Chương XVI NHỮNG VỤ PHIẾN LOẠN DƯỚI ĐỜI CHÚA TRỊNH
Loạn dân quê miền Bắc
- Loạn quí tộc nhà Hậu Lê
1 – Từ Vụ Loạn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ Đến Hữu Cầu
Từ 1527 đến 1638, ta không thấy sử chép có vụ phiến loạn nào đã xay ra từ Mạc khởi nghiệp đến đời vua Lê Thần Tông.
Nhưng đến đời chúa Uy Nam Vương Trịnh Giang thì nhiều việc giặc dã liên tiếp bùng nổ ở nhiều nơi trong nước. Lý do là Trịnh Giang thất chánh đã giết vua lại còn tàn sát các đại thần như Nguyễn Công Hãng, Lê Anh Tuấn… và ăn chơi xa xỉ, dâm đãng khiến công quỹ thiếu hụt, sưu thuế nặng nề.
Ở các trấn bấy giờ có Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ nổi lên tại làng Ninh Xá, huyện Đường An (Hải Dương); Hoàng Công Chất, Võ Đình Dung ở đất Sơn Nam; ở Sơn Tây có Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Diên, Tế, Bồng; tại vùng duyên hải (Bắc Việt) có Nguyễn Hữu Cầu, và ở Thanh Nghệ có sự hoạt động của Lê Duy Mật (ở Thăng Long chạy vào).
Đây là những tổ chức phiến loạn lớn, còn các đám cưới hay giặc cỏ thì nhiều không kể xiết. Các tổ chức phiến loạn lớn đều tuyên bố “Phù Lê diệt Trịnh”. Toán đông có tới hàng vạn người theo, toán nhỏ cũng tới hàng ngàn đi cướp phá thành thị, thôn quê, quan quân địa phương dẹp không nổi[1].
Tình thế trong nước rối ren như vậy mà Trịnh Giang vẫn cứ dâm dật vô độ, đào hầm làm nhà ở dưới đất để tránh sấm sét, chính sự giao cho các hoạn quan là bọn Hoàng Công Thụ tha hồ làm các điều xằng bậy, nhân dân ta thán khôn xiết.
Thấy thế nguy, một số đại thần của phủ Liêu là Nguyễn Quí Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ Công Tế họp nhau gây cuộc đảo chính, truất được Trịnh Giang rồi tôn em chúa là Trịnh Doanh lên thay. Sau khi nội tình phủ Liêu đã ổn định, một số tướng lãnh có tài trị loạn được cử đi đánh dẹp. Đó là các ông Hoàng Nghĩa Bá, Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng, Nguyễn Phan, Bùi Thế Đạt. Chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm thân làm Tổng chỉ huy đoàn quân bình định đời bấy giờ. Thế quân phiến loạn đang lên rất mạnh.
Vụ khởi loạn xảy ra vào năm Kỷ Mùi (1739) tại Hải Dương sau lan tràn ra vùng Từ Sơn, Nam Sách và Hồng Châu (ba tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên), lĩnh tụ là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển, Vũ Trác Oanh và Nguyễn Diên.
Cừ chiếm đất Đỗ Lâm thuộc Gia Phúc.
Tuyển giữ Phao Sơn thuộc Chí Linh (Hải Dương) cũng xây thành đắp lũy và liên lạc với nhau chống quân triều. Binh lính của họ có tới mấy vạn người, quan quân đánh không nổi, nhiều người bị bắt, bị giết.
Năm Canh Thân (1730) bọn Vũ Đình Dung, Đoàn Danh Chấn, Tú Cao ở làng Nhân Già thuộc trấn Sơn Nam, cũng vùa theo phong trào, hợp dân chúng giết được quan Đốc Lĩnh là Hoàng Kim Qua, thế lực rất mạnh.
Năm Tân Sửu (1741) lực lượng của bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ yếu dần. Quan Thống Lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá được đồn Phao Sơn. Tuyển bỏ chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh biệt tích, còn Cừ chạy ngược lên Lạng Sơn được ít tháng lại quay xuống Đông Triều nhưng cạn lương thực phải rút vào Ngọa Vân sơn rồi bị quan Hiệp Đồng Phạm Đình Trọng bắt được đóng cũi đem về Kinh trị tội.
Nhưng kiệt hiệt nhất trong đám lĩnh tụ loạn quân đời bấy giờ có Nguyễn Hữu Cầu cũng người tỉnh Hải Dương trước có theo Nguyễn Cừ làm tùy tướng được mệnh danh là Quận He.
Cầu có sức khỏe hơn người, lắm mưu cơ, đảm lược, xuất quỷ nhập thần. Nhiều khi bị bao vây nhiều vòng, chỉ một mình một ngựa Cầu Phá nổi trùng vi. Binh đội tan rã, chỉ mấy hôm sau Cầu lại kêu gọi được hàng vạn người theo rất dễ dàng. Nguyên do Cầu không làm loạn vì mình nên cướp được thóc gạo, của cải bao nhiêu đem chia hết cho dân nghèo, nhờ vậy quân của Cầu đi đến đâu cũng được dân ủng hộ, quân lương muốn lấy bao nhiêu cũng có. Nói cho phải Cầu cũng thuộc loại thảo dã anh hùng, có hoài bão phù nguy cứu khổ như ai.
Đối thủ của Hữu Cầu là đám vua chúa mục nát, tham quan nhũng lại, các gian thương, các nhà trọc phú, các cường hào ác bá.
Khi chủ tướng Nguyễn Cừ bị bắt, Cầu mang dư đảng về Vân Đồn, giữ núi Đồ Sơn, một thời vô cùng oanh liệt, nổi tiếng là hùm thiêng vùng duyên hải.
Năm Quí Hợi (1743) Cầu giết được Thủy Đạo Đốc Binh là Trịnh bảng, tự xưng là Đông Đạo Thống Quốc Bảo Dân, Đại Tướng Quân.
Với hai chữ “Bảo dân”, Hữu Cầu đã nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến đấu và thủ đoạn quỷ quyệt khôn lường của Hữu Cầu, đã từng làm binh tướng của triều đình nhiều phen thất điên bát đảo, riêng có Phạm Đình Trọng mới đủ tài đối chọi với Cầu.
Được cử đi đánh Hữu Cầu trước tiên bấy giờ là Hoàng Ngũ Phúc, một đại tướng của chúa Trịnh. Quân triều vây quân phiến loạn ở núi Đồ Sơn. Hữu Cầu phá được chạyvề Kinh Bắc (Bắc Ninh). Tại đây quan Trấn Thủ Trần Đình Cầm và quan Đốc Đồn Võ Phương Đề chống không nổi bỏ cả ấn tín thoát thân.
Kinh Bắc mất, Thị Cầu cũng bị hạ, tin này chấn động đến Thăng Long. Hoàng Ngũ Phúc và Trương Khuông quay binh trở lại thâu được Kinh Bắc nhưng thế quân của Hữu Cầu đang mạnh. Trương Khuông chống không nổi ở làng Ngọc Lâm (huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang), thống lĩnh Đinh Văn Giai cũng bại ở Xương Giang (cũng thuộc Bắc Giang), nhờ vậy loạn quân lại trở về phong tỏa Thị Cầu. Chiến trường lần này là Xương Giang. Chúa Trịnh Doanh cử Phạm Đình Trọng đến hợp sức với Hoàng Ngũ Phúc. Hữu Cầu thua trận mất một tùy tướng là Thông và nhiều quân nhu, chiến mã. Đến năm Bính Dần (1749) ngôi sao của Hữu Cầu bắt đầu lu mờ nên Cầu cho người ngầm mang vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và quan Nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để hàng. Chúa Trịnh Doanh bằng lòng phong cho Cầu làm Hướng Nghĩa Hầu, cử quan Thiêm Tri là Nguyễn Phi Sảng đem Dụ ra cho Phạm Đình Trọng bảo bãi binh.
Trọng với Cầu có cái thù không đội trời chung vì Cầu đã đào mả mẹ Trọng đổ xuống sông nên Trọng cương quyết theo đuổi Cầu đến cùng.
Trọng trả lời Nguyễn Phi Sảng: “Kẻ làm tướng ở ngoài biên mới hiểu sự thế của biên cương, mệnh vua có khi không thể theo được. Ông được lệnh vua thì cứ đi gọi giặc về hàng, còn tôi có phận sự đánh giặc, tôi cứ đánh”.
Nói rồi Trọng cất quân đi ngay, hăng hái hơn bao giờ hết. Bọn Đỗ Thế Giai thấy Trọng không tuân lệnh chúa giận lắm nhân có việc Trọng cho người tuyển mộ tân binh ở các huyện Tứ Kỳ, Thanh Hóa. Vĩnh Lại và Thượng Hồng đặt làm 4 cơ, giao cho hai thủ hạ cai quản liền dèm pha với Chúa. Chúa không nghe vì tin sự trung thành của Trọng, nên gửi Trọng một bài thơ để Trọng yên lòng.
Thấy kế hoạch của mình không thành, Hữu Cầu đành tiếp tục chiến đấu từ miền Đông qua miền Nam. Một hôm Hữu Cầu bị đuổi đến Cẩm Giang (Hải Dương) đem quân lén về đánh úp Thăng Long nhân lúc bất ngờ.
Quân cầu tới bến Bồ Đề thì trời hửng sáng. Trịnh Doanh đem quân ra bến Nam Tân chống thì quân của Phạm Đình Trọng cũng về kịp. Quân Cầu bị hai phía đánh dồn lại, thua chạy. Từ khi thất trận ở Bồ Đề, quân lực của Hữu Cầu suy giảm nhiều. Cầu phải kết hợp với đảng Hoàng Công Chất đi cướp phá vùng Thần Khê, Thanh Quan.
Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đuổi theo, Chất chạy vòa Thanh Hóa, Cầu vào Nghệ An. Tại đây Cầu lại nhập với một lĩnh tụ khác là Diên ở Hương Lãm (huyện Nam Đường, nay là Nam Đàn) vẫn bị quan quân theo ráo riết đến Hoàng Mai thì Cầu hết thời (Hoàng Mai thuộc Thanh Hóa), bị bắt đóng giải về nộp cho chúa Trịnh (vào năm Cảnh Hưng thứ 12).
Vụ Loạn Nguyễn Danh Phương
Phương cũng xuất đầu lộ diện cùng thời Hữu Cầu nghĩa là vào năm 1740, bắt đầu vào làm đàn em của hai loạn tướng đời bấy giờ là Tế và Bổng ở Sơn Tây. Tế và Bổng không may bị Võ Tá Lý, lĩnh chức Chinh Tây đại tướng quân, bắt được ở huyện An Lạc thuộc phủ Vĩnh Tường (Vĩnh Yên).
Địa phương này vừa có rừng núi vừa có đồng bằng, đủ thế tiến thoái và rất lợi về chiến lược, Danh Phương đóng đại bản doanh ở trên núi Ngọc Bội (giáp huyện Bình Xuyên và Tam Dương) lập thêm hai đồn, một ở Hương Cang gọi là Trung Đồn, một ở Ức Ký tự xưng là Thuận Thiên Khải Vận Đại Nhân.
Danh Phương dựng cung điện, đặt quan chức, đánh thuế má lên tới tỉnh Tuyên Quang, thanh thế một thời vang dậy khắp vùng Trung du đất Bắc luôn 10 năm ròng (Phương còn có một tục danh nữa là Quận Hẻo). Trước cái tầm quan trọng của vụ loạn này, chúa Trịnh Doanh phải thân mang đại quân đi đánh. Năm Canh Ngọ (1750), quân của chúa tiến theo đường Thái Nguyên phá được ngoại đồn của Phương (Ức Ký) rồi tấn công vào Trung đồn (Hương Canh). Loạn quân bắn như mưa để cản trở quân triều, Chúa Trịnh giận lắm, rút gươm trao cho Nguyễn Phan là một tướng chỉ huy bên cạnh: “Phải phá cho được đồn này nếu không sẽ chiếu theo quân luật trị tội”.
Nguyễn Phan cởi chiến bào, xuống ngựa đi bộ lấy lời khảng khái khích động binh sĩ và xông vào trận. Binh sĩ cảm động ùa theo hết rất là hăng hái. Trận đánh trở nên vô cùng mãnh liệt, chẳng mấy lúc đồn Hương Canh bị hạ.
Danh Phương lui vào hậu tuyến giữ Ngọc Bội. Trịnh Doanh và Nguyễn Phan bỏ quân tiến theo, thế quân triều mạnh như nước lũ, quân của Danh Phương chống không nổi, bỏ chạy. Danh Phương chạy đến núi Độc Tôn, làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch (Vĩnh Yên) thì bị bắt. Trịnh Doanh đem quân trở về Thăng Long, tới nửa đường (làng Xuân Hy, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên) gặp quân của Phạm Đình Trọng giải Hữu Cầu tới.
Chúa mở tiệc khao quân ở đây. Trước khi bị đưa về Kinh để chịu tử hình, Phương phải dâng rượu, Cầu phải thổi kèn cho yến tiệc của binh tướng triều đình thêm phần vui vẻ.
Thật là:
“Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn”.
Vụ Loạn Hoàng Công Chất
Họ Hoàng nổi lên cùng một thời với các lĩnh tụ phiến loạn là Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, và chiến đấu được lâu dài hơn các bạn đồng hội, đồng thuyền. Hoàng khởi sự từ thời chúa Trịnh Giang đóng vai chúa tể miền Bắc tức là từ năm 1740 đến năm Kỷ Sửu (1768) mới hết. Trường hoạt động buổi đầu của họ Hoàng là đất Sơn Nam, tung hành từ phủ Khoái châu sang đến Xuân Trường (Hưng Yên và Nam Định), năm Ất Sửu (1745) quân đội của Hoàng cũng rất mạnh, phá được lực lượng của Trấn thủ Sơn Nam là Hoàng Công Kỳ, giết được viên tướng này. Binh sĩ của chúa Trịnh cũng phải huy động rất nhiều và do các tướng lĩnh có nhiều thành tích điều khiển đánh dẹp rất nhọc nhằn và mãi cũng không diệt được hẳn.
Chấn lưu động qua nhiều nơi, hợp với một lĩnh tụ khác là Thành khi thì cướp phá Thanh Hóa, khi thì ra Hưng Hóa. Năm Tân Tị (1760), Thành bị bắt. Chất yếu thế chạy lên đóng tại động Mạnh Thiên (Bắc Hưng Hóa) mượn thế rừng núi, trấn giữ gần đó (có lẽ là Đồn Vàng, Yên Lập, Cẩm Khê, thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay). Vị trí chiến lược vùng này rất thuận lợi vì Hưng Hóa nằm bên cạnh sông Thao, gần hai đường thủy bộ, khi mạnh thì tiến xuống được Việt Trì sát vùng Thượng du hoặc xuống Hòa Bình vào Thanh Hóa. Khi yếu thì chạy ngược lên Yên Bái hay qua Tuyên Quang là vùng núi xứ Bắc. Có hồi quân của Hoàng cũng đông tới hàng vạn người.
Mãi tới năm Kỷ Sửu (1769), Thống lĩnh đại đoàn Nguyễn Thục được lệnh chúa Trịnh Sâm mang đại quân từ Sơn Tây đánh vào đại bản doanh (Mạnh Thiên) của Hoàng rất ráo riết, nhưng quân triều vào tới nơi, Hoàng đã bị bệnh mà chết. Con Hoàng là Hoàng Công Toản kháng cự không nổi, chạy ngược lên Vân Nam biệt tích, từ bấy giờ còn dư đảng của Hoàng cũng tan ra hết.
2 – Loạn Quý Tộc Nhà Hậu Lê
Dự vào cuộc phiến động chung năm Mậu Ngọ (1738), có các Hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quí, Lê Duy Trúc (Lê Duy Quí và Lê Duy Mật là con vua Lê Dụ Tông. Lê Duy Trúc là con vua Lê Hy Tông). Ba người này âm mưu giết họ Trịnh nhưng chẳng may công việc không thành, phải bỏ chạy vào Thanh Hóa. Sau Duy Quí và Duy Trúc phải bịnh chết.
Sử gia C.B. Maybon nói khi cuộc đảo chính này bị bại lộ, Trúc và Quí bị họ Trịnh bắt được và giết chết. Riêng Lê Duy Mật chạy thoát vào Thanh Hóa với một số đông đồng đảng.
Duy Mật chạy vào Thanh Hóa. Tại đây đã có những trận đánh kịch liệt vào những tháng đầu năm Canh Thân (1740), Lê Duy Mật có bắt được một tướng của Trịnh là Phạm Công Thế. Duy Mật hỏi: “Ông là người khoa giáp sao lại theo quân nghịch (chỉ họ Trịnh)?” Công Thế cười đáp: “Lâu nay danh phận không rõ thì làm sao phân được thuận nghịch!”. Nói xong, Công Thế vươn cổ chịu chém. Xem câu trả lời của Công`Thế là một trí thức thử thời thì đủ rõ Bắc hà đã quá ngán cả vua lẫn chúa, danh nghĩa của triều đình đã bị nhân dân coi rẻ; từ người bình dân đến kẻ trí thức chỉ biết mạnh đâu âu đấy và mạnh ai người ấy làm, lẽ thuận nghịch mờ tối như đêm ba mươi tháng chạp.
Năm ấy, quân đội của Duy Mật vùng vẫy từ đất Thanh ra Hưng Hóa, lại được sự cộng tác của một nhóm loạn quân do tên Tương chỉ huy giữ đồn Ngọc Lâu (thuộc huyện Thạch Thành) sau đồn này bị hạ, Tương tử trận. Duy Mật không cầm cự nổi ở cùng Thanh phải rút vào Nghệ An rồi sang Trấn Ninh, chiếm đóng núi Trình Quang sửa hào, đắp lũy làm kế cố thủ. Cũng có nhiều khi quân của Lê Duy Mật kéo ra đánh phá ngoài Sơn Nam[2] khiến Trịnh cũng không yên tâm. Năm 1753, Trịnh Doanh có cho người vào Thuận Hóa yêu cầu Võ vương cho quân Trịnh qua đường Cam Lộ vào đánh Lê Duy Mật. Võ vương không chịu (có ý ngờ quân Trịnh lợi dụng để đánh quân mình chăng). Nhiều lần quân Trịnh cũng bắt được quan tướng của Duy Mật, nhưng vẫn không nắm được ông Hoàng thất thế này, và tuy Duy Mật không mạnh lắm đối với thời cuộc những vẫn như cái dằm trong xương tủy của họ Trịnh.
Về phần Duy Mật năm Giáp Tý (1764), cũng có cử người tới gặp Vũ Vương yêu cầu giúp đỡ. Vũ Vương cũng không hứng chịu vì thấy cần phải giữ thái độ trung lập cho khỏi gây hấn với chính quyền miền Bắc.
Năm Đinh Hợi (1767), Trinh Doanh qua đời, Thế tử Trịnh Sâm lên thay thế. Duy Mật thấy quân lực của mình đã khá, nhân cơ hội Bắc hà đổi chủ, liền Bắc tiến đánh vào đất Hương Sơn và Thanh Chương, thấy không lợi lại rút về Trấn Ninh. Trịnh Sâm cho người đem thư vào dụ nhưng không được nên mới quyết tâm đánh Duy Mật cho kỳ được. Năm Kỷ Sửu (1769), ba đại tướng của Trịnh là Bùi Thế Đạt làm thống lĩnh đất Nghệ An, Nguyễn Phan làm Chính đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thế làm Đốc binh đất Hưng Hóa, được cất ba đạo quân vào đánh Duy Mật.
Bùi Thế Đạt và Nguyễn Phan cho quân phong tỏa núi Trình Quang. Duy Mật thấy thế cô không đủ sức cự địch liền cố thủ, nhưng con rể của Duy Mật làm phản mở cửa lũy quân Trịnh vào. Duy Mật biết không thoát chết liền cùng vợ con đứng lên một đống thuốc nổ tự đốt mà chết.
Chú thích:
[1] Có điều đáng chú ý là dân nổi loạn đời Lê-Mạc đi đánh phá các nơi chỉ có ít giáo, mác, gậy gộc và vác cả cầy bừa đi chiến đấu. Giáo sư J. Chesneaus ví các vụ loạn này giống phong trào Vendée đã ghi trong lịch sử nước Pháp năm 1793.
[2] Sơn Nam chia ra hai khu: Sơn Nam hạ và Sơn Nam thượng. Các tỉnh miền Nam Trung Châu Bắc Việt gồm Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình…là Sơn Nam hạ. Sơn Nam thượng gồm các tỉnh miền trung du. Kinh đô Thăng Long đóng ở giữa.