← Quay lại trang sách

CHƯƠNG VII (tt) CUỘC CHIẾN TRANH TỰ VỆ-VÔ CÙNG ANH DŨNG CỦA VIỆT NAM--

Mông Cổ là giống người thế nào?

- Thành tích chiến đấu của quân Mông Cổ

- Cuộc xâm lăng thứ nhất của quân Mông Cổ

1- Mông Cổ là giống người thế nào?

Để hiểu công cuộc chông xâm lăng của dân tộc chúng ta khắc khổ, gian lao và phải hy

sinh đến bậc nào cho tới cái kết quả của nó có đáng gọi là rực rỡ oanh liệt bậc nhất suốt thế kỷ XIII – không phải riêng trong lịch sử Việt Nam mà cả trong lịch sử thế giời thuở đó – chúng tôi thấy cần phải trình bày qua nguồn gốc và những chiến công anh dũng phi thường của người Mông Cổ.

Dân số Mông Cổ có gần 3 triệu, đa số là dân du mục. Nhà cửa của họ là những túp lều quây tròn bằng da thú trên nóc có lỗ thông hơi. Thực phẩm của họ gồm có sữa, thịt cừu, pho mát. Những người nghèo ăn cả đến xác những thú vật chết từ lâu. Người Mông Cổ không thích làm việc, mỗi năm làm việc chừng một tháng mà thôi. Y phục thường bằng da thú và lông cừu. Từ đời Đường (618 – 904) ở khoảng thượng lưu Hắc long giang (Amour) suốt một giải Tây Bắc tỉnh Hắc Long giang rải rác về phía Bắc Xa. Thần Hàn thuộc miền Bắc nước Trung Hoa, diện tích vào khoảng 3 triệu cây số vuông giống người này đã sinh trưởng trong trạng thái các bộ lạc kiếm ăn bằng nghề chài lưới, săn bắn như nhiều dân tộc khác về cổ thời. Và tương đối với các dân tộc Á Châu bấy giờ, họ là đám người hậu tiến nhất. Họ rất hung tợn và hiếu chiến, có tài đặc biệt là bắn cung, cưỡi ngựa nên tổ chức kỵ binh của họ có thể nói là rất lợi hại. Họ sắp đặt cơ nào đội ấy rất có thứ tự, sành việc tổ chức và huấn luyện quân đội giàu mưu chước, kinh nghiêm và chuyện vận binh sĩ hết sức mau lẹ.

Đối với kẻ địch, họ áp dụng nguyên tác: hàng thì đãi có độ lượng, chống thì tàn sát tới ngọn cỏ lá cây.

Đối với cấp trên, họ hoàn toàn phục tùng, chỉ biết có một thứ luật: luật của lĩnh tụ. Được lệnh tiến, dù tiến để mà chết. Như vậy thì nghề chinh chiến của họ lại hơn cả các dân tộc tiền tiến đời bấy giờ. Đó là một điều trái ngược hẳn.

Tổ tiên của họ là giống Hung Nô. Tài nguyên của họ là những bầy súc vật mà họ đưa chăn nuôi ở những miền đồng cỏ xa xôi. Đời sống họ rất cực khổ vất vả vì khi nóng thì nóng, thiêu đốt cả cỏ cây, giết hại cả súc vật (38 độ 2) khi lạnh thì buốt đến xương tủy, người và vật chịu không nổi (45 độ 5 dưới 0 độ). Họ không biết nghề nông, không biết viết chữ, rất tin tưởng khoa phù thủy. Phật giáo được coi gần như tôn giáo chính của Mông Cổ. Họ theo đạo Phật nhưng không hiểu nổi triết lý của Phật giáo nên chỉ là những kẻ mê tín không hơn không kém. Binh chế của Mông Cổ tổ chức như sau đây:

1) Bộ trong gồm các quân Túc Vệ.

2) Bộ ngoài là các quân Trấn thủ.

Quân túc vệ chia làm quân Khiếp tiết, theo tiếng Mông Cổ có ý nghĩa là những kẻ được nhiều ân sủng của Thiên tử, tức là thân binh của nhà vua và quân các vệ: Tả, hữu, trung, tiền, hậu và Đường Ngột vệ, Quý Xích Vệ, Vũ Vệ; Tả, Hữu, Đô úy vệ… Quân các vệ thì Thân quân chỉ huy sứ cầm đầu cùng với các quân Trấn thủ đều thuộc quyền Khu mật viện. Quân Khiếp tiết và các vệ tuy đều là quân Túc vệ hợp lại gọi là thân quân nhưng nhiệm vụ khác nhau: Khiếp tiết dùng vào việc bảo vệ Thiên tử, là thân quân trong các thân quân. Quân túc vệ chuyên việc giữ hoành thành, kinh sư, phòng thủ việc doanh thiện và việc đồn điền…Đội quân này cũng có khi dùng vào việc viễn chinh.

Quân Trấn thủ: các bộ thì lập Vạn hộ phủ, các huyện thì lập Thiên hộ sở đều thuộc Khu mật viện, tùy chỗ quan trọng, hiểm yếu mà chia đi chiếm đóng. Đại khái các nơi biên cương then chốt thì có thân vương, tông thất cầm quyền. Tỷ dụ: Hà Lạc và Sơn Đông thì có quân bản tộc Mông Cổ trấn thủ. Từ Giang, Hoài trở xuống Nam Hải có Hán binh và quân tân phụ là những quân lính người Trung Quốc được tuyển mộ sau khi diệt được nhà Kim.

Lối đánh của Mông Cổ là khi lâm trận, đạo kỵ binh lưu động của họ tiến nhanh như chớp nhoáng rồi biến mất để lại xuất hiện ngay liền đó sau lưng địch khiến đối phương bị điên đảo, trở mình không kịp, bị rối loạn cả chiến lược, chiến thuật.

2 – Thành Tích Chiến Đấu Của Quân Mông Cổ

Đây những thành tích vĩ đại của Đế quốc Mông Cổ!

Năm 1206, Thiết Mộc Chân sau này tự hiệu là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan) tức năm thứ hai đời Lý Cao Tông, năm Trị Bình Long Ứng, đã đánh bại quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vì đã muốn giành nhau đất Mông Cổ với ông ta. Sau đó chúa Mông Cổ quay binh về Trung Quốc.

Lúc này Trung Quốc chia làm ba khu vực thuộc quyền ba vương triều: Hoa bắc do nhà Kim dòng dõi Man Châu chiếm giữ, kinh đô đóng ở Bắc Kinh; Hoa Nam thuộc nhà Tống, kinh đô tọa lạc ở Hàng Châu, Tây Bắc nằm dưới quyền nước Tây Hạ. Cuộc chiến tranh ở đây vô cùng khốc liệt: Mông Cổ phải mất hai năm mới vượt được Vạn Lý Trường Thành và năm 1213, Mông Cổ vào phong tảo Bắc Kinh. Năm 1215 thành này bị thất thủ, lửa cháy ngất trời luôn một tháng không ngớt. Chín năm sau du khách qua vùng này còn thấy đầy dấu tích của hoang tàn và cái đống xương khô của muôn ngàn tử sĩ.

Thắng Kim xong, Thành Cát Tư Hãn quay sang Tây phương tấn công Tân Cương và Ba Tư.

Cuộc viễn chinh kéo dài 5 năm. Chiếm được đâu, Mông Cổ giết choc, phá hủy sạch tới đó, thực hiện đúng câu: “Nơi nào ngựa Mông Cổ đi qua, cỏ cây cũng hết sống” của chúa Attila bảy thế kỷ trước cũng dòng giống Mông Cổ (Pháp gọi là Les Huns).

Tại Hung Gia Lợi, giáo chủ và giai cấp phong kiến xung đột với nhau vừa tạm yên thì Mông Cổ như trận cuồng phong ào tới. Vua Bela tử trận năm 1241 ở Pest. Từ Breslau đến Cracovie máu người Hung chảy như nước suối. Mông Cổ hoành hành xong liền bỏ đi, sau khi 500 ngàn quân dân Hung chất không còn một mống.

Đầu thế kỷ thứ XIII, Hồi quốc đang thịnh đạt và là đế quốc khá lớn gồm Ba Tư, Tiểu Á Tế Á và Cận Đông, bề ngang kéo dài từ Ấn Độ đến Bagdad, dọc từ bờ biển Aral tới vịnh Ba Tư.

Mông Cổ tới, bốn chục vạn binh của Mohamed tan tành và kinh đô cũng ra tro bụi. Đế quốc Hồi tan vỡ từ thuở ấy.

Tháng chạp năm 1237 tới tháng năm 1238 bốn phần năm lĩnh thổ Nga Xô cũng lọt vào tay Mông Cổ. Các quốc gia Tây Âu nghe tin này cũng vô cùng khủng khiếp coi như ngày tận thế đã tới. Giáo hoàng Innocent IV và vua thánh Louis nước Pháp cử người sang cầu hòa với Mông Cổ.

Về phía Á Đông, trong khoảng thời gian đánh Đông dẹp Tây thì mua Thu năm 1226, Tây Hạ cũng bị lâm vào cảnh núi xương sông máu với đoàn quân kiêu hùng của Thành Cát Tư Hãn trong hạ tuần tháng 8 năm sau, Tây Hạ đầu hàng và bị sáp nhập vào đế quốc Mông Cổ từ đó.

Trong khi chinh phục Tây Hạ thì chúa Mông Cổ mất, con là A Loa Đài (Ogotai) lên thay tức là Nguyên Thái Tông. Nguyên Thái Tông không sống lau (3 năm sau) Nguyên Định Tông kế nghiệp cũng yểu vong. Ngôi vua truyền sang chi khác. Em con nhà chú là Mông Kha (Mong ké) được tôn lập, tức là Nguyên Hiến Tông.

Hiến Tông phái hai em là Hạt Lô (Houlagen) đi kinh lý Ba Tư và Hốt Tất Liệt xuống đánh nhà Nam Tống. Trong khi Mông Tống đánh nhau thì Hiến Tông qua đời. Hốt Tất Liệt trở về lên xưng là Nguyên Thế Tổ, lấy quốc hiệu là Nguyên. Xong việc này, Hốt Tất Liệt lại tiếp tục Nam chinh và diệt được nhà Tống. Trung Quốc giờ phút này hoàn toàn mất về nhà Nguyên. Tới năm 1280, nhà Nguyên hoàn thành sự nghiệp đế quốc. Xét ra về diện tích đê quốc này gần già nửa phần thế giới làm chủ được 40 quốc gia từ Á qua Âu. Thật là một đế quốc lớn nhất tư fkhi có loài người và lịch sử. Thành tích của Mông Cổ làm mờ cả sự nghiệp của Á Lịch Sơn và Nã Phá Luân trước và sau.

3 – Cuộc Xâm Lăng Thứ Nhất Của Mông Cổ

Khi Mông Kha còn sống, Hốt Tất Liệt đem quân sang đánh Tống có sai một đạo quân đi đánh nước Đại Lý (thuộc tỉnh Vân Nam) tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) sai sứ sang bảo vua Trần Thái Tông thần phục về Mông Cổ.

Vua và dân Việt Nam đã có những cử chỉ gì?

Trần Thái Tông không những phản đối yêu sách của Mông Cổ lại còn giam sứ Mông Cổ lại. Biết rằng Mông CỔ thế nào cũng có phản ứng. Thái Tông liền phái Trần Quốc Tuấn động binh trấn giữ các nơi về miền Bắc là nơi cổng ngõ của chúng ta đối với Trung Quốc (năm Đinh Tị 1257).

Mông Cổ theo đường Vân Nam tiến xuống sông Thao, Hưng Hóa và Thăng Long. Quân số của họ có 2000 ấy là chưa kể đạo quân của Á Châu là con vua Nguyên đi hậu tập và tiếp viện. Ngoài ra đạo quân Ô Lạp Cáp Đạt tức là Ngột Lương Hợp Thai tiến sang nội địa Việt Nam định vào đánh phá thành Thăng Long.

Cuộc gặp gỡ của hai quân có lẽ đã xảy ra trên một quãng sông Thao, hoặc tại Hưng Hóa hoặc từ Hưng Hóa về tới Sơn Tây. Chỗ này sử không chép rõ, chỉ biết rằng đối với ta quân Mông Cổ khi đó rất mạnh. Trần Quốc Tuấn chống không nổi phải lui về Sơn Tây. Vua Thái Tông cũng ngự giá thân chinh rồi cùng thoái lui về đóng ở sông Cầu. Ở nơi đây quân ta núng thế lại bị dồn về Đông Bộ Đầu (phía Đông sông Nhị Hà thuộc địa hạt huyện Thượng Phúc). Tình thế lại bi quan thêm, vua Thái Tông phải bỏ thành Thăng Long về giữ ở sông Thiên Mạc (huyện Đông An tỉnh Hưng Yên).

Thành Thăng Long bỏ ngỏ. Quân Mông Cổ vào thấy ba người sứ của họ còn bị trói giam ở trong ngục. Khi cởi trói thì một người chết, chúng giận hết sức, liền tàn sát hết cả nhân dân trong thành không trừ người già và con trẻ. Một sự xúc động tràn ngập tâm hồn đa số nhân vật của Trần triều. Vua Thái Tông ngự thuyền đi hỏi ý kiến Thái Úy Trần Nhật Hiệu. Trần Nhật Hiệu cầm sào vạch xuống nước chữ “Nhập Tống”. Đến lượt Thái Sư Trần Thủ Độ. Thái Tông thấy cả một sự cương quyết.

- Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ đừng lo! Đó là câu trả lời của Thủ Độ và ta phải nhận rằng lời khẳng khái này đã quyết định chiến tình thuở ấy và cả vận mệnh cùng danh dự dân tộc chúng ta nữa. (Nhất ngôn hung quốc, nhất ngôn tang quốc là vậy).

Được ít lâu quân Mông Cổ mỏi mệt vì không chịu được thủy thổ. Quân ta dò xét được tình trạng này mới mở cuộc tấn công. Thái Tông tiến quân lên đánh giặc ở Đông Bộ Đầu. Giặc chạy lên trại Qui Hóa bị thổ dân ở đây chận đánh rất là điêu đứng. Tinh thần của giặc bị khủng hoảng vì thấy khí thế của Nam quân mạnh mẽ và đã chiến thắng họ ở nhiều nơi. Giặc lại do đường cũ theo dọc sông Thao rút về Tàu, tinh thần mỏi mệt không còn sức đánh nhau và cướp phá dân gian nữa. Dân gian gọi chúng là giặc Phật.

Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258) vua Thái Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Trần Khoán (Việt Nam Sử Lược chép là Hoảng) lấy hiệu là Thánh Tông. Ngài lên làm Thái Thượng Hoàng đế cùng trông coi việc nước.

Thái Tông trị vì được 33 năm. Làm Thái Thượng Hoàng được 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.

II -TRẦN THÁNH TÔNG (1258 – 1278)

- Việc mở mang chính trị

- Việc ngoại giao với Mông Cổ

1 – Việc Chính Trị

Vua Thánh Tông lên ngôi xong liền đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ngài là một ông vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra đến ngoài.

Ngài quan niệm “thiên hạ là của ông cha để lại an hem cùng hưởng” do đó trong nội cung khi ăn uống vui đùa không có phân tôn ti, trật tự.

Ngài ở ngôi 21 năm, nước nhà được yên trị. Việc học được mở mang. Hoàng đệ là Trần Ích Tắc có tiếng là người trí thức trong nước được cử ra mở học đường để rèn luyện nhân tài cho quốc gia. Mạc Đĩnh Chi là danh nho nước ta sau này cũng do trường của Hoàng triều lập ra.

Ngài lại cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách sử ký. Họ Lê làm được bộ Đại Việt sử gồm 30 quyển, chép các việc từ đời nhà Triệu đến đời Lý Mạt. Việc biên tập của bộ sử này bắt đầu từ đời vua Thái Tông đến nămThâm Thân (1272) đời Thánh Tông mới xong. Vua Thánh Tông còn khuyến khích các vương hầu họp các dân nghèo để khẩn hoang. Các điền trang có kể từ bây giờ.

2 – Việc Ngoại Giao Với Mông Cổ

Mông Cổ tuy thua nhưng vẫn không dứt ý muốn chinh phục nước ta. Trong giai đoạn này họ đã hạ được nhà Tống tức thôn tính được toàn bộ Trung Quốc, ít lâu sau cho sứ sang đòi vua nước ta sang chầu Bắc Kinh (là kinh đô của Nguyên chủ bấy giờ). An Nam Chí Lược (quyển 4) và Toàn Thư (quyển 5) dựa vào tài liệu Nguyên Sử (quyển 9) về đoạn này viết:

Mùa hạ năm Mậu Ngọ (1258) Mông Cổ sai Nột Loạt Đan sang dụ vua Trần Thánh Tông như sau: “Xưa ta sai sứ sang thông hiếu, các ngươi mê man không tỉnh nên năm ngoái ra phải xuất quân (1257). Quốc chủ các ngươi phải chạy dài nơi đồng nội, ta lại sai hai sứ giả đi chiêu an cho về nước (hai sứ giả này đều bị ta giam giữ ở trong ngục, đến khi thả ra thì một người chết) các ngươi lại dám trói cả sứ giả của ta.

“Nay ta đặc biệt sai người đến mở lòng dụ bảo: Nếu các người thề xin một lòng nội phụ thì quốc chủ phải thân hành sang đây. Ví bằng vẫn còn không chịu thì cứ bảo rõ cho ta biết”.

Vua Trần Thánh Tông hỏi: “Nếu tiểu quốc thành tâm thờ đại quốc thì được đối đãi thế nào?”

Theo Việt Nam Sử Lược vua Thái Tông sai Lê Phụ Trần sang sứ xin ba năm tiến cống một lần. Tình thế đôi bên dĩ nhiên phải gay go vì Mông Cổ ỷ vào sức mạnh có thừa, mà Trần triều thì giàu tin tưởng vào tinh thần anh dũng và nhất trí của dân tộc, huống hồ quân Nam vừa thắng quân Bắc. Việc giao hiếu vẫn chưa được xác định. Mông Cổ sai sứ sang yêu sách hết điều này đến điều nọ, vua ta cứ lần lữa không chịu nhất là việc sang chầu Nguyên chủ, sau câu chuyện ngã ngũ ở chỗ nước Nam chỉ chịu sứ tiến cống ba năm một lần mà thôi, kể tử nằm Quý Hợi (1263). Điều kiện của việc tiến công là;

1) Nộp nho sĩ, thầy thuốc, các người thông âm dương bói toán – thủ công mỗi hạng 3 người (kỹ thuật gia).

2) Về đồ vật phải nộp sừng tê, ngà voi, đồi mồi, vàng bạc, chu sa, dầu tô hợp, quang hương, đàn hương, trầm hương, trân châu, bông trắng, đĩa, chén và các vật lạ.

Thật là cả một sự khôn ngoan! Mông Cổ đòi các nhân vật cốt để biết về mỗi ngành dân trí của người Nam tiến đến bậc nào. Sau đó họ muốn tìm hiểu nước ta có những sản vật gì quý báu. Họ nghiên cứu các điều này để tùy tiện thi hành dần chương trình xâm lăng và bóc lột của họ.

Mông Cổ đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích tức là quan Chưởng Ấn để giám trị các châu quận của nước Nam trong khi chưa cướp được hẳn chính quyền của vương triều bản xứ. Vua chúa nhà Trần cũng hiểu rõ cái manh tâm của Nguyên chủ nên chịu nhận quan Đạt Lỗ Hoa Xích của họ trong khi cần hòa hoãn tình thế.

Trong giai đoạn hòa hiếu khá dài này, Trần triều lợi dụng yếu tố thời gian để tập binh luyện mã, xây dựng cho cuộc tranh đấu một nền tảng vững chắc trên thực tế, biết rằng sớm muộn cuộc xâm lăng của Bắc phương cũng lại tái diễn. Sự nhận xét đó đã căn cứ vào chỗ người Mông Cổ đã tung hoành từ Á qua Âu, làm bá chú hai phần ba thế giới có lẽ nào chịu đấu dịu mãi với một nhược tiểu dân tộc phương Nam nhất là dân tộc này xưa kia đã nằm dưới quyền thống trị của giống Hán mà họ vừa mới khắc phục được. Cuộc áp bức bằng quân lực năm Đinh Tị (1257) đã không thành công, nhưng trên 20 năm Mông Cổ được Trần triều thần phục, chịu nhận quan Giám Trị nên Mông Cổ nghĩ cứ lấy uy thế mà lấn dần, kết cục vẫn đi tới được kết quả mong muốn thfi cần gì phải dùng binh đao, huống hồ binh đao đã rõ rệt vô hiệu lực. Con tính của họ như vậy cũng hợp lý lắm. Trái lại họ không ngờ rằng Trần triều hay dân tộc Việt Nam thuở đó đã chỉ quan niệm việc thần phục nhà Nguyên là một kế sách hòa hoãn với kẻ mạnh, một chiến lược lùi để tiến trong khi thực lực chưa sung mãn. Quả vậy, dưới triều Lý dân tộc Việt Nam độc lập trên hai thế kỷ, sau cuộc thắng trận của Lý Thường Kiệt, gươm đao lâu ngày không mó đến. Qua tới các vua Cao Tông, Huệ Tông, tổ chức kinh tế quân sự, xã hội lại sao nhãng, Trần triều mới bột khởi, đâu đã đủ sức chịu nổi một cuộc trường chiến với một dân tộc hùng cường nhất Thế giời bấy giờ. Cái chước lùi để tiến của Trần triều rõ rệt là một thủ đoạn rất khôn ngoan của các nhà chính trị đời bấy giờ. Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn là hai linh hồn của cuộc kháng chiến, là cột trụ của cuộc chống Nguyên quả đã nhìn thời cuộc rất sát và đã nhọc lòng xây dựng lực lượng dân tộc về ba điểm trên đây. Ba điểm này nếu không phát triển đều thì chỉ còn nước cúi đầu nghe lệnh của kẻ mạnh. Rồi việc binh chế của Trần Triều tổ chức và canh cải như thế nào trên đây chúng đã rõ.

Cuộc xô xát giữa đôi bên ra sao?

Ba năm sau tức là năm Bính Dần (1266) thế ngoại giao bắt đầu gay go giữa đôi bên cùng một nhịp. Năm đó sứ Mông Cổ qua Việt Nam. Trần Thánh Tông yêu cầu bãi bỏ việc đòi nho sĩ, thầy bói và các thợ khéo. Tháng chạp phái đoàn Dương An Dưỡng và Vũ Hoàn đưa sang Nguyên triều ba tờ biểu xin bãi bỏ các vấn đề này: Tờ thứ nhất nói về việc cống phương vật. Tờ thứ hai nói về việc tuyển cống nhân tài. Riêng tờ thứ ba xin cứ để Nột Loát Đan làm “Đại Lỗ Cát Tề” ở nước Nam. (Đại Lỗ Cát Tề tức là Đạt Lỗ Hoa Xích theo Mông Cổ nghĩa là quan trưởng giữ quyền hành chính và quân sự. Hồi đó lực lượng của ta chưa dồi dào nên phải tạm nhận khoản này).

Mông Cổ bằng lòng nhưng khoảng tháng 10 năm sau (Đinh Mão tức 1267), Nguyên chủ lại đưa ra những điều kiện nặng nề gồm 6 việc dưới đây:

1) Quân trưởng phải sang chầu.

2) Phải gửi con em nhà vua sang làm con tin

3) Biên số dân

4) Nộp phú thuế

5) Chịu quân dịch

6) Đặt quan Đạt Lỗ Cát Tề như cũ.

Các điều yêu sách của Mông Cổ trước sau đều bị khước từ khéo léo, bề ngoài có sự nhũn nhặn mà bề trong có sự cứng rắn, rút cục vẫn đưa Mông Cổ đến chỗ bất mãn.

1) Tháng một năm Đinh Mão (1267) Mông Cổ đòi trao trả hai tên lái buôn người Hồi hoạt để xét hỏi về việc Tây Vực.

Trần triều trả lời: “một người là Y Tôn chết đã lâu, một người là Bà Bà sau cũng vì ốm đã chết rồi”.

2) Đối với việc yêu sách nộp voi, ta thoái thác: “…Cứ theo Hòa Lâm, Cát Nhã, Bệ hạ (chỉ vua Nguyên) muốn cần dùng vài con voi lớn, những giống thú ấy mình mẩy xù xụ to lắm, đi chậm chạp không bằng ngựa của thượng quốc, xin sẽ dâng cống chuyến sau…”

3) Tháng một năm Canh Ngọ (1270) Mông Cổ bắt bẻ vua Trần Thánh Tông tiếp chiếu không chịu lạy, không đãi sứ theo lễ vương nhân.

Vua Trần Thái Tông trả lời qua Trung thư sảnh nhà Nguyên: “Bản quốc được thiên triều phong vương tước há không phải là vương nhân sao? Sứ giả của Thiên triều lại xưng mình là “vương nhân” đứng ngang với bản quốc thì e làm nhục phong thể triều đình, huống chi bản quốc trước đã tiếp chiếu chỉ bảo cứ để nguyên tục cũ. (Tháng chạp năm Canh Thân (1260) Mông Cổ do chính sách mềm dẻo đã đưa chiếu thư nói: Đối với quan liêu sĩ thứ trong nước phàm mũ áo, điển lễ, phong tục nhất nhất cứ để nguyên vẹn…) Hễ khi tiếpđược chiếu lệnh thì để yên nơi chính diện, còn mình lui lánh ở chỗ nhà riêng, đó là điển lễ cũ của bản quốc!

“Còn việc đòi voi như có nói trong tờ Dụ gởi sang trước đây, bản quốc sợ trái Ý chỉ nên cứ nấn ná chưa dám thưa thực duyên cớ: Quản voi không nỡ lìa nhà thì sia đi là một chuyện khó.

“Tờ dụ lại đòi nho sĩ, thầy thuốc và thợ thuyền. Nhưng khi bồi thần là lũ Lê Trọng Đà vào bệ kiến, tấc gang gần bóng sáng oai nghiêm không thấy ban chiếu dụ bảo gì cả. Huống chi năm Trung Thống thứ tư đã được miễn rồi. Nay lại nói đến xiết bao sợ hãi lạ lùng! Vậy xin Các hạ nghĩ lại cho…”

Năm Tân Mùi (1271) Hốt Tất Liệt cho sứ qua dụ vua Thánh Tông sang chầu. Vua Thánh Tông cáo bệnh không đi.

Năm sau vua Nguyên cho sứ sang tìm cột đồng Mã Viện. Trần triều đáp: cột đồng ấy lâu ngày mất rồi.

Năm Ất Hợi (1275) các cạnh góc ngoại giao của nước ta đưa ra dần. Tháng giêng năm ấy (1275) vua Thánh Tông gửi sang Mông Cổ bài biểu sau đây:

“Dẫu được ba năm một lần cống, sứ bộ qua lại đổi thay đi về mệt nhọc chưa được ngày nào nghỉ ngơi. Đến như Đạt Lỗ Cát Tề do thiền triều cử sang nước tôi thì lúc về há chịu về không? Huống chi kẻ được sang đây làm gì cũng cậy thế, việc gì lớn nhỏ cũng lấn lướt đè nén nước nhỏ này. Ngài là Thiên Tử dẫu sáng suốt ngang mặt trời, vì mặt trăng nhưng đâu dễ soi tới đáy chậu úp?

“Vả Đạt Lỗ Cát Tề chỉ đáng thi hành với những nước “xấu xí nhỏ mọn” nơi mọi rợ ở biên giới, lẽ nào tôi đã được liệt phong vào bậc vương, đứng làm phên dậu một phương mà lại còn lập Đạt Lỗ Cát Tề cai quản thì há chẳng bị các nước chư hầu cười ư? Vì sợ mà phải cống, sao bằng trong lòng vui phục mà tự cống? (Dịch theo nguyên văn chữ Hán).

Theo Trần Trọng Kim về khoản này, vua Thánh Tông xin đổi Đạt Lỗ Cát Tề làm chức Dẫn Tiến Sứ nghĩa là coi việc kiểm điểm đồ tiến cống, như vậy không có quyền gì nữa đối với nước ta. Vua Nguyên không chịu và biết rằng dựng mưu không xong lại xoay về giải pháp võ lực. Họ cho quan lại ở biên giới thăm dò địa thế nước ta, và về phần nước ta cũng có sự phòng bị.

Năm Đinh Sửu (1277) Thái Thượng Hoàng mất ở Thiên Trường phủ (làng Tức Mặc). Năm sau vua Thánh Tông nhường ngôi cho Thái Tử Khâm rồi trở về ở Thiên Trường. Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái Thượng Hoàng được 13 năm, thọ 51 tuổi.

III. TRẦN NHÂN TÔNG (1279 – 1293)

MÔNG CỔ GÂY HẤN LẦN THỨ HAI

- Việc ngoại giao tan vỡ

- Quyết chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ

- Mông Cổ tấn công trên các mặt trận

1 – Việc Ngoại Giao Tan Vỡ

Thái Tử Trần Khâm thay vua Thánh Tông lên ngôi tức là Trần Nhân Tông. Guồng máy chính trị và quân sự thuở đó vẫn quay đều nhờ ở Thái Thượng Hoàng và các quan triều thần nhiều người có tài trí. Trong nước tinh thần dân tộc vẫn được nhất trí. Mọi vấn đề dân sinh được ổn định và sinh lực quốc gia mỗi ngày một dồi dào do đó chúng ta mới có thể chống đỡ được ngoại xâm hai phen nữa sau này còn đáng sợ hơn cuộc gây hấn lần thứ nhất vào năm Đinh Tị (1257).

Ngoài sự Mông Cổ luôn luôn qua lại hạch sách dưới đời vua Nhân Tông, giặc Lào thường sang quấy nhiễu ở các miền lân cận. Sau này yên hẳn với Mông Cổ vua Nhân Tông đã có phen ngự giá đi đánh Lào (1290).

Như trên đã nói, sau chín năm nhịn nhục từ 1266 đến 1275 dân tộc chúng ta đã bắt đầu có thực lực thì Trần triều bắt đầu tấn công Mông Cổ mỗi ngày một mạnh thêm về mặt ngoại giao.Yêu sách của họ bị khước từ hầu hết. Chúng ta đã dùng nhiều “lý sự” trong các biểu chương gửi qua triều Nguyên, gần như để chọc giận họ, tuy nhiên liều thuốc đắng ấy vẫn có bọc đường.

Về văn học, dân ta bấy giờ cũng tấn tới nhiều, cứ xem bài hịch của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và nhiều thi văn của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão…sau này trong cuộc chống Nguyên thì rõ. Những nhà văn học của chúng ta lĩnh hội được khá nhiều tinh hoa của văn học Trung Quốc nên trong thi văn lời lẽ chải chuốt, tinh thần cứng rắn. Chữ Nôm ra đời, thơ Hàn luật rất thịnh hành (kể từ Hàn Thuyên, thơ Nôm thịnh phát nên gọi là thơ Hàn Luật vì Thuyên đã đặt ra khuôn phép, luật lệ hoặc có nhiều sáng kiến về môn này) tuy công văn, tờ sức vẫn còn dùng chữ Hán.

Năm Quí Tị (1293) vua Nhân Tông truyền ngôi cho Thái Tử Thuyên rồi về nghỉ ở Thiên Trường là nơi yên dưỡng của các vua chúa họ Trần bấy giờ.

Vua Nhân Tông trị vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ được 51 tuổi.

Tháng chạp năm Mậu Dần (1278) Mông Cổ cử bọn Sài Xuân (có sách phiên âm lầm là Sài Thung) sang hạch hỏi về 6 khoản đã đưa ra hồi tháng 10 năm Đinh Mão (1267) mà nhà Tràn chưa tuân theo.

Sài Xuân có thái đọ kiêu ngạo, Trần triều có thái độ cứng rắn nên cuộc gặp gỡ không đi tới một kết quả nào tốt đẹp. Nhất là về khoản vua nước ta phải sang chầu vua nhà Nguyên thì nhà Trần từ chối hẳn.

Tháng một năm Kỷ Mão (1279) sứ ta là Trịnh Quốc Toản sang Tàu bị giữ lại tại nhà hội đồng. Bọn Sài Xuân bốn người cùng một sứ giả của ta là Đỗ Quốc Kế đem chiếu sang dụ lần nữa: Nếu nhà vua không sang chầu được, phải đúc người vàng thay thân mình, lấy hai hạt ngọc trai làm hai con mắt, ngoài ra phải tuyển nho sĩ, phương kỹ, tử đệ thợ thuyền mỗi hạng hai người để thay nhân dân. Bằng không chỉ có chiến tranh mới giải quyết được vấn đề.

Năm Canh Thìn (1280) vua Trần Nhân Tông cử chú họ là Trần Di Ái (tức Trần Ái), Lê Tuân và Lê Mục sang thay mình. Nguyên chủ không chịu lại lập Di Ái làm An Nam Quốc Vương, đổi nước ta là An Nam Tuyên Úy ty, đặt quan liêu sang giám trị các châu, huyện (Tân Tị 1281).

Năm Nhâm Ngọ (1282) Sài Xuân làm An nam Tuyên Úy sứ đô nguyên súy đem 1000 quân hộ tống Di Ái về nước đưa chiếu thư dụ mọi người trong tông tộc nhà Trần và quan lại trong nước.

Cuộc ngoại giao từ đấy tan vỡ.

Trần triều cương quyết lấy gươm đao chống lại Mông Cổ. Quân đội được lệnh đánh bọn Sài Xuân ở gần Nam Quan. Sài Xuân bị bắn mù một mắt chạy trốn về Tàu, cái triều đình bù nhìn kể từ Di Ái trở xuống đều bị bắt và phải tội đồ, sung làm lính.

Tháng bảy năm sau (năm quí Mùi 1283) vua Trần Nhân Tông lại đưa thư sang đòi sứ giả của ta bị Nguyên giữ lại mấy năm trước (Trinh Quốc Toán và vị quan họ Phạm tước Minh Tự, qua Bắc Triều từ năm Kỷ Mão 1279). Mông Cổ nhượng bộ.

Tháng mười năm ấy, sứ Nguyên Đào Bỉnh Trực đem tỉ thư (quốc thư có đóng dấu ngọc tỉ) sang dụ ta giúp binh lương và cho mượn đường để đánh Chiêm hành. Sự thật đấy chỉ là mưu mô để tấn công vào nước ta một cách bất ngờ.

Trần triều vẫn tiếp tục chước ngoại giao vì việc binh đao đối với ta chỉ là chuyện vạn bất đắc dĩ. Trung lương Đại phu Đinh Khắc Thiệu và Trung đại phu Nguyễn Đạo Học đem phương vật theo sứ Nguyên là Triệu Chử sang giao thiệp với Mông Cổ. Trung phụng đại phu Phạm Chí Thành và Triều thỉnh lang Đỗ Bảo Trực đến Sảnh thu xếp mọi việc và đưa thư do vua Trần Thánh Tông đứng lên, cho chức Bình Chương để từ chối việc nài ép ta giúp binh lương kể trên.

2 – Huyết Chiến giữa Việt Nam và Mông Cổ

Từ khi Sài Xuân bị thương chạy về, thái độ Trần triều mỗi ngày thêm cứng rắn khiến Nguyên chủ hết sức giận dữ. Việc mượn đường và giúp lương đi đánh Chiêm Thành lại bị khước từ khéo léo đã quyết định cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ.

Tháng tám năm Nhâm Ngọ (1282) niên hiệu Thiệu Bảo thứ tư đời vua Trần Nhân Tông, biên thần giữ Lạng Sơn là Lương Uất sai ruổi ngựa trạm về báo: Nguyên chủ sai con là Thoát Hoan phong làm Trấn Nam vương cùng Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Lưu Thâm, Tham chính A Lý và Ô Mã Nhi lót miệng bằng việc đi đánh Chiêm Thành, đòi ta cho mượn đường, góp quân lính, cùng lương thảo (tháng 10 năm Nhâm Ngọ).

Hội Nghị Bình Than

Tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) Trần triều trước tình thế cấp bách và nghiêm trọng, triêu tập các vương hầu và bá quan văn võ bên sông Bình Than (thuộc huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, chỗ sông Đuống nối với với Sông Thái Bình). Nơi họp có tính cách bí mật vì cần tránh tai mắt của bọn gián điệp đối phương. Hội nghị này là hội nghị để thăm dò ý kiến của các vương hầu, tướng lĩnh.

Các quan có người bàn không nên nghịch ý Mông Cổ nghĩa là cho mượn đường và giúp lương. Có người bàn nên đem quý vật sang Cống để cầu hoãn binh. Duy chỉ có Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư chủ chiến và xin đem quân giữ các nơi hiểm yếu. Xin nhắc Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư là tay tướng tài trước đó đã được khen thưởng trong cuộc kháng chiến Nguyên năm Đinh Tị (1257) sau phạm tội bị lột chức ra làm nghề bàn than ở Chí Linh, Hải Dương. Lúc này ông lại được mời ra dự bàn và giữ chức Phó đô tướng quân.

Một chuyện đáng chú ý trong cuộc hội nghị tại Bình Than là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản cũng dự vào số người theo hầu vua nhưng vì ít tuổi nên không được dự bàn. Quốc Toản lấy làm bực tức tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Khi trở về Quốc Toản họp gia no được hơn 1000 người, tự sắm chiến thuyền kéo cờ đánh giặc.

Cuộc chiến đấu đã quyết định vào tháng 10 năm sau (Quí Mùi 1283), sau đó Trần Nhân Tông thân chinh đốc xuất các vương hầu huy động toàn thể quân đội thủy lục được tất cả 20 vạn mở cuộc tập trận. Trần Quốc Tuấn được tấn phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh lực lượng quân sự toàn quốc, tung ra lời hịch đầu tiên kêu gọi tinh thần ái quốc và kỷ luật của các tướng sĩ vào tháng 8 năm sau (Giáp Thân 1284). Rồi một cuộc duyệt quân vĩ đại đã khai diễn Đông Bộ Đầu tức là bến Đông Tân, trên sông Cái nay gọi là Hồng Hà (thuộc huyện Thượng Phúc tỉnh Hà Đông). Rồi quân đội của ta chia đóng các nơi cổ họng và then chốt của các miền biên giới, chẳng hạn: Lạng Sơn và đường thủy bộ từ Vân Nam vượt qua Lào Kay, Phú Thọ đổ xuống. Miền Hải DƯơng thì bến Vạn Kiếp cũng có sự phòng ngự. Miền trong là Thanh Nghệ xét địch quân có thể đổ bộ ở đây để tiến ra Bắc…Đây là mấy con đường chính. Quả nhiên Nguyên quân sau này đã dùng cả mấy đường kể trên.[1]

Việc binh tiến mạnh nhưng việc ngoại giao vẫn tiếp tục để hòa hoãn tình thế và nghiên cứu thái độ của địch. Sứ ta là Trần Phủ lên đường tới Hành sảnh Kinh Hồ bên Nguyên hồi tháng một, tháng Chạp (Giáp Thân – 1284) xin hoãn binh.

Hội Nghị Diên Hồng

Cuộc xâm lăng thứ hai của Mông Cổ mở vào ngày 21 tháng chạp năm Giáp Thân (1284) tức là ngày quân Mông Cổ thực sự xuất thân toàn bộ qua giày đạp nước ta. Lần này họ huy động tới 50 vạn binh sĩ đặt dưới quyền các danh tướng như: Tả Thừa Lý Hằng, Bình Chương A Thích, Bình Chương A Lý Hải Nha, Tổng chỉ huy của Mông Cổ là Thái Tử Thoát Hoan. Phụ tá của Thoát Hoan có hai Thượng tướng Ô Mã Nhi và Toa Đô. Các lực lượn của quân Nguyên bấy giờ đều hội tại Hồ Quảng chia làm hai đạo: Lục quân tiến vào Lạng Sơn do Thoát Hoan điều động, Thủy quân xuất phát tự Quảng Châu theo Toa Đô vượt biển tới Chiêm Thành.

Đáng để ý một điều là vấn đề tấn công vào Việt Nam của Mông Cổ đã quyết định từ năm Nhâm Ngọ (1282) sau khi Sài Xuân bị bắn mù mắt chạy về mà hai năm sau quân Nguyên mới thực hiện. Họ chậm động binh là vì Trần triều khéo trì hoãn bằng ngoại giao để có đủ thì giờ lo liệu mọi vấn đề quân sự chăng? Hoặc về phần Mông Cổ, họ phải tích cực chuẩn bị vì biết dân Việt ta là một dân tộc có một quá khứ anh dũng?

Khi nghe tin đại quân Mông Cổ họp ở Hồ Quảng sắp sang, vua Nhân Tông còn cố gắng điều đình một phen nữa nhưng thất bại.

Tháng chạp năm Giáp Thân (1284) Thượng Hoàng (vua Thánh Tông) cho triệu các bô lão tới điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý cùng hỏi mưu chước. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh.

Thế là qua hai hội nghị, toàn quốc đã nhất trí kháng địch.

Quân bảo hộ của Thoát Hoan đến cửa Nam Quan thì ngừng lại. Thoát Hoan phái Bá Tổng A Lý mang thư qua nói: “Bản súy chỉ nhờ đường Nam Quốc qua đánh Chiêm Thành, chứ không có bụng gì đâu mà ngại. Nên mở cửa cho bản súy đi và đến đâu chỉ nhờ giúp ít nhiều lương thảo, khi phá xong Chiêm Thành sẽ có trọng tạ. Nhược bằng kháng cự thiên binh, bản súy sẽ không dong tình, bờ cõi sẽ tan hoang, lúc đó coshoois cũng đã muộn”.

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nổi giận đuổi sứ Nguyên, chia quân chẹn ngay hai địa điểm cổng ngõ là Khả Li và Lộc Châu thuộc Lạng Sơn.

Cuộc tiến binh của nhà Nguyên gồm có:

1) Tây đạo là cánh quân do bốn Vạn hộ Ly La Hợp Đáp Nhi (dựa vào tài liệu An Nam Chí Lược nhưng chưa rõ tên một hay hai người) Chiêu Thảo A Thâm do huyện Khưu Ôn (thuộc Lạng Sơn) đột nhập vào đất Việt.

2) Đông đạo do bọn Khiếp Tiết Tản Lược Nhi, Vạn Hộ Lý Bang Hiến vượt nú Khưu Cấp (An Nam Chí Lược chép là Cấp Lĩnh, Cương Mục chú thích là phố Kỳ Lừa thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn) tràn sang. Đại binh của Thoát Hoan nối theo.

3) Quân của Toa Đô tiến vào Chiêm Thành do thủy đạo (trên đã nói).

Xem đường tiến quân của Mông Cổ thì mặt trận phía Bắc quan trọng hơn cả. Đại quân của Trần Hưng Đạo Vương phải hoạt động kịch liệt ở đây. Giặc không tiến được ở núi Khưu Cấp phải qua ải Khả Lợi (hay Khả Lý) kéo xuống. Cánh quân Đông đạo của Tản Lược Nhi lúc này vượt được ải Khả Lợi liền tiến xuống ải Nữ Nhi. Tại chốn này gián điệp của ta là Đỗ Vĩ bị chúng bắt được và chém chết.

Hưng Đạo Vương chống nhau với Thoát Hoan ở ải Nội Bàng, ngày 27 tháng chạp năm Giáp Thân (1284). Thế giặc mạnh quá, ngài phải chạy về đóng ở Vạn Kiếp để chuẩn bị cuộc phản công và truy kích vào khoảng mùa hè năm sau (Ất Dậu 1285). Thủy quân của ngài đóng ở Bái Tân (Bái Tân là thượng lưu sông Lục Nam). Còn Thượng tướng Trần Quang Khải đóng quân ở Nghệ An đề phòng quân Toa Đô. Viên đại tướng này phụ trách mặt trện Tây Nam.

Chiến lược Mông Cổ bấy giờ là dùng thế gọng kìm xiết chặt quân Nam vào giữa và với số quân 50 vạn họ hy vọng phong tỏa Việt quân một cách dễ dàng từ Nam ra Bắc.

Quân Nam Rút Lui Theo Kế Hoạch

Tại trận tuyến Lạng Sơn buổi đầu quân Nguyên bị ngừng lại do sự cản trở của Việt quân, sau hai ba trận không thắng bại. Ít lâu sau Khả Lợi và Lộc Châu thất thủ, Việt quân phải rút về Chi Lăng. Hưng Đạo Vương cùng các gia tướng là Dã Tượng và Yết Kiêu chuyển quân về Bái Tân để ra Vạn Kiếp xét không giữ nổi mặt trận Lạng Sơn lâu hơn nữa và đã thấy bất lợi rõ rệt.

Vua Nhân Tông được tin Hưng Đạo Vương lui quân khỏi Lạng Sơn liền xuống chiếc thuyền nhỏ ra Hải Đông (tức là Hải Dương), triệu Hưng Đạo Vương đến. Nhân Tông nói: Thế giặc lớn như vậy chống với nó e dân sự sẽ tàn hại hay là hàng chúng nó để cứu lấy dân?”.

Hưng Đạo Vương khảng khái trả lời: “Bệ hạ vì lòng thương dân mà nghĩ như vậy nhưng Tốn Miếu và Xã tắc thì sao? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi trước đã!”.

Nhà vua được lời cương quyết và trung liệt ấy lại vững lòng.

Ở các nơi hậu tuyến, từ kinh thành đến các miền thôn dã triều đình đã ra lệnh “bỏ vườn không nhà trống”. Nhiều nơi bị phá hủy sạch (theo Nguyên sử).

Khắp các nơi đều treo bảng cấm hàng giặc: “Phàm các quận, huyện trong nước, hễ giặc đến thì phải liều chết, cố đánh. Nếu sức địch không nổi thì cho phép trốn ẩn vào rừng núi chớ không được hàng”.

Hội Nghị Quân Sự Ở Vạn Kiếp

Hội nghị này được nhóm họp để chỉnh bị lại hàng ngũ sau những kinh nghiệp về địch ở măt trận Lạng Sơn. Quân các lộ, các xứ tập hợp lại và chiêu mộ thêm vẫn được đủ 20 vạn do các vương hầu đưa đến Vạn Kiếp để tùy quyền điều động của Hưng Đạo Vương. Đây là các binh lính ở các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, An Sinh, Long Nhãn và các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm của Hưng Vũ Vương, Minh HIền Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng Trí Vương Nghiễm. Trong các quân dân các lộ những người khỏe mạnh được lựa chọn làm tiên phong. Thế lực quân ta lại nổi to. Đáng chú ý ngoài quân đội bấy giờ chỉ mới lấy ở các miền duyên hải và các lộ Đông Nam, còn quân đội từ Thanh Hóa trở vào chưa phải tuyển đến.

Ta nhận thấy Hưng Đạo Vương và Trần triều đã áp dụng một phương thức kháng Nguyên rất khéo léo và bình tĩnh. Trần triều hiểu rằng quân số của Mông Cổ tới 50 vạn, nhưng ta không cần huy động một quân số ngang với quân số của địch. Lý do thứ nhất là nước ta nhỏ, quân nhu, lương thực không đủ cung cấp cho một lực lượng quân sự quá rộng lớn. Lý do thứ hai ta thi hành một cuộc trường kỳ kháng chiến thì không cần động binh quá nhiều ngay. Trong cuộc trường chiến này, Nam quân hết sức tránh cuộc xung đột với địch nơi nào địch xuất phát nhiều năng lực và quân số. Ta chỉ tấn công địch ở nơi nào địch quân cô, thế yếu, hoàn cảnh bất lợi và có thể chiến thắng được chắc chắn và dễ dàng. Phương lược này có khoa học hay không ta coi những kết quả mà Trần triều thâu hoạch được ở dưới đây sẽ hiểu.

Nhận thức rõ ràng chiến pháp và tình thế của địch, Hưng Đạo Vương cho lưu hành luôn lúc đó cuốn Binh thư yếu lược do Ngài soạn ra để các tướng sĩ áp dụng ngay trong các cuộc giao tranh. Nguyên tắc của cuốn Binh thư yếu lược đó đại khái như trên đây tất nhiên còn nhiều chi tiết nữa rất tinh vi và thực tế.

Ngài lại đưa ra một bản hịch để hiệu triệu tướng sĩ nhân dân chống nạn xâm lăng.

Bài hịch này đã được Cử nhân Nguyễn Văn Bình dịch ra theo thể thơ song thất lục bát dưới đây:

Xưa Kỷ Tín liều thân chịu chết,

Cứu Hán Vương thoát khỏi Hoàng Dương.

Do Vu cháu Sở Chiêu Vương,

Giơ lưng đỡ giáo tìm đường cứu vua.

Kìa Dự Nhượng thuở xưa người Tấn,

Từng nuốt than lận đận phục thù.

Kìa Thân Khoát một Tể phu,

Chặt tay theo nạn với vua nước Tề.

Quan nhỏ như Uất Trì, Kính Đức,

Giúp Thái Tông khỏi bước trùng vi.

Cảo Khanh quan ở biên thùy,

Già mồm chửi giặc không hề tiếc thân.

Bậc nghĩa sĩ trung thần từ trước,

Từng diệt thân cứu nước có nhiều.

Những người kia nếu chẳng liều,

Chết xuông như đám nữ lưu xó nhà.

Còn danh tiếng đâu mà chép lại,

Cùng kiền khôn truyền mãi không ngần.

Các ngươi dòng dõi vũ thần,

Xưa nay nào có hiểu văn nghĩa gì.

Nghe câu chuyện bán nghi bán tín,

Sự muôn năm nhắc đến chi vay?

Này ta hãy nói cho hay,

Thử xem Tống, Thát truyện này ra sao?

Vương Công Kiên người nào thế vậy?

Tướng Nguyễn Văn Lập ấy người nào?

Điếu Ngư thằng bé tèo teo,

Chống quân Mông Cổ ồn ào trăm muôn.

Khiến quân Tống thắng luôn mấy trận,

Đến bây giờ dân vẫn hàm ân.

Ngột Lang là tướng đốc quân,

Với tỳ tướng Xích là nhân phẩm nào?

Ngoài muôn dặm quản bao nước độc,

Trong mấy ngày phá rốc quân Nam.

Lòng vua Thát Đát đã cam,

Đến nay lừng lẫy tiếng thơm nhường nào!

Ta với ngươi sinh vào đời loạn,

Vừa gặp cơn vận hạn gian nan.

Sứ Nguyên lai vãng bao lần,

Mọi nơi đường sá muôn vàn nôn nao.

Triều đình bị cú diều soi mói,

Tể tướng thì lang sói rẻ khinh.

Mượn oai Hốt Liệt tranh giành,

Lấy bao của báu chưa đành lòng tham!

Cậy thế chúa Vân Nam nạt nã,

Đòi bạc vàng hết cả kho ta.

Thịt nuôi hùm đói mãi a?

Sao cho thoát khỏi lo xa sau này?

Ta đây những hàng ngày quên bữa,

Lúc đêm thâu ngồi dựa gối kiêu.

Giọt châu tầm tã tuôn trào,

Như nung gan sắt, như bào lòng son!

Chí những muốn moi gan lấy tiết,

Lòng những toan xé thịt vằm da.

Dù thân dầu với cỏ hoa,

Dù là ngựa bọc thân đà cũng vui.

Các ngươi vốn là người môn thuộc,

Được trông nom mọi việc binh cơ.

Áo không, ta cởi áo cho,

Cơm không, ta sẻ cơm cho no lòng.

Quan nhỏ thì ta phong chức cả,

Lộc ít thì ta trả lương thêm.

Đi sông, ta cấp cho thuyền,

Đi đường, ta cũng lệnh truyền ngựa đi.

Cho cầm quân an nguy cùng lối,

Cho nằm yên, vui nói cùng hàng.

So Vương Kiên với Ngột Lang,

Đãi chư tỳ tướng, mọi đường kém chi.

Nếu vua nhục, người thì chẳng đoái,

Mà nước nguy, ngươi lại làm ngơ.

Đứng hầu tướng giặc không dơ?

Nghe ca thết sứ vẫn trơ tráo ngồi.

Khi gà gọi, khi thời cờ bạc,

Cuộc vui chơi gỡ gạc đủ trò.

Ruộng vườn mưu sự ấm no,

Vợ con vui thú riêng cho một mình.

Ham lập nghiệp quên tình nhà, nước,

Mải đi săn, nhác việc ngăn, ngừa.

Rượu chè hôm sớm say sưa,

Hát hay đàn ngọt sớm trưa thỏa lòng.

Đúng lúc có quân Mông Thát tới,

Cựa gà không chọc nổi áo da.

Những nghề cờ bạc tinh ma,

Phải đâu kế hoạch của nhà cầm quân?

Ruộng nương nào đủ phần chuộc mạng?

Vợ con nào đủ cáng quân nhu?

Của đâu chuộc được đầu thù?

Chó săn đâu đủ sức khua giặc trời.

Rượu ngon khó làm mồi bả giặc.

Hát hay không làm điếc tai thù.

Bấy giờ chẳng sót lắm ru?

Vua tôi ta bị trói gô một đàn!

Tước ấp ta bị tan nát cả

Bổng lộc ngươi cũng chẳng còn gì.

Gia đình ta bị đuổi đi,

Vợ ngươi cũng đến khi nhục nhằn.

Tông xã ta, địch quân xéo di,

Phần mộ ngươi cũng bị quật lên.

Đời ta khổ nhục liên miên,

Cái tên nhơ nhuốc lưu truyền mãi sau!

Nhà các ngươi cũng đều mang tiếng,

Không khỏi làm những tướng bị thua,

Các ngươi đang lúc bấy giờ,

Muốn mong vui thích như xưa được nào?

Lời ta nhủ thấp cao ngươi nhớ,

Phải coi nằm trên lửa là nguy.

Kiềng canh đưa cũng thổi xùy,

Luyện quân sĩ tốt tập nghề đao cung.

Khiến ai nấy nức lòng mạnh mẽ,

Sức Bàng Mông, Hậu Nghệ cũng ham.

Bên đầu Hốt Liệt cho cam,

Phơi luôn thịt chúa Vân Nam bên đường.

Tước ấp ta chăn thường ấm chỗ,

Bổng lộc ngươi hưởng có trọn đời.

Gia đình ta được yên vui,

Vợ con ngươi cũng no đời trăm năm.

Tông miếu ta nghìn năm hương lửa,

Tổ tiên ngươi muôn thuở cương thường.

Ta đây phỉ chí bồng tang,

Các ngươi dường cũng vẻ vang vô cùng.

Huy hiệu ta tôn sùng mãi mãi,

Tính danh ngươi ghi nhớ sử xanh.

Bấy giờ vui thú linh đình,

Các ngươi dầu muốn buồn tênh được nào?

Này binh pháp soạn theo đời trước,

Là “Binh thư yếu lược” ban ra.

Các ngươi theo đúng sách ta,

Ấy là thần, chủ một nhà từ xưa.

Nếu bỏ sách thờ ơ lời dạy,

Ấy kẻ thù đã mấy đời nay.

Tại sao mà lại thế vầy?

Là thù không đội trời này được chung.

Nếu các ngươi lòng không biết hổ,

Không coi điều “sát Lỗ” la fcaanf.

Lại không vâng dạy luyện quân,

Ấy là quay giáo, bó thân ra hàng.

Giặc yên rồi còn mang tiếng mãi,

Mặt mũi nào đứng với cao dầy?

Muốn ngươi hiểu rõ lòng đây,

Vậy nên thảo bức hịch này cho nghe.

3 – Mông Cổ Tấn Công Trên Các Mặt Trận

Ngày mồng 6 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) Ô Mã Nhi dẫn quân đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Quân ta thua chạy. Chiến trường cách Vạn Kiếp 10 dậm.

Phòng tuyến mạn Đông BẮc của chúng ta bị đổ, quân Mông Cổ từ Lạng Sơn chuyển xuống và từ miền bể kéo vào như gió bão.

Ngày mông 9 tháng giêng, một trận đại chiến đã khai diễn ở Bài Than (theo An Nam Chí Lược, nay không rõ Bài Than ở đâu. Hoàng Thúc Trâm cho có lẽ làng Bình Than, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh). Vua Trần thân đốc chiến trong trận nay và dàn một số quân tới 10 vạn.

Ngày 12 tháng giêng, giặc đến Kinh Bắc (Bắc Ninh) tàn phá các vùng Võ Ninh, Gia Lâm, Đông Ngạn rồi đóng tại Đông Bộ Đầu trong khi đại quân của nhà Trần dựng trại ở mé Nam ngạn sông Cái (Nhị Hà) để án ngữ. Tại đây giặc bắt được quân ta thấy trên cánh tay có chữ Sát Thái cả giận giết hại rất nhiều. Tính ra từ bến Vạn Kiếp giặc tiến đến gần sát thành Thăng Long chỉ có một tuần lễ, đủ hiểu thế giặc rất mạnh, huống hồ giặc Mông Cổ vốn quen áp dụng lối đánh nhanh như chớp ngoáng mặc dầu quân ta kháng cự cũng ráo riết.

Để đối phó với quân ta đóng giữ ở phía Nam ngạn sông Nhị Hà, Thoát Hoan cho đại bác bắn tới tấp. Quân ta bỏ chạy. Mông Cỏ bắc cầu phao chuyển quân qua sông rồi kéo tới tận chân thành Thăng Long hạ trại. Chiến thuyền của chúng ta bị lọt vào tay giặc. Nguyên súy Ô Mã Nhi, Chiêu thảo Nạp Hải và Trấn Thủ Tôn Lâm Đức cho phá hủy hết.

Trong dịp này Trần triều cử Đỗ Khắc Chung đi sứ để dò hư thực của giặc. Quân giặc đem chữ Sát Thát ra truy vấn. Ô Mã Nhi nói: Đại quân từ xa tới đây, nước ngươi sao không trở giáo, cùng nhau đến yết kiến, lại dám nghịch mệnh ta. Châu chấu đã xe rồi đây sẽ ra sao?”

Khắc Chung trả lời: “Hiền tướng không theo cái chước của Hàn Tín đi bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới trước hãy đem thư. Nếu không thấy thông hiếu thì mới là lỗi chứ? Nay lại bức bách nhau, muông túng thì cắn, chim cùng thì mổ, huống chi con người!

Mã Nhi dọa: “Đại quân mượn đường đi đánh Chiêm Thành, Quốc vương nếu đến yết kiến thì bờ cõi được yên, một mảy tóc ta cũng không phạm. Nếu cứ mê man không tỉnh thì chỉ trong chốc lát núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ ra cỏ mục…”

Khắc Chung đối đáp cứng cát không chịu khuất. Khi về đến trại bên ta vào giờ Mão ngày 13 tháng giêng. Giặc đuổi theo đánh nhau với quân ta (Toàn thư quyển 5, tờ 45b-46b, Cương Mục quyển 7, tờ 33a-34b).

Ngày 13 tháng giêng, vua Trần giữ sông Cái không nổi phải rút lui theo dọc sông về phía Nam dựng lũy bằng gỗ chống lại. Vua Trần lại cho Nguyễn Hiệu đi xin hòa. Thoát Hoan không nghe rồi cho bắc cầu phao tiến qua sông vào thành. Thành Thăng Long thất thủ. Quân Nguyên mở tiệc tại hoàng cung, một đạo đuổi theo quân Việt (Cương Mục quyển 7 tờ 35a).

Mặt Trận Đông Nam

Hưng Đạo Vương chuyển quân chủ lực về Thiên Trường rồi rước xa giá đi Hải Dương. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải lĩnh nhiệm vụ chặn Toa Đô tại Nghệ An. Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên Trường, Chương Hiến hầu Trần Kiệt cùng bọn Lê Tắc và vài vạn quân giữ Thanh Hóa. Tại trận tuyến này giặc cũng rất mạnh.

Bên hàng ngũ Mông Cổ có Đại Vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Đường Cổ Đời, Chính Hắc Đính từ Chiêm Thành tiến quân ra phủ Bố Chính (Quảng Bình ngày nay), Ô Mã Nhi ở ngoài bể đánh vào hợp thành hai lực lượng thủy bộ uy hiếp mặt trận Đông Nam. Tình thế quân ta ở đây rất là điêu đứng. Có điều đáng chú ý là từ Chiêm Thành ra tới Nghệ An, quân đội của Chiêm và của ta gần như có sự đoàn kết để cùng chống Mông Cổ. Cuộc đoàn kết này là lần thứ nhất và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử Việt – Chiêm. Được ít ngày tại Nghệ An, Trần Quang Khải không chống nổi áp lực thủy bộ của giặc phải lùi ra mạn ngoài. Ngày mồng một tháng hai năm Ất Dậu (1285) bọn Trần Kiện, Lê Tắc cùng gia quyến và quân bản bộ hàng giặc.

Ngày mồng 2 tháng hai, Giảo Kỳ phá quân ta ở bên kinh Vệ Bố (thuộc Thanh Hóa) sau khi quân kỵ của họ lội được qua kinh. Tướng của ta là Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng tử trận.

Ngày mồng 3 tháng hai, Thoát Hoan đánh được đạo quân của vua Trần ở Đại Hoàng giang. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng đem cả nhà đi theo giặc.

Ngày mồng 6 tháng hai, Giảo Kỳ thống xuất bọn Trần Kiện đánh quân ta ở bến đò Phú Tân. Ở đây quân của ta do Trần Quang Khải ở Nghệ An rút ra cũng tan vỡ, bị giặc chém mất hơn một nghìn người.

Để hòa hoãn trong khi tình thế quá cấp bách và đen tối, vua Trần Nhân Tông sai Trung Hiếu hầu Trần Dương và quan hầu cận Đào Kiện đưa quốc muội là An Tư công chúa cho Thoát Hoan. Thoát Hoan phái Thiên hộ họ Ngải đến nói:

- Đã xin hòa thì chính nhà vua phải tới thương nghị.

Vua Trần không nghe một là vì e giặc có mưu gian hai là chỉ cốt hoãn binh nhất thời mà thôi.

Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng đóng ở Thiên Trường, ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu (1285) nghe thấy giặc đến bãi Than Mạc (tức Thiên Mạc ở bên sông Cái thuộc Hưng Yên) liền đem binh ra đánh bị giặc vây bắt được. Ông tuyệt thực và nhất định chết. Thoát Hoan biết ông là một danh tướng muốn trọng dụng nên hết sức vỗ về.

Thoát Hoan hỏi ông: Có muốn làm Vương đất Bắc không?

Ông quắc mắt quát: Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm Vương đất Bắc. Ta bị bắt thì chỉ có chết, đừng hỏi lôi thôi!”

Thoát Hoan biết không thể đánh đổ lòng trung liệt của ông đành cho đem chém. Tin này tới Trần triều ai nấy đều động lòng thương tiếc.

Mồng 9 tháng ba, bọn Giảo Kỳ và Đường Cổ Đới đem chu sư (thuyền chiến) đuổi theo, bổ vây ráo riết ở cửa Tam Trĩ suýt bắt được hai vua Trần lúc này đa xdunfg thuyền nhỏ do tướng Nguyễn Cường hộ vệ chạy lên phía nguồn Tam Trĩ (Đây là xã Tam Trĩ, châu Tiên Yên, tỉnh Quảng Yên) còn thuyền ngự bơi ra miền Ngọc Sơn thuộc châu Vạn Ninh tỉnh Quảng Yên có ý đánh lừa giặc. Quân Nguyên do thám biết thuyền ra Ngọc Sơn là thuyền giả liền đuổi theo đường sông Tam Trĩ. Hưng Đạo Vương phải hộ vệ hai vua lên bộ đến làng Thủy Chú rồi lạitìm đường ra sông Nam Triệu (tức Bạch Đằng Giang thuộc Hải Dương) vượt qua cửa bể Đại Bàng (thuộc huyện Nghi Dương) rồi vào Thanh Hóa. Trong cuộc rượt theo hai vua Trần, giặc bắt được vàng lụa và một số thanh niên nam nữ tông thất nhà Trần.

Ngày 15 tháng ba, bọn Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc (con thứ của vua Trần Thái Tông, vẫn ngầm có ý cướp ngôi, từng viết thư bí mật giao thông với giặc Nguyên do khách buôn ở Vân Đồn chuyển giao, yêu cầu Nguyên chủ đem quân sang. Sau này Mông Cổ bại trận, tắc xấu hổ ở lại đất Nguyên rồi chết ở bên đó) cùng lũ Phạm Cự Địa, Lê Diễm và Trịnh Long đem gia quyến đi hàng giặc.[2]

Toa Đô thắng trận dễ dàng từ Nghệ An ra Thanh Hóa mở cuộc chiêu an ở đây. Từ vùng Thanh Nghệ ra suốt khắp các miền Trung Châu và dọc vịnh Bắc Việt thế giặc rất to, chỗ nào đồn ải của quân Nguyên cũng san sát. Thành Thăng Long cùng các trọng trấn đều có cờ Mông Cổ bay phấp phới. Do sự tàn phá của giặc, tình cảnh các miền thôn quê của ta xơ xác, tiêu điều không bút nào tả xiết. Vua tôi nhà Trần đêm ngày lo sợ, duy một người vẫn vững tinh thần chiến đấu, vẫn tin tưởng ở tương lai, đó là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Rồi con người sắt đá ấy đã biết truyền cái hùng khí không phải của một đại tướng mà của cả dân tộc Việt Nam vào đám ba quân, giữa lúc ngọn cờ đang ngơ ngác.

Cuộc Tổng Phản Công Của Việt Nam

Từ tháng tư khí hậu của miền Bắc Việt trở nên gay gắt dưới ánh nắng sém da bỏng thịt, lại có những trận mưa bất thường đổ xuống phát tiết những khí độc nặng nền, oi ả khiến quân giặc ốm đau tật bệnh chết hại rất nhiều. Quân ta mặc dầu có nhiều phen đụng chạm với giặc nhưng theo thượng lệnh không được ham chiến, nhất là thế giặc đang rất mạnh và sung mãn về đủ phương diện.

Chiến sự diễn hành từ cuối năm Thân đến bấy giờ đã ngót năm tháng. Nhờ những sự lui quân có trật tự, có phương pháp theo một kế