Chương XVII B – CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA NGUYỄN
Thuế khóa
- Binh chế
- Quan chế
- Ngân quỹ của Nam Hà
- Các địa hạt hành chính
- Việc cầu phong với Tàu
- Chiếm đất của Chiêm Thành
Nhìn vào các tổ chức của Nam Hà kể từ sau cuộc bãi chiến một trăm năm, ta thấy một sự phát trển mạnh mẽ rõ rệt.
Cương giới của Nam Hà mỗi ngày tiến sâu vào xứ Chàm, rồi bị Chàm lấn hết thì bóng người Việt di dân lại thoáng trong các vùng Thủy Chân Lạp. Cuộc Nam tiến được đà và nếu không bị vấp váp là nhờ ở chỗ con cháu Chế Bồng Nga mỗi ngày thêm suy nhược mà triều đình Chân Lạp cũng luôn luôn lục đục hồi cuối thế kỷ XVII. Được thụ hưởng cả một nền văn minh cũ của miền Bắc sáng ngời qua các tổ chức, các quy mô lập quốc vô cùng tốt đẹp dưới đời Hồng Đức, nên con cháu Nguyễn Hoàng bắt đầu rập theo đúng khuôn mẫu của miền Bắc trong các việc cai trị, đặt thuế, khai khẩn, học hành, thi cử, nhưng nhiều khi Nam Hà cũng phải đối phó với những nhu cầu mới, khác hẳn với Bắc Hà.
1 – Thuế Khóa
Về việc lập sổ thuế, định các ngạch thuế, năm 1632, Sãi Vương đã áp dụng phương pháp Bắc Hà (của Lê Thánh Tông – 1465) cho đến bây giờ còn được thi hành ở miền Bắc, nghĩa là cứ mỗi sáu năm lại có một cuộc kiểm tra lớn, ba năm có một cuộc kiểm tra nhỏ. Dân chúng thì chia ra làm 8 hạng (Bắc chỉ có 6 hạng).
Để đánh thuế ruộng cho sát với thực tế thì sau vụ gặt chính (vụ mùa) quan đến từng địa phương khám rồi mới định hạng ruộng nào mới phải nộp bao nhiêu thuế.
Thuế hoa màu căn cứ vào diện tích của điền thổ và những thứ màu mỡ nào (ngô khoai, đậu…) đã được trồng trọt, cùng với giá trị của ruộng đất nữa.
Thuế nộp bằng thực chất (tức là thóc gạo hay ngô khoai…) hoặc bằng tiền bạc.
Đời chúa Hiền đặt ra một Ty Khuyến Nông để giải quyết vấn đề khẩn hoang và cũng để phân hạng các đất ruộng đã cày cấy, trồng trọt.
Nhiều dinh điền hay đồn điền (do quân nhân khẩn trưng) có từ thế kỷ thứ XV do các vua chúa miền Bắc chiếm lược của Chàm nay nằm trong khu vực của họ Nguyễn được đem cấp phát cho các quan lại có công lao nhiều nhất để làm thực ấp.
Ngoài việc điền thổ chia ra làm ba hạng, chúa Nguyễn còn lập ra một thứ gọi là thu điền và khô thổ nghĩa là loại ruộng đất xấu nhất. Loại điền thổ này được đặt ra để có phần công bình hơn vì liệt vào đệ tam đẳng điền vẫn là điều oan uổng cho dân.
Công điền thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế, còn tư điền là ruộng khẩn hoang được cho làm của tư.
Thuế Đinh – Chúa Sãi lập ra 8 hạng thuế đinh đánh vào cho dân chúng và ngoại kiều gọi là thuế tỷ lệ nộp bằng tiền. Giá biểu kể từ hai quan đến năm tiền. Ngoài ra còn nhiều thuế linh tinh khác như thuế gia súc, thuế cũng giỗ, thuế chuyển vận thóc lúa (ắt hẳn các quan thâu tại chỗ rồi tải về kho, đáng lẽ dân phải mang đến nộp tại các tỉnh chăng).
Thuế mỏ và thương chính – Tại Thuận Hóa và Quảng Nam có mỏ vàng, Quảng Ngãi có mỏ bạc, Bố Chính có mỏ sắt. Việc khai khẩn các mỏ này đã đem lại cho chúa một số thuế lớn.
Tàu bè ngoại quốc qua lại ở các cửa bể phải chịu thuế nhập cảng và xuất cảng. Tỉ dụ tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông tới phải nộp 3.000 quan, lúc trở ra phải nộp 1/10. Tàu ở Ma Cao (của Bồ Đào Nha) và Nhật Bản nộp 4.000 quân, về 400 quan. Tàu Tiêm La ở Lã Tống đến có lẽ mua bán kém hơn nên chỉ phải nộp 2.000 quan và 200 quan. Tàu các nước Tây phương phải nộp gấp đôi tàu Ma Cao và Nhật Bản (8.000 quan và 800 quan). Số thuế này chia ra làm 10 thành, nộp kho 6 thành,c òn bao nhiêu cho các quan lại và binh lính của ty Thương Chính.
2 – Ngân Quỹ Của Nam Hà
Năm Quý Dậu (1753), đời Vũ Vương, ngân quỹ được kiểm điểm để xét việc chi thu thì thấy có năm được hơn 338.100 quan tiền mà chi ra lại nhiều hơn (364.400 quan). Có năm thu trên 423.300 quan, phát ra 369.400 quan. Vàng thu được 830 lạng – Bạc thu được 240 lạng, có năm thu được 390 lạng, đó là về giáp ngân còn dung ngân thì được 2.400 lạng, có năm chỉ được 1.800 lạng; thứ kế ngân có năm được 10.100 đồng, có khi ít hơn được 400 đồng, lại có năm chẳng được đồng nào.
3 – Binh Chế
Binh có hai loại đầu, cũng như ngoài Bắc được gọi đi quân dịch; những trai tráng khỏe mạnh thì sung thẳng vào quân ngũ và một số được gọi dần có tính cách trừ bị. VIệc binh bị đối với các chúa miền Nam là một việc quan trọng nhất, gồm những đơn vị dưới đây:
- Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội, có từ 30 đến 50 người cùng làng hay thuộc làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm Thuyền do một Đội trưởng hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội thường có tới từ 6 đến 10 thuyền, có cơ đặc biệt gồm có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600 người, do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy. Đời bấy giờ có 5 cơ: Trung cơ, Tả cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ.
- Dinh gồm có một số quân ngang với cơ do một Trưởng dinh điều kiển. Dưới quyền Trưởng dinh có các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp quân số của các đơn vị trong binh đội Nam Hà hay thay đổi về quân số, nghĩa là quân số khi thăng khi giảm không nhất định).
Số quân của miền Nam bấy giờ có độ 30.000 người.
Năm Tân Mùi (1631), chúa Sãi mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa và sở đúc súng đại bác (Trên đây đã nói có người Pháp lai Bồ Đào Nha là Jean de la Croix đã giúp chúa Sãi về việc này và cơ sở đúc súng gọi là phường Đúc ở Thuận Hóa ngày nay).
4 – Địa Hạt Hành Chính
Vào giữa thế kỷ XVIII, sông Gianh đã thành đường phân giới cho hai miền Nam – Bắc. Họ Nguyễn chỉ còn có thể mở cương vực về phương Nam.
Thời chiến tranh với Trịnh năm 1634, Nam Hà mới có 4 dinh Quảng Bình dinh, Chính dinh gồm có Thừa Thiên Quảng Trị vùng Nam và vùng Trung ương. Quảng Nam dinh và Trấn Biên dinh (là tỉnh Phú Yên ngày nay).
Năm Giáp Tý (1744), Vũ Vương xưng vương hiệu, đổi phủ ra điện và chia Nam Hà ra 12 dinh.
1) Chính dinh (Phú Xuân). 2) Cựu dinh (Ái Tử) Quảng Trị. 3) Quảng Bình dinh. 4) Vũ Xá dinh. 5) Bố Chính dinh. 6)Quảng Nam dinh. 7) Phú Yên dinh. 8) Bình Khang dinh. 9) Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm Thành). 10) Trấn Biên dinh. 11) Phiên Trấn dinh. 12) Long Hồ dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
Cầm đầu mỗi dinh là một võ quan với chức vụ trấn thủ để coi cả hành chính lẫn quân sự. Phụ tá có Cai bộ là viên quan coi về Ngân khố và một Ký lục tức là một phán quan. Còn phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thì thuộc về Quảng Nam. Mỗi phủ có Tuần phủ và quan Khám lý trông nom mọi việc. Đất Hà tiên thì gọi là Trấn có quan Đề Đốc cai trị.
Dinh đầu tiên của họ Nguyễn gọi là Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương, gần tỉnh lỵ Quảng Trị. 13 năm sau (1570), Nguyễn Hoàng dời qua làng Trà Bát cũng cùng huyện ấy, tức là Cát dinh. Đến năm Bính Dần (1626), Chúa Sãi dời vào Phúc An thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên để xa chiến cuộc và đổi dinh ra phủ.
10 năm sau, chúa Thượng lại dời phủ vào làng Kim Long (huyện Hưng Trà, tỉnh Thừa Thiên). Năm Đinh Mão (1687), chúa Nguyễn Phúc Trân lập Chính dinh ở làng Phú Xuân. Chỗ phủ cũ làm nhà Thái Tông miếu thờ chúa Hiền.
5 – Quan Chế
Ở Chính dinh là chỗ Thủ phủ của vua chúa Nguyễn có đặt ra ba ty để giúp mọi việc chính trị:
1) Xá sai ty giữ việc từ tụng, văn án có quan Đô tri và Ký lục đứng đầu.
2) Tướng thần lại ty giữ việc thâu thuế, phát lương thực cho các đạo binh của Chính dinh, có quan nhà úy phụ trách.
Mỗi ty lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các Lại ty để điều hành mọi việc.
Còn ở các dinh khác, có nơi chỉ đặt Lệnh sử ty kiêm cả Xá sai ty và Tướng thần lại ty, giải quyết mọi vấn đề quân nhân chính, thuế khóa, tứ tụng, dinh điền, sổ sách… Nơi nào quan trọng thì được sử dụng nhiều nhân viên.
Cấp hành chính dưới là các phủ, huyện, có Tri phủ, Tri huyện và các Đề lại, Thông lại. Ngoài ra có Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc cúng tế ở địa phương.
Đến đời chúa Thượng (Nguyễn Phúc Lan 1635 – 1648), có thêm chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu gọi là tứ trụ tức là bốn đại thần trong triều.
Xin nhắc võ quan trên các cấp chưởng dinh, Chưởng cơ, Cai cơ, Cai đội là các cấp người thường được giữ còn những địa vị quan trọng hơn thì do các anh em và thân thuộc của nhà chúa giữ, tỉ dụ chức Nguyên soái, Đô đốc, Trấn thủ…
Quan lại phục vụ ở kinh đô và các dinh đều được tuyển dụng bằng khoa cử, tuy nhiên một số đã theo chúa Nguyễn Hoàng từ 1558 và năm 1600 (khi Hoàng ra Bắc chuyến sau và chuyến cuối cùng khi trở về có được một số người theo). Từ 1632, chúa Sãi mở khoa thi để lấy người vào các chức vụ Tri phủ, Huấn đạo, Lễ sinh.
Trong chương trình khoa cử về đời chúa Hiền có một sáng kiến; năm 1675 chúa mở thêm một kỳ vấn đáp, trước kia chỉ có thi viết mà thôi. Với kỳ vấn đáp, các khóa sinh được hỏi về nhiệm vụ của quân nhân và công dân đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê và chúa Trịnh[1]. Hồi đó, bảy người được tuyển dụng vào 7 ty tư pháp.
Ngoài những kỳ thi bất thường trên đây để lấy nhân tài, còn những khoa thì cứ 6 năm một lần mở ra tại các tỉnh vào đầu mùa Xuân.
Ai đỗ thì được miễn các tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ thi ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi mua Thu thuộc bực cao hơn.
Năm Đinh Hợi (1647) chúa Nguyễn lập ra hai bực thi: thi Chính đồ và thi Hoa văn.
Chương trình thi Chính đồ gồm có: kỳ đệ nhất thi tứ lục – kỳ đệ nhị thi thơ phú – kỳ đệ tam thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo, quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo. Khóa sinh trúng tuyển chia làm ba hạng: hạng thứ nhất được gọi là Giám sinh được bổ làm Tri phủ, Tri huyện – hạng thứ nhì gọi là Sinh đồ được bổ làm Huấn đạo; hạng thứ ba cũng gọi là Sinh đồ được bổ làm Lễ sinh hoặc làm Nhiêu học. Thi Hoa văn cũng mất ba ngày. Mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài thơ. Ai đậu được bổ làm Tam ty (phủ chúa). Năm Ất Hợi (1695), chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn chức và thi Tam ty. Thi Văn chức có tứ lục, thơ phúc, văn sách. Thi Xá sai ty thì khảo về binh vụ, quân lương, từ tụng. Thi tướng thần lại ty và Lệnh sử ty thì chỉ có một bài thơ thôi.
Năm Canh Thân (1740), dưới đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) quyền lợi của khóa sinh được định như sau: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và đệ tam được miễn sai vĩnh viễn; ai đậu kỳ đệ tứ gọi là Hương cống, sẽ bổ Tri phủ, Tri huyện.
Xét chương trình thi cử của Nam Hà bây giờ, ta thấy sơ lược quá so sánh với các tiền triều (Trần và Hậu Lê); sự kiện này cho phép ta nghĩ rằng các nhà cầm quyền Nam Hà có lẽ chỉ biết ngày đêm lo việc chiến tranh, nhân dân cũng bị lôi cuốn theo trong công chuyện này nên tuy cuộc đình chiến luôn một thế kỷ mà việc văn học, khoa cử vẫn chưa tiến được nhiều.
6 – Việc Cầu Phong Với Tàu
Năm 1702, Minh Vương đã thấy giang sơn mình đã mạnh, đủ sức đối thủ với miền Bắc không cần e dè như xưa là phải ẩn núp sau cái chiêu bài phù Lê, đã cử một sứ bộ mang đồ tiến cống và một tờ biểu sang Quảng Đông xin cầu phong với Tàu, xin cam kết xưng thần nạp cống đều đặn.
Triều đình nhà Thanh tuy vẫn mê vàng bạc và các quý vật của nước Việt nhưng cũng không dám quá trâng tráo, vừa bắt tay với vua Lê lại cười duyên với họ Nguyễn, do đó việc cầu phong cũng hỏng và hậu lễ cũng trả về, căn cứ vào lẽ không thể thừa nhận hai chính quyền trên một quốc gia.
Năm 1756, Vũ Vương cũng xin cầu phong nhưng không thành.
7 – Chiếm Đất Của Chiêm Thành
Năm Tân Hợi (1611) Nguyễn Hoàng qua đời, họ Nguyễn có đem quân đánh vào nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên, chia ra làm hai huyện Đồng Xuân và Tuyên Hóa.
Việc đánh Chiêm không vất vả, gian lao như ngày xưa vì từ hồi vua Lê Thánh Tông mang đại quân vào đất Chiêm đến bây giờ, Chiêm bị kiệt quệ không sao ngóc đầu lên được. Đến khi họ Nguyễn vào hùng cứ phương Nam. Chiêm Thành vẫn không ra khỏi tình trạng suy bại.
Năm 1617, họ Nguyễn lập Trấn Biên dinh cũng là đất lấy của xứ Chiêm.
Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Thấm đánh phá phủ Phú Yên bị tướng Hùng Lộc dưới đời chúa Hiền đánh bại phải dâng thư xin hàng. Lại thêm một dịp cho người Việt mở rộng thêm cương thổ: chúa Hiền lấy đất của Chiêm lập ra Thái Ninh phủ sau đổi ra Diên Khánh (tức là Khánh Hòa ngày nay) đặt dinh Thái Khang giao cho Hùng Lộc làm Trấn thủ, còn từ Phan Lang trở vào vẫn để cho Chiêm làm chủ.
Năm 1693, chúa Chiêm là Bà Tranh bỏ việc tiến cống bị Minh Vương (Nguyễn Phúc Chu) sai tổng binh Nguyễn Phúc Kính (con Nguyễn Hữu Dật) đem quân hỏi tội bắt được với cận thần là Kế Bà Tử và Tả Trà Viên cùng quyến thuộc là Ba Ân đem về Phú Xuân. Đất đai của Chiêm còn lại bị chúa Nguyễn đổi ra làm Thuận Thành phủ. Tả Trà Viên và Kế Bà Tử được lãnh chức Khám Lý và ba người con của Bà Ân được làm Đề Đốc giữ Thuận phủ. Chúa Nguyễn lại bắt dân Chiêm thay y phục, từ đó ăn mặc như người Việt.
Năm sau (1694), Thuận phủ lại phải đổi ra làm Thuận Thành trấn, và Kế Bà Tử được làm Tả Đô đốc để trị dân và thâu thuế cho chúa Nguyễn[2].
Năm Đinh Sửu (1697), chúa Nguyễn đặt ra phủ Bình Thuận, lấy Phan Rí và Phan Rang là huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Thế là đất Chiêm từ đấy mất hẳn trên địa đồ, sau khi các đại thần và thân nhân của Chiêm đã thành những công chức của nước Việt và hoàng gia Chiêm từ đó không còn uy tín nữa.
Chú thích:
[1] Đây là một thứ trắc nghiệm để xét lập trường chính trị của khóa sinh.
[2] Trong dịp này, dân Chiêm được một người Tàu cầm đầu, nổi lên chống lại cuộc đô hộ của người Việt, nhưng cuộc khởi nghĩa của họ thất bại nên cuối năm 1694, chúa Nguyễn đặt Kế Bà Tử lên làm Đô Đốc để giữa cả quyền hành chính và quân sự. Đổi Phủ ra Trấn, chúa Nguyễn có ý thiết lập đất này ra một đạo quan binh để áp dụng một chính sách cứng rắn, bởi dân Chiêm vốn không bao giờ chịu phục hẳn.