tử xã có nhiệm vụ luôn luôn trực tiếp với dân chúng. (Chức này có thể ví như tri phủ, tri huyện bấy giờ). Các quan Đại, Tiểu tư xã đều ở dưới quyền Chánh phó An phủ sứ. Mỗi xã có xã quan cai trị là xã chánh hay xã giám (lý, phó trưởng hay xã ủy hiện thời).
Để kiểm tra dân số toàn quốc, Trần Thủ Độ đặt ra sổ trướng tịch mà đời Lý đã làm. Phàm mỗi làng có bao nhiêu người đi làm quan văn, võ, thư lại, lính tráng, hoàng nam, lung lão, tàn tật, người đến ngụ cư hay xiêu bạt tới làng. Dân gian phân ra từng hạng con trai từ 18 tuổi thuộc tiểu hoàng nam, từ 20 tuổi thuộc đại hoàng nam, người từ 60 tuổi thì vào lão hạng hết thẩy đều vào danh sách trog sổ trướng tịch. Phép này thi hành từ năm 1228 do vua Thái Tông sai quan vào Thanh Hóa làm lại sổ trước tịch.
Sổ trướng tịch lại còn một công dụng bậc nhất trong những dịp mở mang quân sự hoặc tổng động viên dân chúng khi có xâm lăng ngoài việc kiểm soát nhân dân về mặt chính trị và thuế khóa ở mỗi Lộ.
Mười hai lộ dưới đời nhà Trần là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng Khoát, Thanh Hóa, Hoàng Giang và Diễn Châu.
Trừ các lộ ra còn có một số phủ, châu, trấn ở ngoài khu vực Trung Châu như Tân Bình, Nghệ An, Thái Nguyên và Lạng Giang (Lạng Sơn). Ở các nơi biên viễn thì có Trại. Đơn vị dưới cùng là xã và sách (sách tức là thôn theo Cương Mục, tưởng phải nên giải thích rõ sách là làng Mọi thì đúng hơn do trình độ tiến hóa còn thấp kém).
Chính thể dưới đời Trần có tính cách phong kiến triệt kể. Đứng đầu thang giai cấp trong xã hội là Thiên Tử. Dưới là các vương hầu, quan lại rồi đến thứ dân. Cùng tốt là nô, tì và hoành. Hoành là hạng người bị tội đồ, bị liệt làm nô lệ.
Khi Thái Tử đã có năng lực làm việc thì được vua cha nhường ngôi. Vua cha lên làm Thượng hoàng. Đây là một sự khôn ngoan vì Thái Tử cần phải trải qua một giai đoạn tập sự việc quân quốc cho quen, nhưng Thượng Hoàng vẫn đóng vai thẩm định hay quyết định những việc trọng đại. Còn một điều lợi nữa là việc nhường ngôi khi vua cha còn sống tránh được sự tranh giành giữa các hoàng tử thường đã sinh ra nhiều mối loạn rất là tai hại. Thượng Hoàng gọi vua con là quan gia. Nhân dân gọi vua là quốc gia.
Tước phong thì có Đại vương, Vương, Quốc Công, Công và Hầu…phần nhiều là các tông thất.
Thái ấp thì có An phụ, An dương, An sinh, An bang.
Việc quan chế nước ta qua đời Trần cũng sửa đổi lại. Văn võ đại thần có: Tam Công, Tam Thiếu, Thái Úy, Tư Mã, Tư Đồ, Tư Không. Tể Tướng thì có Tả hữu tướng quốc, Thủ tướng, Tham tri. Văn giai nội chức các bộ thì có: Thượng thư, Thị lang, Lang Trung, Viên ngoại, Ngự sử… Ngoại chức (quan các lộ) có An phủ sứ, Tri phủ, Thông phán, Thiêm phán…
Võ giai nội chức có: Phiêu kỵ thượng tướng quân, Cấm vệ thượng tướng quân, Kim ngô đại tướng quân, Võ vệ đại tướng quân, Phó đô tướng quân…Ngoại chức có: Kinh lược sứ, Phòng ngự sứ, Thủ ngự sứ, Quan sát sứ, Đô Hộ, Đô thống, Tổng quản…
Việc thăng chức theo niên hạn sau đây: Mười năm lên một hàm, Mười lăm năm lên một chức.
Đáng chú ý một điều là về đời Trần quan lại rất nhiều, nhưng vua quan rất thân mật với nhau. Những lúc có tiệc vui, uống rượu xong vua quan dắt tay nhau múa hát, nằm ngủ chung giường gác chân lên nhau không giữ lễ phép như các đời sau.
Người có quan tước mà con cháu được thừa ấm thì con cháu mới được làm quan. Người giàu có mà không có quan tước thì đời ấy qua đời khác cứ phải làm lính. Chế độ này (con nhà lính không bao giờ được vào sĩ đồ) tồn tại mãi đến đời Đế Hiển (1377 – 1388).
5- Việc Binh Chế và Lực Lượng Quân Đội Đời Trần Sơ
Nhà Trần để lại trong sử sách chẳng những của nước nhà mà của Thế giới nữa, một chiến công vô cùng oanh liệt đầu thế kỷ thứ 13, vậy tổ chức quân sự của Trần triều thế nào ta cần phải tìm hiểu rõ rệt.
Theo Toàn Thư quyển 5, Cương Mục quyển 6, tháng ba năm Kỷ Hợi (1245) có việc tuyển trai tráng làm binh lính chia làm ba hạng: thượng, trung, hạ. Tháng hai năm Bính Ngọ (1246) chọn người cho vào quân Tứ Thiên, quân Tứ Thánh, quân Tứ Thần, các quân này đều là Túc vệ sinh gồm quân Thiên thuộc, quân Thánh đức và quân Thần sách. Chữ Tứ chắc là mỗi quân chia ra 4 vệ. Vệ là thế nào sử cũ không chép rõ. Tháng hai năm Tân Sửu (1247) triều đình lấy người khỏe mạnh và biết võ nghệ sung vào Thượng đo túc vệ.
Tại các lộ Thiên Trường (nay là phủ Xuân Trường thuộc Nam Định, quê hương họ Trần) và Long Hưng có lập quân Nội thiên quộc, quân Thiên Cương, quân Chương Thánh, quân Củng Thần. Các lộ Hồng (nay là Hải Dương), Khoái (Hưng Yên) có lập quân Tả Thánh đức và Hữu Thánh đức bằng trai tráng địa phương. Các lộ Trường Yên (nay thuộc Ninh Bình) Kiến Xương (nay thuộc Thái Bình), đặt làm quân Thánh Đức, quân Thần Sách. Còn thì sung làm quân Cấm Vệ chia ra ba bậc nhập vào đội trạo nhi (thủy quân).
Tháng hai năm Tân Dậu (1261) có việc tuyển binh ở các lộ. Người khỏe cho làm lính, còn thì sung vào làm sắc dịch ở các sảnh, viên, cục và làm đội tuyển phong ở các lộ, phủ, huyện (Cương mục quyển 7, tờ 1b).
Tháng tám, năm Đinh Mão (1267) quân lính chia ra như sau:
Quân có 30 Đô. Mỗi Đô có 80 người tuyển trong họ tông thất lấy người hiểu binh pháp, võ nghệ chỉ huy.
Lại có quân Tứ Xương là những lính chuyên canh gác bốn cửa thành thay đổi nhau. Thứ quân này đối với các quân trên kia không quan hệ bằng.
Các ngạch quân chia làm thân quân, du quân và vương hầu gia đồng.
Thân quân có: 1) Thánh dực đô. 2) Thần dực đô. 3) Long dực đô. 4) Hổ dực đô. 5) Phụng nha quan chức lang. (Từ đây trở lên đều có tả hữu có nghĩa là bốn Đô và mỗi Lang đều có tả hữu. Ví dụ: Tả thánh dực đô, hữu thánh dực đô…)
Du quân có: 1) Thiết lâm đô. 2) Thiết hạm đô. 3) Dược đông đô. 4) Vũ an đô.
Vương hầu gia đồng có: 1) Toàn hầu đô. 2) Dược đông đô. 3) Sơn lieu đô…
Số lượng quân nhà Trần lúc thường không có tới 10 vạn, nhưng khoảng niên hiệu Thiệu Bảo (1279 – 1284) vì có cuộc chiến tranh tự vệ nên quân số lên tới hai mươi vạn (200000). Đây là số quân động viên ở các lộ Đông, Nam. Quân Thanh Nghệ chưa hề tuyển dụng đến.[1]
Binh phục thời bấy giờ thế nào không thấy sử chép chỉ biết rằng quân sĩ đương thời đều có đội nón, căn cứ vào đạo quân của Trần Khánh Dư ở Vân Đồn có đội nón Ma Lôi.
Đáng chú ý một điều là trong thời nhà Trần các vương hầu được phép mộ dân gian làm lính nên năm Quý Mùi (1283) các vương Quốc Hiến, Quốc Tảng…đã huy động các dân Bằng Hà (thuộc tỉnh Hải Dương), Na Sầm (thuộc Lạng Sơn), An Sinh, Long Nhãn (đời Lê đổi là Phượng Nhãn) đến họp ở Vạn Kiếp.
Đứng đầu bộ chỉ huy là “Tiết chế” cũng chức như Tổng tư lệnh ngày này, toàn quyền điều động thủy lực chư quân. Cấp tướng chỉ huy các Quân và Đô phải là người trong họ Trần và tinh thông võ nghệm chiến lược. Các tướng quân thì có Phiêu kỵ tướng quân là chức riêng phong cho các hoàng tử.
Kỷ luật rất nghiêm: kẻ nào đào ngũ sẽ phải chặt ngón chân. Nếu tái phạm kẻ đó sẽ bị voi giày.
Về tuế bổng chỉ có quân túc vệ được hưởng, còn quân các đạo khác thì khi yên ổn chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn công quỹ.
6 – Kinh Tế và Xã Hội
Kinh tế dưới đời nhà Trần vẫn là kinh tế nông nghiệp và ngư nghiệp làm căn bản. Từ Trần Thái Tông đến Trần Nhân Tông suốt 70 năm mọi việc mở mang đều nhằm vào nông nghiệp và ngư nghiệp và dân gian không bị đói khổ. Nhưng đến tháng tám năm Canh Dần hiệu Trùng Hưng thứ sau đời vua Nhân Tông có xảy ra nạn đói to. Ba thưng gạo giá một quan tiền. Dân chúng cực quá phải bán ruộng đất và con cái cho người ta làm nô tì. Giá mỗi người chỉ có một quan (Toàn thư quyển 5, tờ 59b; Cương mục quyển 8, tờ 16b). Tình trạng này đã do ba phen loạn ly gây nên, mọi việc cầy cấy đều bị ngừng trệ. Để khai khẩn và làm lợi công quỹ những người bị tội đồ phải liệt làm “cảo điền hoành” tức là nô lệ hay tù nhân dùng vào việc cầy cấy ruộng công của Nhà nước (Xã Nhật Tảo xưa kia là Cao Xã). Mỗi người phải phụ trách ba mẫu mỗi năm nộp ba trăm thưng thóc.
Nhân dân hàng năm phải nộp tiền “thân dịch”, quà tết tháng giêng và tháng bảy thì dùng sam cá lẫn gạo.
Theo An Nam Chí Lược “Nông, thương bất trưng lương thuế” “không phải nộp thuế” để nhân dân bớt khổ nhưng có lẽ chỉ trong lúc nước nhà vô sự chăng, chứ từ hồi có loạn Mông Cổ do mấy cuộc chiến tranh tự vệ nếu Trần triều không thu thuế các ruộng công tư thì lấy gì mà tiêu dùng và nuôi binh đội.
Sử chép: Thuế thân căn cứ vào ruộng đất mà đánh (có lẽ đây là tiền thân địch đã nói ở trên). Người vô sản được miễn.
Người có một hay hai mẫu phải nộp một quan tiền.
Người có ba hay bốn mẫu phải nộp hai quan.
Người có năm mẫu trở lên phải ba quan.
Thuế điền nộp bằng thóc, theo tỷ lệ: mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc. Thăng là đơn vị đong lường ngày xưa, mười hợp là một thăng. Mỗi thăng bằng 316 tấc khối tức là 10305688 công thăng. Lối đong lường như xưa kia bắt chước người Tàu. Ruộng công có hai thứ, mỗi thứ phân làm ba hạng. A – Một thứ gọi là quốc khổ: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế 6 thạch 80 thăng thóc, hạng nhì mỗi mẫu 4 thạch, hạng ba mỗi mẫu 3 thạch. B – Một thứ gọi là thác điền: hạng nhất mỗi mẫu đánh thuế một thạch thóc; hạng nhì ba mẫu lấy một thạch; hạng ba bốn mẫu lấy một thạch.
Ruộng ao của công dân thì mỗi mẫu lấy ba thăng thóc thuế.
Ruộng muối thì phải nộp tiền.
Ngoài các thứ thuế trọng yếu trên đây, còn có các thứ thuế lặt vặt đánh vào trầu cau, hoa quả, tôm cá. Nhà Trần cho đúc vàng bạc thành phân, lượng để tiện việc chi tiêu và có dấu hiệu của hoàng triều. Nộp thuế cho nhà vua bằng tiền thì mỗi tiễn là 70 đồng. Tiền này gọi là “thượng cung tiền”. Dân tiêu với nhau thì một tiền ăn 69 đồng. Tiền này gọi là “tỉnh mạch tiền”.
Bàn đến nông nghiệp dưới đời Trần chúng ta đã thấy có sự mở mang và tiến bộ mỗi ngày một rõ rệt, vì vậy sau này có chiến tranh ba phen với Mông Cổ nước ta mới có nổi thực lực can bản để đương đầu với một đế quốc thuở đó đã hùng cường tột bực trên Thế giới. Đáng chú ý ở chỗ nhà Trần huy động ráo riết các quân dân ở hai bên bờ sông Hồng Hà chăm nom cẩn thận việc đê. Con đê chạy dọc theo sông Hồng bấy giờ gọi là Đỉnh nhĩ đe do hai quan Hà đê Chánh phó sứ, trong coi và cho đắp rộng thêm ra. Nếu nơi nào bị thiệt hại vì đê đắp lấn vào ruộng đất thì triều đình chiếu theo giá ruộng đất bồi thường cho chủ ruộng đất chỗ đó.
Về công nghiệp sinh hoạt hay thương nghiệp sinh hoạt chúng ta thấy hai ngành này hãy còn manh nha. Thương nghiệp bấy giờ mới nhóm ở các miền duyên giang hay duyên hải nhờ ở sự giao thông tiện lợi. Về công nghệ, ta nên hiểu thuở đó mới chỉ có thủ công mà thôi, nghĩa là mới có chế độ tiểu công nghệ hay công nghệ gia đình như ta thấy các nghề này còn tồn tại tới ngày nay ở nhiều làng mạc tại xứ Bắc. Chế độ bán sức lao động của các thợ thuyền trong các xưởng máy dĩ nhiên ngày nay mới có.
Nhà Trần bảo vệ nhiệt liệt chế độ tư hữu của dân gian. Việc dân bán công điền làm tư điền, việc trộm, cắp bị trừng phạt rất ngặt, kẻ phạm tội lần thứ ba sẽ bị giết. Năm Giáp Dần (1254) Nhà nước bán ruộng quan (ruộng công) cho dân. Mỗi “diện” tức mỗi mẫu là năm quan tiền. Sau đó ruộng quan điền thành tư điền vĩnh viễn.
Theo trên đây, chúng ta biết dưới Trần triều chế độ phong kiến rất là thịnh đạt. Dân chúng các hạng bần dân không được nâng đỡ nên chế độ gia nô gia đồn, mua bán nô lệ mà tiền triều (Lý triều) đã hủy bỏ, nay lại tái sinh. Do chế độ này xảu ra nhiều việc bán vợ đợ con: tỉ dụ, kẻ mắc nợ có thể bị chủ nợ tự ý giam cầm cho tới khi nào trả sạch vốn mới được phóng thích. Nếu không trả được nợ thì phải đợ mình cho chủ nợ tức là xin làm nô lệ để chuộc nợ.[2] (Toàn Thư quyển 5 tờ 3, Cương Mục quyển 6 tờ 4b).
Những kẻ vô sản vào làm nô (tớ trai) tì (tớ gái) cho các nhà vương hầu, công chúa, đế cơ (vợ lẽ của vua). Công việc của họ là khai khẩn ruộng đất. xây dựng điền trang (các vương hầu nhà Trần có “trang” bắt đầu từ tháng 10 năm Bính Dần 1266 theo Toàn Thư quyển 5 tờ 30b). Tuy vậy họ được lấy vợ, lấy chồng và sinh sống ở các nơi họ cầy cấy. Họ đã khai thác được rất nhiều ruộng đất ở miền nước mặn do cách đắp đê ngăn nước biển tràn vào các bãi. Sau hai ba năm nơi này thuần phục và thành ruộng để trồng lúa như các vùng ở sâu trong đất. Tình trạng này kéo dài hơn một trăm năm sau nữa, kể tử năm Bính Dần (1266) đến năm Quang Thái thứ 10 (1397) là đời Trần Thuận Tông.
Một tính cách phong kiến nữa dưới Trần triều là chế độ tập ấm, nghĩa là nhà nào có quan tước, các con cháu được thừa ấm rồi sau ra làm quan. Người giàu có nhưng không có quan tước thì cứ tiếp nhau đời này qua đời khác làm binh lính (Chế độ này kéo dài đến đời Đế Hiển 1377 – 1388) do đó lòng dân chúng có sự phẫn uất diễn tả trong câu ca tục ngữ: “con vua thì lại làm vua – con sãi ở chùa lại quét lá đa”.
Hàng năm triều đình cho xã quan khai báo nhân khẩu gọi là “dân số” và nhờ ở sổ sách của triều Trần ta biết có từng này hạng người trong xã hội đời bấy giờ:
Văn vũ quan giai (quan chánh văn võ)
Tùng quan (quan lại phó phụ)
Quân nhân, tạp, lưu, hoàng nam (trai tráng)
Lung lão (hạng người tàn tật)
Phụ tịch (người ngụ cư)
Phiêu tán, vô sản nhân (những người xiêu bạt)…
7 – Phong Tục
Phong tục của dân Việt Nam vào triều đại nhà Trần tức đầu thế kỷ thứ mười ba còn rất thuần phác. Không khi Phật giáo cũng như dưới triều Lý, bao trùm từ triều đình đến dân gian. Khắp các nơi đều có cảnh an cư lạc nghiệp. Nho giáo đã thấm nhuần vào đại chúng. Tới 30 Tết dân đốt pháo (ống lệnh đặt ở đầu cổng hay ngõ) và sửa soạn cỗ bàn để cúng bái tổ tiên.
Mùng 5 Tết trong cung vua có ban tiệc khai hạ. Từ quan đến dân, ai ai cũng đi lễ chùa, viếng các phong cảnh, các vườn hoa, đền đài.
Tháng hai người ta dựng xuân đài. Phường chèo ca múa trên đài mua vui cho dân chúng, ngoài ra lại còn có những cuộc đấu võ, đánh vật lấy giải thưởng, chọi gà và đá cầu. (Quả cầu lớn bằng nắm tay trẻ em khi kết bằng vải, khi kết bằng gấm tung qua tung lại. Bên đối thủ không bắt được là thua). An nam chí lược.
Đúng ngày lập xuân, vua cắt người tông trưởng cầm roi vụt vào con trâu đất(thổ ngưu), sau việc này nhà Vua và bách quan vào nội điện ăn yến. Cử chỉ này chỉ có mục đích khuyến Nông.
Ngày mồng ba tháng ba, dân ta cũng theo Tàu ăn Tết “Hàn thực” (làm bánh trôi để biếu nhau) rất là rộn rịp.
Mồng 4 tháng 4 là ngày hội thề ở đền Đồng Cổ (Ngày nay cũng được coi như một ngày vui công cộng). Dân gian rủ nhau đi xem đông như nước chảy.
Ngày mồng 5 tháng 5 dân ăn Tết Đoan Ngọ (Tết này ta cũng bắt chước Tàu). Nhà Vua cho làm chòi ở giữa sông coi thi bơi thuyền.
Việc cưới xin thường hay chọn vào tháng xuân để làm lễ vấn danh (người mối và nhà trai đem trầu cau có khi dẫn cả tiền và vàng cùng quần áo đến nhà gái. Theo Cương Mục quyển 6 tờ 34a. Khi Trần Quốc Tuấn lấy Thiên Thành công chúa, mẹ ngài là Thụy Bà công chúa phải nộp đến 10 mâm vàng làm sính lễ). Các nhà trọng Thi Thư lễ nghĩa thì không để ý đến các đồ sính lễ này, nghĩa là ưa sự đơn giản miễn có sự tốt đẹp về tinh thần. Do đó ta có câu: Giá thú bất luận tài. Còn ở những người nghèo dĩ nhiên việc hôn nhân rất giản tiện. Nếu có dẫn tiền cưới thì đem đến nhà gái một trăm. Nếu đôi bên cùng nghèo thì một ít trầu cau chia cho bà con trong họ và dân làng là đủ hợp thức hóa việc vợ chồng. Hằng năm mồng 1 tháng 10 có tết “cơm mới” hoặc “xôi mới” từ vua quan đến dân chúng đều có sự cúng tế tổ tiên. Vua và các quan đi thăm ruộng, gặt lúa, săn bắn để mua vui (An Nam chí lược quyền 1 tờ 12a).
Y phục đời bấy giờ như sau đây: vương hầu và thứ dân thường mặc áo cổ tròn (viên lĩnh) quần thâm (huyền thường) hay lượt trắng (bạch là) thắt lưng lụa (hoàn khố). Giày dép ưng làm bằng da.
Vương hầu vào chầu vua (tư yết) được miễn không phải đội khăn, đó là do tình thân. Thứ dân không được đến hầu gần (An nam chí lược quyển 1, tờ 5a).
Đồ mặc thường của vua thì quý màu trắng. Dân không được dùng màu này duy phụ nữ không bị cấm. Con gái bị tuyển vào cung được lập làm thứ phi rồi nhưng muốn trở về nhà mình cũng được.
Về hình phạt của Trần triều xét ra nghiêm ngặt hơn Lý triều. Sử chép năm Giáp Thìn (1244) vua Thái Tông sửa lại luật pháp. Theo Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương” thì dưới đời Trần những kẻ phạm tội trộm cắp bị thích vào trán hai chữ “phạm đạo” và phải bồi thường 9/10 giá trị đồ vật đã lấy. Kẻ nào không bồi thường được sẽ bị tịch thu vợ con. Vào trường hợp tái phạm, sẽ bị chặt chân tay hay bị voi giày. Tái phạm đến lần thứ ba sẽ bị giết. Đàn bà có chồng phạm tội ngoại tình, sẽ bị xử làm tì (đầy tớ gái) cho chồng và chồng có quyền đem đợ hay bán.
8 – Văn Hóa
Cùng một nhịp với các ngành chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đầu đời Trần cũng được đà tiến triển. Đáng chú ý là chữ Nôm được xuất hiện và đắc dụng là nhờ đời Trần có sáng kiến, có tinh thần độc lập, tự lập, nên xu hướng văn Nôm mới ó dịp bành trướng sau nghìn năm học nhờ viết mướn của Trung Quốc. Tiếng việt được dùng làm thi ca, khúc ngâm. Hàn Thuyên quê ở huyện Thanh Lâm tỉnh Hải Dương là người rất giỏi thơ phú Nôm. Toàn Thư quyển 5, tờ 41 chép rằng dưới triều Trần Nhân Tông, Thuyên làm Hình bộ thượng thư có cá sấu đến sông Lô giết hại dân chúng. Vua sai Thuyên làm văn ném xuống sông. Cá sấu tự rời đi nơi khác. Vua cho việc này giống chuyện Hàn Dũ đời Đường liền đổi họ Nguyễn ra họ Hàn do mục đích khen thưởng nhân tài. Nước ta dùng quốc ngữ trong thi phú bắt đầu từ đó.
Nói vậy không phải là nhà Trần đã triệt để dùng chữ Nôm. Các chiếu chỉ của nhà Vua vẫn còn biết bằng chữ Hán. Mỗi khi lệnh vua ban bố ra ngoài, ty Hành khiển phải giảng cả âm lẫn nghĩa ra tiếng Việt cho dân hiểu (phàm thư) và dự biết mọi việc triều đình định làm. Tóm lại chữ Hán vẫn được dùng vào các công văn, từ lệnh, biểu chương, sớ tấu. Chữ Nôm được địa vị đặc biệt hẳn hoi là về sau này với nhà Nguyễn Tây Sơn cuối thế kỷ thứ 18, nhưng trong khi chữ Nôm phát triển mạnh để đi tới chỗ đại chúng, một số nho gia trung thành với Hán tự vẫn còn luyến tiếc và đã bài xích nó kịch liệt.
Để tỏ sự tiến triển của văn hóa đời Trần, trong mục phong tục cuốn An nam chí lược có kể đến các khúc hát: Nam Thiên Nhạc, Ngọc Lâu Xuân, Đạp thanh du, Mộng Du tiên, Canh lậu trường và nhiều thi ca tiếng Việt.
Văn hóa đời Trần cũng dành cho Sử lý một địa vị quan trọng hay nói cách khác nhà Trần là một triều đại trước nhất của chúng ta đã nghĩ đến việc biên soạn cuốn quốc sử, điều rất đáng tiếc là các tiền triều nhất là nhà Lý cầm quyền ở nước ta trên hai thế kỷ có quá đầy đủ điều kiện mà không lo liệu đến vấn đề này. Trần Tấn giữ chức Tả tàng thăng Hàn trưởng làm được cuốn Việt chí tức Việt Sử sau này được Lê Văn Hưu sửa lại tức bộ Đại Việt Sử Ký chép từ đời Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển.
Nhà Trần xuất hiện trên sân khấu chính trị Việt Nam được 2 năm thì mở khoa thi, mục đích khuếch trương văn học và chiêu mộ nhân tài. Năm 1227 khoa thi tam giáo được mở (Nho, Lão, Thích) rồi liên tiếp các triều vua sau việc khoa cử mở đều lấy tam khôi (Trạng Nguyên, Thám Hoa, Bảng Nhỡn) và thiết lập cả Quốc học viện, Quốc tử viện, Giảng vũ đường là những nơi đào luyện anh tài.
Có nên nói rằng ngay trong thời Trần Sơ, Hán văn đã lên tới một trình độ khá cao và theo với trình độ của văn học tinh thần dân tộc cũng trở nên mỗi ngày một thêm kiên cường không? Các thư, biểu và văn kiện ngoại giao với Mông Cổ tuy có sự nhũn nhặn nhưng ý kiến vẫn đanh thép. Lời văn thì gọn gàng, đại khái tờ biểu năm Bính Dần (1266) Trần triều xin nhà Nguyên miễn việc gửi các Nho sinh (tú tài), các thợ thuyền và các kỹ thuật gia. Tờ Thư năm Tân Mùi (1271) gửi cho Trung Thư sảnh nhà Nguyên biện bạch vì sao không lạy chiếu thư và không biếu voi Nguyên chủ (xin coi các trang dưới đây sẽ thấy các công văn ngoại giao và bài hịch của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trước khi chống Nguyên).
Nhà Trần lại cho nghiên cứu và học tập cả tiếng Mán, tiếng Thổ, tiếng Phiên. Các người đương thời như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật rất thông hiểu các thứ tiếng này.
Tôn giáo được tôn sùng nhất là đạo Phật, đạo này giữ địa vị đặc biệt ưu đãi, dĩ nhiên việc này phải do các nhà cầm quyền thử thời mà đáng kể là vua Thái Tông và Nhân Tông trước hết. Vua Thái Tông là tác giả kinh Khóa Hư. Vua Nhân Tông soạn được nhiều câu kệ trong tập Trần triều thượng sĩ ngũ lục, bao hàm những tư tưởng nhân từ, bác ái, giác tha, độ tha rất mạnh.
Những người cầm đầu dân tộc có tư tưởng xả thân cứu thế và cúc cung tận tụy, coi cái chết là siêu thoát, là “thành nhân” (theo lời Hoa Bằng) thì tinh thần tranh đấu dĩ nhiên rất cao và phải có, không là điều đáng lạ. Ngoài ra có lẽ tôn giáo đã có ảnh hưởng rất nhiều đến trí não các vua nhà Trần, cho nên từ cung cấm, triều đường ra tới ngoài dân đã có rõ rệt một sự gần gũi, và thân mật thành thực trong những khi thái bình thịnh trị cũng như khi gặp nạn ngoại xâm. Đại để tháng giêng năm Mậu Thìn (1268) vua Thái Tông và các vương hầu trong họ Tông thất tan chầu cùng vào nội điện và nhà Lan đình ăn uống vui vẻ.[3] Đêm tối cùng nhau đặt gối dài, chăn rộng, liền giường ngủ chung để tỏ tình thân ái. Khi đại yến, các quan uống rượu xong rồi dắt tay nhau mà múa hát.
Đối với chúng nhân, câu “Dân vi quý” của Mạnh Tử được thi hành triệt để nên khi chống Mông Cổ mới có hội nghị Diên Hồng. Như vậy chính sách dân chủ hay chính thế lập hiến có thể nói là đã thực hiện ở nước ta từ thế kỷ 13 trong thực tế, tuy về hình thức chưa có sự rõ rệt như ngày nay ở một ít nước tân tiến. Nói như vậy chúng ta có thể nghĩ rằng chế độ phong kiến dưới đời Trần chặt chẽ hay gắt gao chỉ là do ý muốn củng cố địa vị của một dòng họ hơn là có ý thống trị nhân dân với bàn tay sắt. Kết quả của cuộc chống Mông Cổ ba phen đã chứng minh một cách hnfg biện cái trạng thái “quân dân nhất trí” và tinh thần hữu ái trong dân tộc lên cao tột bực ở nước ta dưới đời Trần. Trạng thái ấy lại càng rõ rệt giữa khi chống Nguyên, ngay cả dân Mán (ở trại Quy Hóa năm Đinh Tị 1257) và nhiều hào trưởng tự động (trường hợp Hà Bổng, Nguyễn Khả Lập và Nguyễn Truyền) đem dân binh tập kích quân giặc khi quân địch vào sâu nội địa, thủ đô bị phá. Tài chiến trận và huy động mọi lực lượng quốc gia của Hưng Đạo vương tất nhiên là đã đến chỗ tuyệt kỹ, nhưng một phần lớn sự tham gia kháng chiến đã do tinh thần đoàn kết của dân tộc qua các tầng lớp nhân dân. Tinh thần đoàn kết không nói ai cũng hiểu phát nguyên ở chỗ tương thân tương ái mà triều Trần đã gây dựng được một cách khôn khéo nhưng không kém phần chân thành ở bên trong.
Chú thích:
[1] Theo ý chúng tôi nhà Trần có dự bị tổng động viên nhưng chưa hề làm việc này cho nên Trần Nhân Tông đã có câu:
Cối kê cựu sự, quân tư ký,
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh
Nghĩa là Câu Tiễn xưa kia thua Ngô còn lại năm ngàn giáp, thuẫn trú đầu ở Cối Kê, thế mà sau còn khôi phục được giang sơn, tiêu diệt được địch quốc, huống hồ ta còn mười vạn quân Thanh Nghệ chưa gọi tới.
[2] Nguyên văn “Cùng dân bất cập giá hứa diện túc ư nhân”
[3] Vua Trần Thánh Tông thường nói cùng anh em bà con trong họ: “chỗ đồng bào máu mủ, lo thì cùng lo, vui thì cùng vui”.