← Quay lại trang sách

Chương XIX NHÀ TÂY SƠN (1778 – 1802)

Vua Thái Đức

- Vua Quang Trung

- Vua Cảnh Thịnh

1 – Tiểu Sử Của Nhà Tây Sơn

Năm 1772 Lịch sử Việt Nam ghi rằng có ba an hem họ Nguyễn: anh cả là Nhạc, người thứ hai là Lữ, thứ ba là Huệ xuất thân ở giới thương nhân thuở đó đã tổ chức cuộc Cách mạng quanh vùng Quy Nhơn và An Khê[1]. Chữ Tây Sơn chỉ rằng trong thời khởi thủy giẫy núi phía Tây đã là sào huyệt của anh em nhà họ Nguyễn.

Cuộc Cách mạng được toàn thể nhân dân hưởng ứng, nghĩa là có cả nông dân lẫn thương nhân, một số khách trú sinh sống từ lâu ở đây (theo tài liệu của các giáo sĩ và các nhà du hành Barrow đã đặt chân vào đất Tây Sơn năm 1793).

Gia đình của an hem Nguyễn Nhạc chuyên nghề bán cau là một thứ sản phẩm rất thông dụng ở khắp các thị trường trong nước.

Phong trào Tây Sơn, cứ lời thuật lại của giáo sĩ Diego de Jumilla đã bắt đầu hoạt động mạnh vào tahsng 4 năm 1773. Quân đội của Tây Sơn từ miền núi phóng xuống các thôn quê, vào các chợ búa giữa ban ngày. Họ có đủ gươm, giáo, sung, nỏ nhưng không hại tính mạng và tài sản của ai hết. Trái lại, họ tuyên ngôn làm cái việc công bằng, thẳng thắn, chỉ trừ khử bọn quant ham lại nhũng, những kẻ trọc phú lưu manh và trộm cướp. Họ lấy của người giàu phân phát cho kẻ nghèo, chỉ dành cho họ một phần nào thóc gạo mà thôi. Ai chống thì họ giết, biết điều thì thôi.

Một giáo sĩ Tây Ban Nha kể rằng họ đã tự xưng là những người theo mệnh trời để thi hành công lý và giải phóng nhân dân khỏi ách quan liêu phong kiến đúng như điều các nhà cách mạng xã hội chủ trương ngày nay.

Cũng như những cuộc khởi nghĩa của nông dân Châu Âu đời Trung Cổ, họ được giới nhà Chùa, Phật giáo và Lão giáo ủng hộ nhiệt liệt, chính Nguyễn Lữ cũng là một nhà sư trước đây và sau này Lữ được coi gần như một vị giáo chủ ở Nam Hà; ngoài ra các người Mọi, các sắc dân thiểu số, và theo sử gia Pétrus Ký, có cả vị vua cuối cùng của người Chàm cũng tiếp tay cho họ.

Rồi quân Tây Sơn đi đến đâu, thắng đến đó như trận cuồng phong lướt cỏ.

Sử ta có chép về lý lịch của an hem nhà Tây Sơn có đưa ra một số chi tiết như sau:

Ông tổ của ba anh em nhà họ Nguyễn thực ra là họ Hồ và cũng là ông tổ của Hồ quý Ly, con người đã cương quyết làm cuộc cách mạng quốc gia hết sức táo bạo dưới đời Trần về mọi phương diện mà Việt sử Tân Biên quyển hai đã nói đến.

Đến đời anh em Nguyễn Nhạc thì chi nhánh của bọn Nhạc đã lưu lạc vào tới huyện Phù Ly, nay đổi là Phù Cát thuộc tỉnh Bình Định (Xưa kia họ Hồ phát tích ở tỉnh Chiết Giang bên Tàu, tổ là Hồ Hưng Dật sang nước ta từ đời Ngũ Quý đến ở làng Bào Đột huyện Quỳnh Lưu, sau dời ra Thanh Hóa).

Sự phiêu lưu của gia đình các ông Nhạc, Lữ, Huệ, xảy ra từ đời Trịnh – Nguyễn phân tranh. Các ông cũng như nhiều đồng bào khác bị đưa vào ấp Tây Sơn[2], thôn Cửu An, thuộc phủ Hoài Nhơn, theo chương trình khẩn hoang các vùng đất mới chiếm của Chiêm Thành.

Thân sinh ra các ông là Hồ Phi Phúc, sau đổi sang ngụ ở ấp Kiện Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn.

Nguyễn Nhạc bấy giờ xuất thân chỉ là một biện lại tại Vân Đồn, hay cờ bạc rồi vì tiêu sạch tiền thuế đến lúc cùng đường phải trốn vào rừng và đi làm giặc.

Sử của Nguyễn triều chép như vậy có đáng tin chăng? Dầu sự kiện này có đúng chăng nữa thì ta cũng phải nghĩ rằng dưới một chính thể ung nhọt, vô trách nhiệm đến nỗi dân chúng đói rách chết nửa xứ thì người dân có nên có phản ứng này hay phản ứng khác không? Nếu anh em ông Nhạc tiêu tiền thuế vào cờ bạc hay dùng số tiền này vào việc dấy quân lật đổ đám vua quan mục nát thì những hành động đó cũng là những điều tất nhiên không thể tránh được. Chứng cớ là trước phong trào Tây Sơn tại Nam Hà cướp giặc dã nổi lên như ong rồi.

Chúng ta lại nên nhớ rằng gia thế của bọn ông Nhạc bấy giờ cũng phong túc và anh em ông hẳn là những tay hào hiệp, có nhiều uy tín tại địa phương mới phát động nổi một phong trào cách mạng.

Nguyễn Nhạc là con người can đảm và mưu trí nên việc hạ thành quy Nhơn để khởi thanh thế của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi giả bị nhân dân bắt đem nộp quan tỉnh lấy thưởng.

Tuần phủ ở đây là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật cho khiêng cũi vào thành, nhưng đến nửa đêm Nhạc tháo cũi chui ra mở cửa thành cho quân của mình xông vào đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp.

Thành Quy Nhơn lọt vào Tây Sơn, từ đấy anh em ông Nhạc, Huệ có một căn cứ để xuất phát đi các nơi khác. Trong số người Tàu tiếp tay, có hai lãnh tụ là Lý Tãi và Tập Đình cũng mộ quân theo.

Quân Tây Sơn đặt xong đại bản doanh ở đây, tổ chức binh đội có quy củ và trang bị đủ khí giới là lúc ngọn cờ cách mạng tiến ra Quảng Nam rồi chẳng bao lâu Quảng Nghĩa, Bình Thuận cũng mất nốt.

Ngay lúc đầu chúa Nguyễn bị quân Trịnh do tướng Hoàng Ngũ Phúc đuổi phải chạy vào Quảng Nam nương náu chưa được vào tháng ở Bến Ván; tại đây chúa lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm Đông Cung để lo việc khôi phục và phòng xa nếu mình bị rủi ro đã có người kế vị ngay cho kịp với thời cuộc.

Tây Sơn vẫn tiến lên, quân Bắc vẫn đi xuống, chúa Nguyễn bị kẹp giữa hai gọng kìm, trốn tránh vào Trà sơn, sau rốt phải cùng cháu là Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào gia Định.

Đông cung Nguyễn PhúcDương ở lại xứ Quảng, đóng đồn ở làng Câu Để thuộc huyện Hòa Vĩnh cũng không làm được gì đáng kể. Nhạc liền nghĩ ra kế hoạch lợi dụng danh nghĩa của ông Hoàng đang thất thế này để vơ vét thêm một số người trong các giới quân dân còn lại đang theo giúp Đông cung hoặc vẫn có cảm tình với dòng Chúa. Nhạc cho dụ Đông Cung Dương về Hội An bề ngoài để cùng chống quân Bắc.

Tại đây ít ngày sau Tây Sơn phải đương đầu với quân của Hoàng Ngũ Phúc khi đó đã vượt được qua đèo Hải Vân, đánh được đồn Trung Sơn và Câu Để.

Nhạc cho Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân sự, tự mình làm hậu tập. Binh sĩ của hai viên tướng Tàu này phần đông là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để trần ai nấy đều sử dụng một thanh phạng có vẻ rất lợi hại, dữ tợn.

Chiến trường bấy giờ là làng Cẩm Sa (thuộc Hoa Vinh).

Tiền đội của Trịnh đánh không nổi, Ngũ Phúc phải cử ngay Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh đánh áp lại hai bên, quân Tập Đình núng thế phải rút về bến Bản và Đông cung được đưa về Quy Nhơn trong khi chiến cuộc đang khai diễn.

Sau trận đắc thắng này, quân Trịnh vào đóng ở Quảng Nam.

2 – Tây Sơn Diệt Nguyễn Tại Nam Việt

Như ở trên ta đã thấu từ 1775, Việt Nam có thêm một lực lượng chính trị và quân sự mới: lực lượng Tây Sơn, một mầm non tuy chớm nở nhưng rất mạnh trong khi hai lực lượng cũ là Trịnh, Nguyễn đang đi tới chỗ suy tàn.

Lão tướng Hoàng Ngũ Phúc đã phải rỉ tai các tướng tá của mình để cùng thông cảm mối nguy ấy. Sau đó Ngũ Phúc được chúa Sâm gọi ra Bắc. Ông mất trên đường về. Bọn tùy tướng là Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Nguyễn Trọng Đăng, Phạm Ngô Cầu được ở lại chiếm đóng Thuận Hóa.

Tây Sơn và Trịnh hòa hoãn với nhau luôn hai năm và Trịnh chỉnh đón lại mọi cơ sở ở Thuận Quảng cho có sự đồng hóa với Bắc Hà.

Còn Tây Sơn, một bề xin phục tòng Bắc Hà và xin phụ trách ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên lại xin lĩnh cả việc truy kích Cựu Nguyễn[3] (con cháu Nguyễn Hoàng) đang lưu vong ở Gia Định, một bề đem Đông cung Dương về An Thái và Hà Tiên để nếu cần sẽ lợi dụng Đông cung làm bung sung hầu hiệu triệu thần dân của chúa Nguyễn cho dễ. Hơn thế nữa, Tây Sơn còn bí mật liên lạc với Thân vương Nguyễn Phúc Hiệp đang giữ trọng trách đương đầu với tình thế trong khi Duệ Tông đi trốn.

Hiệp lúc này có mặt ở Phú Yên. Nhạc gả con gái là Thọ Hương cho Đông cung và ép lên ngôi, rồi bất thình lình Nhạc cho Huệ đánh úp Phú Yên. Quảng Nam lúc này mất mùa. Hai tướng của Nguyễn còn lại là Nguyễn Quyên và Nguyễn Khôi không đủ quân lương cũng bỏ trốn nốt.

Chiếm được Quãng Nam, Tây Sơn tràn xuống Qui Nhơn. Việc này xảy ra vào mùa Đông năm Ất Mùi (1775). Qua năm sau Nguyễn Lữ với chức Tiết Chế đánh được Sài Gòn, Gia Định. Duệ Tông chạy qua Biên Hòa sau nhờ được tướng Đỗ Thành Nhân chiếm lại được Sài Gòn. Nhưng lương thực và kho tàng ở đây đã bị Tây Sơn chuyển về Qui Nhơn hết sạch.

Bắt đầu từ 1776 thanh thế Tây Sơn lớn trông thấy. Nhạc cho đắ lại thành Chà Bàn làm kinh đô, dựng cung điện, định triều nghi nganh nhiên xưng Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm phụ chính.

Tay chân của Tây Sơn Vương (Nhạc) bấy giờ hầu hết là những tay giang hồ, vong mạng, những kẻ bất đắc chí trong đó có Nguyễn Hữu Chỉnh là một mưu sĩ thất thế bên Trịnh chạy sang. Chỉnh là thủ túc của Hoàng Ngũ Phúc xưa kia. Phúc chết, Chỉnh đi với con nuôi Phúc là Hoàng Đình Bào. Sauk hi Kiêu binh đảo chánh ở Bắc Hà, bỏ Trịnh Cán lập Trịnh Khải, giết Đình Bào thì chỉnh chạy qua hàng ngũ Tây Sơn, Chỉnh đã đưa ra bài sách Phù Lê diệt Trịnh để đem Bắc Hà sang một khúc quanh rộng lướn của lịch sử.

Năm Bính Thân, nhờ bọn Lý Tài và Tập Đình (trước đã theo Tây Sơn) Đông Cung Dương trốn khỏi tay Tây Sơn vào Gia Định. Bọn này lập Dương lên làm Tân Chinh Vương và tôn Duệ Tông làm Thái Thượng Vương, chiếm được Sài Gòn nhưng đến năm Đinh Dậu (1777) thì bị Nguyễn Lữ đem quân vào đánh bắt và giết chết. Trốn thoát, bấy giờ có Nguyễn Ánh vừa được 17 tuổi, là cháu Thái Thượng Vương (gọi Võ Vương bằng ông và là con Chương Võ, con thứ hai của Định Vương), sau này trở nên đối thủ lợi hại của nhà Tây Sơn và là Thế tổ của triều Nguyễn.

Năm sau (Mậu Tuất – 1778) Nhạc xưng đế lấy niên hiệu là Thái Đức, phong Huệ làm Long Nhương tướng quân. Sau 8 năm vất vả gian lao, Nhạc cũng bước lên ngai vàng bệ ngọc như ai, không tài không chí gây sao nổi sự nghiệp như vậy, giữa một thời đại loạn.

3 – Nguyễn Huệ Đuổi Quân Xiêm

Từ năm Nhâm Dần (1782) ngôi sao của Nguyễn Huệ, người em út của Hoàng Đế Thái Đức, bắt đầu sáng rực.

Huệ là một thiên tài đặc biệt về quân sự. Lối hành quân của ông là tốc chiến, tốc thắng, biến hóa như thần. Hiệu lệnh của ông tất nghiêm minh; kỷ luật của ông là kỷ luật thép. Và đức tính làm tướng của ông đáng kể nhất là chỗ biết chia bùi, xẻ đắng với tướng sĩ, lấy ân suy và lấy cả đảm lược để chinh phục lòng người.

Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan ông tỏ ra bình tĩnh hơn ai hết; gặp những vấn đề khó khăn, những việc mà người ta phải bở vía kinh hồn thì ông thường nảy ra có một khối óc thông minh, lỗi lạc phi thường.

Từ lúc ông ra làm nghề tướng giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi thở hơi cuối cùng xông pha trăm trận, ông chưa hề biết chiến bại. Lúc này vua Thái Đức lo củng cố mọi vấn đề chính trị, xây dựng triều đình, lập các qui mô như các đế vương thì Huệ là người được trao quyền đại tướng đi đánh Đông dẹp Bắc. Tại miền Nam con cháu họ Nguyễn và thủ hạ còn cựa quậy. Huệ bốn lần mang quân vào Gia Định.

Năm ấy tại Ngã bảy (Thất Kỳ Giang) một trận đại chiến xảy ra Huệ đem mấy trăm chiến thuyền vượt cửa Cần Thơ xung đột với Nguyễn quân ở đây. Quân Nguyễn bại to.

Vào tháng tư, Huệ kéo quân đến Lữ phụ bày trận ngảnh lưng xuống nước đánh nhau với Nguyễn Ánh, lại thắng oanh liệt hơn bao giờ hết, Ánh phải bỏ chạy tháo thân ra đảo Phú Quốc.

Có một người Pháp giúp Ánh tên là Manuel điều khiển thủy quân không trốn nổi phải đốt tàu mà chết.

Năm sau (Quí Mão 1783) Chu Văn Tiếp, từ Phú Yên vào, cũng vượt cửa Cần Thơ, tính cứu Gia Định để đón Nguyễn Ánh đã từ Phú Quốc trở về nội địa.

Trong trận này một tướng kỳ kiệt của Nguyễn Ánh là Nguyễn Huỳnh Đức bị bắt. Bấy giờ Đức có phận sự giữ đoạn hậu cho Ánh chạy ra Côn Lôn. Nếu trời không mưa to gió lớn, sóng gió mịt mù thì Ánh đã có thể bị phò mã Tây Sơn bấy giờ là Trương Văn Đa bắt được. Thuyền của Tây Sơn bấy giờ bị đắm nhiều, quân Tây sơn đành phải rút lui, còn họ Nguyễn lại trốn được ra Phú Quốc.

Xong trận này Huệ lại về Qui Nhơn. Trương Văn Đa được cử làm Trấn thủ Gia Định.

Tôi trung của họ Nguyễn bây giờ có các tướng Nguyễn Văn Hoàng, Tống Phúc Khương, Tống Phúc Lương, Lê Văn Câu. Triều đình lưu vong này khởi binh từ Long Xuyên lên Sa Đéc, tiến đánh Sài Gòn.

Sài Gòn vào năm 1780 lại bị quân Nguyễn tái chiếm. Nguyễn Lữ bỏ chạy về Qui Nhơn. Trong năm ấy (1780) Nguyễn Ánh xưng vương, phong Đỗ Thành Nhân làm Ngoại Hữu, Phụ Chính Thượng Quốc Công, đặt quan cai trị, thu thuế, mộ binh và làm chiến thuyền.

Sau đó ít lâu, đã có phen Ánh cử Đỗ Thành Nhân và Hồ Văn Lân đem binh can thiệp vào việc Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua và để Hồ Văn Lân ở lại giữ quyền bảo hộ.

Trong dịp này Đỗ Thành Nhân có ý cậy công, lộng quyền lại bị dèm pha bị Nguyễn Vương giết đi, quân Đông sơn là quân bản bộ của họ Đỗ nổi lòng công phẫn bỏ đi, một số chống lại cũng gây cho họ Nguyễn nhiều điều phiền phức[4].

Tháng mười năm Tân Sửu (1781) Tiêm La cho quân xâm lấn Chân Lạp (Cao Miên) do lệnh của quốc vương Trịnh Quốc Anh. Hai tướng Chất Tri và Sô Xi điều khiển binh sĩ kéo vào đất của Nặc In khi đó đặt dưới quyền bảo hộ của chúa Nguyễn.

Nguyễn Ánh liền sai Chưởng Cơ là Nguyễn Hữu Thụy đem 3.000 quân sang Chân Lạp cứu nguy. Tại Chân Lạp, bọn tướng Tiêm hòa với tướng Việt rồi đem quân trở về gây cuộc đảo chính. Trong dịp này, quốc vương Tiêm La cho bắt vợ con của hai anh em Chất Tri đem giam giữ.

Chất Tri trở lại thì vừa đúng lúc Tiêm La đang bị cuộc nội loạn và thủ lãnh loạn quân là Phan Nha Văn Sản. Về đến nước Chất Tri truy tầm được quốc vương Trịnh Quốc Anh giết đi và tự xưng vua lấy hiệu là Phật Vương sau khi trừ được cả bọn Phan Nha Văn Sản.

Em là Sô Xi được phong làm Đệ Nhị Quốc Vương, cháu là Ma Lạc làm Đệ Tam Quốc Vương, rồi họ Chakkri lưu truyền đến ngày nay, và các vua Tiêm đều xưng là Rama.

Năm Giáp Thìn (1784) Nguyễn Ánh lại rước quân Tiêm La về giúp. Hai tướng Tiêm là Chiêu Tang và Chiêu Sương kéo sang Nam Việt hai vạn quân và 300 chiến thuyền, đi đến đâu quấy nhiễu dân chúng rất là tai hại.

Quân Tiêm thắng được Trương Văn Đa tiến đến tận Long Hồ, được tin này Nguyễn Huệ vội vào ngay Gia Định, áp dụng chiến thuật lùi để nhử địch vào các địa điểm chiến lược của mình là Định Tường.

Tại Xoài Nút, Huệ đặt phục binh bên Rạch Gầm. Quân Tiêm đến thì quân của Huệ đổ ra bất thình lình đánh cả hai mặt thủy bộ. Quân Tiêm xoay trở không kịp, chết và bị thương mười phần chỉ còn một hai chạy về nước.

4 – Nguyễn Huệ Đánh Thuận Hóa

Trong những tháng cuối cùng của năm Giáp Thìn (1784), người ta có thể nghĩ rằng Tây Sơn đã kiểm soát hết Nam Hà vào tới Hà Tiên (Mạc Cửu lúc này cũng đã chết rồi) còn Nguyễn quân tuy chưa bị tan ra hoàn toàn nhưng chỉ còn là một lực lượng không đáng kể, phải đào vong ra nước ngoài hầu như không có tương lai. Tại Thuận Hóatướng lĩnh của Bắc Hà trước kia là bọn Bùi Thế Đạt, Lê Quý Đôn và Phan Lệ Phiên, nay là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu, Trấn thủ cũ của Sơn Nam hay mê tin, đầu óc tầm thường.

Năm Bính Ngọ (1786) Phạm Ngô Cầu cho Nguyễn Phú Như vào dò xét nội tình Tây Sơn. Khi Phú Như gặp Nguyễn Hữu Chỉnh tức là chỗ cố nhâ, những điều hay dở của Thuận Hóa, cả chuyện lĩnh Tam phủ đảo chính Trinh cán và nạn đói ở Bắc Hà, Phú Như cũng cho lọt hết vào tai Chỉnh.

Tây Sơn liền quyết định lợi dụng ngày cơ hội thuận tiện này để Bắc tiến.

Bấy giờ là cuối năm Giáp Thìn. Sau một thời gian sửa soạn, ngày 18 tháng 5 năm ấy, Huệ làm Long Nhương Tướng quân Tiết chế thủy bộ chư quân, Vũ Văn Nhậm làm Tả đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm Hữu đô đốc vừa do đường thủy, vừa do đường bộ vượt Hải Vân Quan đánh cho tới khi hết đạn, hết sức thì tự vẫn.

Quân Tây Sơn ra đến Thuận Hóa. Trấn thủ thành này là Phạm Ngô Cầu cử Hoàng Đình Thể cùng hai con ra kháng cự. Thể xông pha giết được vài trăm quân Tây Sơn nhưng khi hết đạn thì không được tiếp tế. Xét ra Cầu đã bị đòn phản gián của Nguyễn Hữu Chỉnh do một bức thư cố để lọt vào tay Cầu nói Thể đã bí mật hàng Tây Sơn. Thể liền quay trở lại tính giết Cầu thì cờ Tây Sơn đã bay trên mặt thành.

Hai con Thể vì bị trọng thương đã ngã gục ở chiến trường. Tỳ tướng Vũ Tá Kiên cũng tử trận. Thể đành tự tử trên mình voi cho khỏi nhục.

Phú Xuân thất thủ rồi dến lượt hai dồn Cát Doanh, Đồng Hải, thuộc hai tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình cũng bị hãm do quân của Nguyễn Lữ, rồi mất nốt. Lữ ở lại trấn giữ Thuận Hóa, Nguyễn Hữu Chỉnh lĩnh một đạo thủy quân tiến ra Bắc trước. Nguyễn Huệ chỉ huy hậu quân theo sau, hẹn gặp nhau ở bến Vị Hoàng (Nam Định).

5 – Nguyễn Huệ Ra Thăng Long (Sơn Nam Thất Thủ)

Quân Tây Sơn cả hai đạo thủy lục rầm rộ tiến ra Bắc Hà thế mạnh như gió bão. Bấy giờ là cuối tháng 5 năm Bính Ngọ (1786).

Chỉnh ra cửa Việt Hải (sau này đổi ra Việt An) rồi vào bến Nghệ An, cho du binh đánh phá lung tung khiến dân tìn bên Trịnh xao xuyết vô cùng.

Tướng giữ thành Nghệ An là Bùi Thế Tuy (con Bùi Thế Đạt) đốt doanh trại bỏ trốn.

Tướng giữ thành Thanh Hóa là Tạ Danh Thủy cũng chạy. Nhờ không có sự trở ngại, quân của Chỉnh tiến dễ dàng tới Vị Hoàng (ngày 6 tháng 6 Bính Ngọ 1786) lấy được trăm vạn hộc thóc (mỗi hộc chừng 60 lít).

Chỉnh cho đót lửa để làm hiệu từ noi Côi, lửa bốc lên khiến ở xa Huệ đang dẫn một ngàn chiến thuyền theo gió Đông Nam tiến ra, trông thấy biết lục quân đã ra tới Sơn Nam.

Chẳng bao lâu hai quân gặp nhau ở Vị Hoàng, thế càng mạnh thêm. Triều đình Bắc Hà được tin, vô cùng sửng sốt, vội cử Trịnh Tự Quyền thống lĩnh 27 Cơ hiệu ra ngăn quân Tây Sơn.

Quyền đã loanh quanh mất 10 ngày mới chuyển được quân khỏi thành Thăng Long được 30 dặm, chúa Trịnh cử thêm Đinh Tích Nhưỡng là một danh tướng về thủy chiến (Nhưỡng là dòng Đinh Văn Tả, chức Liễn Trung Hầu, quê ở Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương).

Vùng Sơn Nam đã trở nên bãi chiến trườn khốc liệt cho hai bên, trong khi dân chúng già trẻ lớn bé đều hoảng hốt bồng bế nhau đi lánh nạn. Nhất là dân kinh thành như sống trong một cơn sốt rét. Bọn quan lại, văn cũng như võ, việc nước thì không lo, chỉ để ý việc chôn của, gìn giữ vợ con; giữa lúc này khói lửa chiến tranh bốc mù trời.

Nước lụt bấy giờ mới cạn, gió Đông Nam thổi không ngừng. Thuyền Tây Sơn dương buồm thẳng tiến. Quân Trịnh nạp đạn vào súng Bảo lân bắn ào ạt. Quân Tây Sơn lui vào bên sông chờ tối đến mới từ từ thả vài chục chiến thuyền sang mặt trận của Trịnh có đủ binh sĩ, kẻ giáo người kích.

Quân Trịnh bắn như mưa để ngăn lại.

Thuyền Tây Sơn chìm dần trong im lặng.

Trời tảng sáng, nhìn ra Nhưỡng mới biết đã bắn hết đạn vào những thuyền chỉ có đám binh sĩ kết bằng rơm của địch.

Biết mắc mưu, Nhưỡng liền cho quân bỏ thuyền chạy lên cạn thì đại đội thủy quân Tây Sơn sấn đến, đạn bắn vèo vèo như chuyển cả núi sông, các cổ thụ bên bờ cũng gãy đổ răng rắc. Quân Trịnh vẫn lùi.

Quân Nam xông lên đuổi, quân Bắc chết như rạ. Hai cánh quân của Trấn Thủ Sơn Nam và của Trịnh Tự Quyền làm thế ỷ dốc cho Nhưỡng, thấy thủy quân đại bại mất tinh thần, liền tan vỡ.

Quân của Tây Sơn không gặp sức kháng chiến nào đáng kể nữa, liền tiến mãi vào Hiến Doanh (Phố HIến tỉnh Hưng Yên).

Sơn Nam thất thủ ngày 24 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786).

Phòng Tuyến Thứ Hai Của Trịnh Tan Vỡ

Bọn Trịnh Tự Quyền và Đinh Tích Những bại trận càng làm cho triều đình Bắc Hà điên loạn.

Ưu binh và Nhất binh (lính Tam phủ) hàng ngày vẫn vỗ ngực khoe trung thành với vua và chúa vì thuộc Quí hương[5], bảo nhau mỗi nhóm rút một nơi. Ở lại đương đầu với quân Nam Hà chỉ còn quân Bắc: Nghĩa binh.

Và còn vài tướng lĩnh có liêm sĩ và tiết nghĩa là: Thạc Quân Công Hoàng Phùng Cơ với 500 quân nghĩa từ Sơn Tây từ hộ vệ kinh thành. Quận Thạc cùng 8 con (kể cả rể) đem binh ra đóng ở hồ Vạn Xuân[6] dàn trận đồ ở bến Thúy Ái (cùng thuộc huyện Thanh Trì).

Chúa Trịnh đem hết tinh binh ra ngoài cửa Tây Long, bày trận dưới Ngũ Long Lâu. Trận này khai diễn vào ngày 25 tháng 6 năm Bính Ngọ.

Quân Tây Sơn thừa thắng ở Sơn Nam liền nuốt giải trường giang (Nhị Hà) tiến lên bến Nam Dư để đánh bất thần vào quân Trịnh. Lúc này, đại đội chu sư của Nguyễn Huệ tới nơi thì tại bến Thúy Ái quân Trịnh còn neo thuyền, lên bãi chơi, chưa có phòng bị gì hết. Tây Sơn tới, quân Trịnh hoảng hốt không kịp xuống thuyền nữa, chạy tán loạn trong khi súng Cự thần của Nam Hà bắn như tưới. Một kẻ can đảm: Ngô Cảnh Hoàn, Quản Tiền Phong Cơ của Trịnh, cương quyết ở lại chóng địch rồi bị tử trận trên mặt nước. Tiền Phong Cơ gục rồi mà Hoàng Phùng Cơ không hay. Đang khi Hoàng ăn cơm thì quân Tây Sơn đã vây chung quanh, khiến Phùng Cơ chỉ còn nước bỏ chạy.

Một đội quân của Trịnh do Mai Thế Pháp cố chặn đường Tây Sơn, nhưng bộ thuộc tan vỡ dần, Pháp túng thế nhảy xuống sông tự vẫn.

Trong trần này 6 con của Quân Thạc bị trúng đạn chết cả, Quận Thạc thấy thế nguy, đành kéo con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu cùng vài chục binh sĩ liều chết mở một đường máu chạy về Hưng Hóa. Trong khi này, hồ Vạn Xuân là mồ chôn hầu hết quân Trịnh.

Vượt được tiền tuyến của Trịnh tức là sau khi đánh tan quân Hoafnng Phùng Cơ, Nguyễn Huệ rần rọ xông lên bến Tây Luông. Tiếng hỏa hổ nổ ầm ầm ghê rợn, tiếng binh sĩ hò hét và rên rỉ biến trận Tây Luông thành một cảnh địa ngục hỗn loạn gớm ghê máu chảy đầu rơi ào ạt. Chúa Trịnh phất cờ lệnh hò ba quân tiến. Quân Tây Sơn như hùm beo thấy mồi cũng lần xả vào địch như để nuốt chửng.

Nhưng xông vào trận chỉ có quân Nam hà mà thôi, còn quân Bắc Hà chẳng ai dám liều mạng. Chúa Trịnh liền thúc voi quay về vương phủ thì trên cửa Tuyên Võ cờ Tây Sơn đang phất phới bay.

Lịch sử ghi: Chúa Khải bỏ Thăng Long sau cuộc bại trận hết sức bi thảm vào ngày 26 tháng năm Bính Ngọ (1786).

Khải chạy đến lạng Hạ Lôi tỉnh Phúc Yên thì bị dân ở đây bắt nộp cho Nguyễn Huệ. Dọc đường Khải nhờ đêm tối rút dao đâm cổ mà chết (28 – 6 Bính Ngọ).

Huệ Gặp Vua Lê

Thắng trận xong, quân Tây Sơn vào đóng giữ hoàng thành rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính mạng của nhân dân.

Theo Cương Mục quyển 46, tờ 23b – 25b thì trong khi còn hành quân ở Vị Hoàng, Huệ đã phái một tỳ tướng đem binh bí mật đến Thăng Long để hộ vệ Hoàng gia (vua Lê). Khi quân Tây Sơn tới, các hoàng tử hoảng hốt nhưng viên tỳ tướng dâng tờ mật thư của Huệ báo trước cuộc vấn an, bấy giờ vua Lê mới an lòng.

Ngày 26 tháng 6, Nguyễn Huệ dẫn bọn Công Chỉnh và các tướng ta vào cung Vạn Thọ. Trước mặt nhà vua, ông chúa Tây Sơn có những cử chỉ hết sức khiêm nhượng.

Trong cuộc đàm thoại, Huệ nói quân Nam hà ra Bắc chỉ có ý phù Lê diệt Trịnh và làm theo lòng trời.

Lúc này các cựu thần đi lánh nạn hết không còn một ai, vua Lê nghe lời Chỉnh cho đi tìm Phan Lê Phiên, Trần Công Sán, Uông Sĩ Điển đến lo việc thù tiếp vị thượng khách.

Rồi ít bữa sau dân chúng lại lục đục kéo nhau trở về, chợ búa lại họp, các hoạt động hàng ngày lại tiếp tục theo nhịp sống bình thường.

Qua hôm sau, vua Lê sai người sang phong cho Nguyễn Huệ (Huệ trú tạm bên Trịnh phủ) làm Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công.

Huệ nhận rồi sai người vào hoàng cung tạ ơn, nhưng trong lòng có ý bất mãn, nghĩ rằng triều đình Bắc Hà lấy chức tước phong cho mình có ý lung lạc và coi Huệ vào loại người không biết gì chăng.

Công Chỉnh khéo léo lắm mới làm cho Huệ nguôi giận và sang thảo luận với vua Lê kiếm cách làm đẹp lòng người đang nắm trong tay vận mệnh Hoàng Gia và Bắc Hà. Rồi người ta đi đến chỗ gả cho chủ súy Tây Sơn cô gái thứ hai mươi mốt của nhà vua là Ngọc Hân công chúa bấy giờ mới 16 tuổi, nhan sắc rất mặn mà[7], lại có tài văn chương thi phú.

Vài ngày sau, bệnh tình của nhà vua thêm trầm trọng, rồi mất vào ngày 17 tháng 7 năm Bính Ngọ (1786), sau 47 năm ở ngôi làm bù nhìn cho họ Trịnh.

Do sự chấp thuận của Nguyễn Huệ, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ được nối ngôi lấy niên hiệu là Chiêu Thống[8].

Nguyễn Huệ Về Nam

Trước khi cất quân ra Bắc Hà, sợ “kiểu mệnh” theo lời của Nguyễn Hữu Chỉnh, Huệ đã gửi thư[9] về Qui Nhơn “Xin đại cử Bắc phạt”. Vua Thái Đức có ý không bằng lòng vội cho người ra Phú Xuân đòi đình chỉ việc Bắc tiến thì Huệ đã ra tới Thăng Long và đã hạ được hết thảy lực lượng của Bắc Hà. Nhạc đành sửa soạn lên đường, biết rằng cử người ra gọi Huệ cũng không được. Tháng 8 năm Bính Ngọ, với 500 thân binh và 100 con voi, Nhạc lật đật ra Thăng Long tuyên bố đi tiếp ứng cho Nguyễn Huệ để tránh mọi điều dị nghị.

Lại một phen nữa cờ Tây Sơn tiến ra Bắc Hà.

Được báo động vua tôi nhà Lê và dân chúng Thăng Long nôn nao, hoảng hốt.

Gặp vua Lê, vua Thái Đức tuyên bố một câu rất chững chạc:

“Họ Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà vua giữ vững kiên cường rồi “hai nước” chúng ta đời đời giao hảo”…

Trước sự dứt khoát này, vua tôi nhà Lê mới hết lo lắng và binh tướng Tây Sơn cũng hoan hỉ, bởi vì họ chỉ mong sớm trở về với gia đình. Trong dịp này, Vũ Văn Nhậm vốn ghét Nguyễn Hữu Chỉnh, liền bàn với Nguyễn Huệ bí mật rút về Nam bỏ Chỉnh lại cho dân Bắc Hà sửa trị.

Rồi giữa canh ba đêm ấy, quân Tây Sơn lặng lẽ kéo đi mang theo của cải, kho đụn Bắc Hà sau khi cho người từ giã riêng vua Chiêu Thống.

Sớm hôm sau Chỉnh mới biết tin, sợ quá vội cùng vài gia nhận chạy ra bờ sông, cướp một chiếc thuyền buồm, chèo gấp vô Nghệ. Một số người kẻ chợ đuổi lấy gạch, đá ném theo, Chỉnh tự tay giết vài người mới thoát được.

Quân Huệ đến Nghệ An thì Chỉnh cũng tới kịp. Huệ có ý ngượng bên ngoài mà bề trong thì rất khó chịu, nhưng cũng vổ về Chỉnh. Huệ nói: “Người Bắc chưa thật lòng với ta, danh tướng của họ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng CƠ vẫn còn hoạt động, ông nên ở lại Nghệ An cùng Nguyễn Văn Duệ để đề phòng mai hậu mới được”.

Sau đó, Huệ dặn ngầm Vũ Văn Nhậm rằng: “Chỉnh ở lại Nghệ An là quê hương của hắn, phải xem kỹ mọi hành động, đồng thời theo dõi lòng người đối với hắn yêu ghét thế nào, cấp báo cho ta hay…”

Về phẩn Chỉnh, từ ngày không được theo sát Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, Chỉnh đã thấy mình ở cái thế tiến cũng khó mà thoái cũng dở, biết Nguyễn Huệ cơ mưu ghê gớm, đã không tin thì tai họa sẽ đến chưa biết giờ phút nào. Chỉnh đành ráo riết kiếm các tay lưu vong, lập cơ ngũ ngầm có ý chiếm hẳn Nghệ An gây thế tam phân thiên hạ. Nguyên sau khi Tây Sơn trở về Phú Xuân, vua Chiêu Thống vừa lên ngôi, đình thần toàn là những kẻ bất tài nên dòng họ Trịnh có Trịnh Lệ và Trịnh Bồng lại xuất đầu lộ diện tranh nhau làm chúa, noi theo thói cũ. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải để Trịnh Bồng tái lập phủ Liêu và phong Bồng làm Án Đô Vương. Bồng lại hiếp vua như các tiên chúa họ Trịnh rồi trong dịp này các hào mục ở các địa phương lấy danh nghĩa vua Lê cũng nổi lên như mười hai sứ quân xưa kia. Chính sự Bắc Hà đã rối, lại thêm nạn đói kém, dịch lệ bùng ra càng tăng thêm cảnh lầm than, khổ cực. Vua Chiêu Thống không còn cách gì đối phó đành cho sứ giả vào Nghệ An, khẩn thiết mời Chỉnh ra Bắc Hà yên dân trừ loạn[10], Chỉnh liền để người tay chân là Lê Duật ở lại với Nguyễn Văn Duệ, còn mình thì cùng quân đội, phất cờ “hộ vệ” kéo ra Thăng Long.

Quân của Chỉnh tới đâu, quân Trịnh Bồng bỏ chạy đến đó, Chỉnh ung dung bước vào Thăng Long, tiền hô hậu hét. Cái địa vị cao quý của ông chúa cuối cùng họ Trinhh, một buổi mai đã sang tay chủ mới: Nguyễn Hữu Chỉnh.

Vua Lê Chiêu Thống phong cho Chỉnh chức Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ bằng Trung Công để thưởng công đã dẹp được kẻ lộng quyền.

Việc đầu tiên của Chỉnh ở Triều Lê là chiếm đóng Trịnh phủ làm Đại bản doanh, xin phong cho con là Nguyễn Hữu Du làm “Thế tử” lập dinh ở phía Đông, cắt đặt tay chân vào các địa vị trọng yếu trong triều và ở các trấn. Sau này các quan lại tâu vua phong cho Chỉnh tước Nhất Tự Công, được mở phủ và đúc ân quân Võ Thành, viện khu mật thuộc về cả đấy[11].

Từ đó mọi việc Chỉnh đều quyết đoán lấy, không hỏi ý vua Lê, rút cục về phần vua Lê, tránh được nạn Trịnh Bồng thì lại rơi vào cái họa Cống Chỉnh, khác chi chuyện quỷ tha ma bắt.

Không khí chính trị Bắc Hà lại nặng nề như trước. Vua ngán, dân buồn, con thuyền quốc gia vẫn bồng bềnh trong cơn sóng dữ.

Chỉnh dò xét biết nhiều người bất mãn với mình, bởi các quan có một số cáo bệnh về ở ẩn nơi núi, bể hay đồng ruộng nên tìm cách mua chuộc bằng việc mở khoa thi, tuyển dụng nhân tài.

Rồi trước những việc chuyên quyền của Chỉnh đã có phen vua Chiêu Thống mưu với bọn cần thần Ngô Vi Quý với Nguyễn Hữu Chính vào tiền điện để đánh thuốc độc cho chết, nhưng khi vua gặp Vũ Trinh đem chuyện này ra bàn thì Trịnh gạt đi, lấy lẽ đang có tin Tây Sơn lăng bức ngoài biên thùy, triều đình lại chưa ổn, lòng dân còn xao xuyến, hãy ocnf cần Chỉnh làm móng vuốt, nhất là Chỉnh chưa có hình tích gì gian trá bất tín. Chiêu Thống nghe ra mới bỏ việc này đi, nhưng sau cũng có người mách Chỉnh việc này.

Chỉnh từ đó có ý chán nản, ít nhòm ngó vào việc nước, mà hào kiệt các nơi lại rạo rực.

Tin của Duật từ Nghệ An đưa ra cho biết anh em Tây sơn đang lủng củng với nhau, Chỉnh liền có ý muốn lật đổ Tây Sơn, mật giao kết với Nguyễn Văn Duệ thực hiện mưu “Nam Bắc phân trị”[12].

Vũ Văn Nhậm trước đây đã được giao phó nhiệm vụ dò xét về bọn Duệ và Chỉnh được rõ dự định này liền dùng binh phù gọi Duệ về Nam; Duệ không chịu e rằng anh em vua Tây Sơn bất hòa với nhau, mình là tướng cũ của Nhạc, về chuyến này có điều bất lợi chăng. Duệ tính luôn chuyện thông đồng với Chỉnh để cùng chống lại với Bắc Bình Vương. Trong việc này Duệ có sự kết cấu với Tham nghị Nguyễn Đình Viện.

Vũ Văn Nhậm cho chạy thư vào báo cáo với Bắc Bình Vương tình hình Nghệ An, Vương trao ngay cho Nhậm toàn quyền giải quyết vấn đề Duệ và Chỉnh.

Quân Nhậm đi gấp, sau một ngày đêm đến trại Kỳ Hoa. Duệ hoảng sợ dặn Đình Viện giữ lấy Nghệ An, còn mình trốn về với Nhạc.

Tại đây tướng lĩnh Nghệ An bất đồng chánh kiến, Đình Viện cùng các con đánh lộn nhau với Nguyễn Thuyên nên khi Vũ Văn Nhậm tới thì Nghệ An lại sang tay quân đội Nam Hà, không tốn một mũi tên, hòn đạn.

Trong khi bầu trời chính trị Việt Nam còn vẩn đục, một việc khá buồn cười đã xảy ra là triều đình Bắc Hà cử sứ bộ do Trần Công Sán cầm đầu vô Nam đòi Nghệ An (việc này vào tháng ba năm Đinh Mùi – 1787). Lúc này Phú Xuân đã phái Vũ Văn Nhậm đem quân ra chiếm đóng trấn này[13].

Sứ bộ vào đến Nghệ An thì Vũ Văn Nhậm đã có mặt tại đây mở tiệc khoản đãi sứ giả rất trọng hậu. Đối với việc đòi đất Nghệ An, Nhậm cười báo Sán rằng: “Nghệ An là một cấp nhỏ, có nghĩa lý gì đối với đại cục mất còn, sứ bộ đi thêm mệt sức, uổng công mà thôi…chỉ e chim đã lìa tổ, trở về khó có cành mà đậu!”.

Câu này làm cho Ngô Nho hoảng sợ, Nho bàn với Công Sán nên đổi quốc thư đòi đất Nghệ An làm bức thư cầu Tây Sơn cho vua Lê được tập phong, nhưng Công Sán không chịu.

Đến Phú Xuân quốc thư dâng lên, Bắc Bình Vương coi xong nổi nóng, liền mạt sát ngay Chỉnh và mắng triều đình Bắc Hà có ý phỉnh phờ lừa gạt. Sứ giả không đổi nét mặt, ung dung biện luận từng điểm và khá lâu.

Khi đó trời đã tối, Bắc Bình Vương bảo Công Sán: “Các ông cứ về sứ quán nghỉ ngơi, để ta nghĩ kỹ vài lần rồi sẽ liệu định”. Sán đỡ lời luôn: “Đại vương nghĩ một lần cũng đủ, nghĩ vài lần e lẫn chăng? Tôi đây xin liều chết cho rồi”. Vương giận lắm truyền nhốt sứ bộ mỗi người một nơi.

Bây giờ giữa Huệ và Nhạc không khí đang nặng nề. Người ta ngại nội tình bất ổn này lọt vào mắt của phái bộ Bắc Hà, rồi Bắc Bình Vương đưa trăm lạng bạc nói là của Công chúa (Ngọc Hân) gửi tặng sứ bộ. Đô đốc Vũ Văn Nguyệt được lệnh tiễn đưa sứ bộ về Bắc bằng đường biển cùng 20 kẻ tùy tùng đến cửa bể Đan Nhai, Nguyệt ngầm sai đục thuyền, cả phái đoàn đều bị chết chìm cả. Hôm ấy là ngày 11 tháng 4 năm Đinh Mùi.

6 – Chim Bằng Gãy Cánh (Quân Tây Sơn Ra Bắc Lần Thứ Hai)

Giữa lúc Nguyễn Hữu Chỉnh đang sống những giờ phút vinh quang nhất thì Vũ Văn Nhậm theo kế hoạch của Bắc Bình Vương liền viết thư ra hỏi tội thông đồng với Nguyễn Hữu Duệ. Bấy giờ Chỉnh đã hiểu rõ Nghệ An đổi chủ rồi và cũng biết sức mình còn kém Tây Sơn, vội viết thư cho Vũ Văn Nhậm để giải thích thái độ của mình, đại ý nói mình vẫn trung thành với Bắc Bình Vương vì bị kẻ yêu người ghét nên có nhiều điều phao vu oan uổng.

Được thư Chỉnh, Nhậm cũng hồi âm an ủi Chỉnh và khuyên Chỉnh nên dẹp nốt Nhưỡng rồi về Nam để tỏ lòng ngay thẳng.

Sau này Huệ và Nhạc giảng hòa với nhau, Bắc Bình Vương trong một hội nghị quân sự tại Quảng Nam đã nêu ra vấn đề Nguyễn Hữu Chỉnh.

Bắc Bình Vương cáo tội Chỉnh ôm chân vua Lê như họ Trịnh xưa kia, rồi truyền lệnh cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Luân ra Nghệ An họp bàn với Vũ Văn Nhậm để mở cuộc Bắc phạt. Nhưng trước khi hai tướng trên đây lên đường, Bắc Bình Vương đã ra lệnh riêng với Sở rằng Vũ Văn Nhậm là một tướng tài nhưng cũng không đáng tin, phải canh chừng[14]. Tháng 11 năm Đinh Mùi, đoàn quân bách chiến của Tây Sơn đã ra tới Thanh Hóa. Ngựa trạm chạy rầm rập trên đường báo tin về Thăng Long. Quang cảnh nhân dân chạy loạn, già trẻ, lớn bé bồng bế nhau nheo nhóc lại tái diễn trong làn không khí đầy lo âu gần như nghẹt thở ngày nào.

Vua Lê nhóm họp các tướng lĩnh, đại thần ngay tại phủ của Chỉnh.

Sau một cuộc thảo luận, Nguyễn Như Thái được cử làm Thống lĩnh, Ninh Tốn làm Tham Tán Quân Vụ cùng tiến quân vào Thanh Hóa. Tại đây quân của Lê Duật đã bị quân của Ngô Văn Sở đi men núi, lén qua sông Tất Mã (sông Mã)[15] đánh vào sau lưng.

Quân Duật phải bỏ chạy giữa đêm tôi, đến Cao Động thì lại thấy quân của Văn Sở đằng trước mặt. Lâm vào thế gọng kìm, trước sau dồn lại, quân của Duật tan vỡ trong cơn hoang mang, khủng khiếp. Khi đại quân của Nguyễn Như Thái tới Châu Cầu[16] thì được tin Lê Duật tử trận rồi. Quân của Thái được hai vạn gồm quân tinh nhuệ của bản đạo và các đạo khác. Ninh Tốn bàn đem quân giữ núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) lợi dụng thế hiểm và chỗ cao, nơi này còn là hàng rào ngăn cách Đàng trong với Đàng ngoài.

Quân của Thái vội gấp rút đến giữ bến đò Gián Khẩu, một phần lớn đi tắt đến bến đò Nghệ[17] tính đánh vào phía sau quân Tây Sơn, nhưng đến Điềm Xá[18] thì gặp lực lượng Đàng trong địa bại chạy về Sơn Minh[19].

Kế hoạch của nhà Lê là chiếm trước đèo Ba Dội thì quân Thái bắt đầu lên đường, quân Tây Sơn thắng Lê Duật xong đã vội đến chiếm núi Tam Điệp xong rồi.

Đã bất lợi ngay trận đầu, nay lại được tin quân Tây Sơn cách mìn chỉ có vài dặm, Thái hoảng hồn không ngờ Tây Sơn đã tiến nhanh quá sức tưởng tượng. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa, đã cô thế lại không có quân tiếp ứng, Thái cùng binh sĩ bị đánh tan hoang, riêng Ninh Tốn đại bại dã đem lại một cơn sốt rét cho chính quyền Bắc Hà.

Vua Lê Chiêu Thống cũng hoảng hốt chạy sang trao cho Chỉnh cờ Tiết và cây Việt để Chỉnh toàn quyền với tình thế. Chỉnh vẫn làm ra vẻ cứng để yên lòng vua Lê, rồ thân mang ba vạn quân kéo xuống Hoàng Mai, cắt Hữu Du cầm Ngũ Duệ cơ quân đi trước. Du đến sông Thanh Quyết thì ngừng lại, đắp lũy ở Bắc ngạn sông ấy và dựng 18 đồn. Bấy giờ vào tháng chạp, đêm xuống càng rét nhiều, quân lính của Du đang đốt lửa sưởi thì quân Vũ Văn Nhậm ập tới và cứ nhằm chỗ có lửa sáng mà bắn.

Quân Du vỡ ngay lập tức. Chỉnh ở Bình Vọng (tức làng Bằng thuộc phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông) nghe báo quân Du thua vỡ, đang bối rối thì Du chạy về tới.

Chỉnh hạ lệnh rút về Thăng Long để mời vua Chiêu Thống sửa soạn đi lánh nạn và mang cơ thiếp của mình chạy[20] đi Kinh Bắc tính nhờ Nguyễn Cảnh Thước là một tướng dũng lược đáng tin cậy và ở đây thành trì kiến cố, lại có sông ngăn cản, ít nhất lợi về thế thủ trong khi chờ gọi được quân Cần vương tới.

Rồi vua Lê sang nhà Chỉnh cùng chạy khỏi Thăng Long.

Chập tối Vũ Văn Nhậm đã kéo được quân vào thành. Vua và hoàng gia chạy được qua sông (sông Nhị). Đến đây quân lính trốn hết quá nửa chỉ còn 430 người và 60 cỗ ngựa (phút cuoosic ùng Hữu Chỉnh còn thu nhặt được vài ngàn binh để ủng hộ vua qua sông chạy sang Bắc…)

Bộ tướng của Vũ Văn Nhậm là Nguyễn Văn Hòa được lệnh đuổi theo bám người bại trận. Tới núi Tam Tầng thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang thì Hòa theo kịp Chỉnh. Hòa chia quân làm hai đạo, một đạo đi vòng sau núi đánh tập hậu. Chiến thuật này làm quân của Chỉnh rối loạn ngay. Hữu Du bị bắt và bị chặt đầu ngay, còn Chỉnh đang phóng ngựa chạy thì bỗng bị ngã vật xuống do ngựa bị thương. Quân Tây Sơn liền trói Chỉnh bỏ vào cũi mang thẳng về Thăng Long.

Với giọng hách dịch, Vũ Văn Nhậm kể tội Chỉnh từ chân tơ, kẽ tóc rồi vặn hỏi tại sao làm phản. Chỉnh không van nài, chỉ đáp gọn một câu: “Chỉ vì cái thế như vậy”.

Rồi Chỉnh bị xé xác.

Chú thích:

[1] Ngày nay du khách qua vùng An Khê, cách Pleiku chừng 85 cây số, tới thăm làng Cửu An, nơi trước kia còn phụ thuộc tỉnh Bình Định, và còn kêu là Tây Sơn ấp. Ở đây, giữa những khu rừng âm u, hiu quạnh, đột khởi một quả núi tục gọi là núi Chà Diêm. Vào khoảng năm 1778, ba anh em Nguyễn Nhạc đã dựng kho thuốc súng và luyện tập quan đội tại khu vực này.

[2] Danh hiệu Tây Sơn mà anh em ông Nhạc được mang là do nơi cư ngụ này.

[3] Tây Sơn được gọi là Tân Nguyễn.

[4] Năm 1777 Tây Sơn chiếm được Sài Gòn, Đỗ Thành Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được Tư Khấu Oai của Tây Sơn. Nhờ chiến công này Nguyễn Ánh lại có thực lực sai Lê Văn Quân ra đánh Bình Thuận và Diên Khánh.

[5] Vua Lê, Chúa Trịnh xuất thân ở Thanh Hóa nên chỉ tin ở đám binh sĩ Thanh-Nghệ-Tĩnh và biệt đãi họ, do đó mà giữa quân dân đời Trung Hưng có sự chia rẽ. Gặp biến, sự thế lại càng bi đát. Kiêu binh bỏ chạy trước và chạy đến đâu thì dân chúng giết đến đấy. Với đám quân dân nghịch nhau như nước với lửa, ngai vàng nghiệp chúa của Lê, Trịnh cũng đủ đổ rồi, còn kể chi những nguyên nhân khác.

[6] Hồ Vạn Xuân tức là đầm Vạn Phúc thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông ở bên ngoài thành Thăng Long.

[7] Thời nào người đàn bà cũng đóng những vai trò hết sức quan trọng để giải quyết những nỗi khó khăn trong tình thế đặc biệt. Ở đây người ta mượn cái nụ cười của giai nhân để đè bẹp ngọn lửa giận của Tây Sơn có thể đốt cháy cả Bắc hà bấy giờ.

[8] Về việc Duy Kỳ lên ngôi “Lê Quý Kỷ Sự” chép: “Tự tôn không xin phép trước với chúa Tây Sơn, vội lên ngôi ngay trước linh cữu của vua Hiến Tông rồi lại tự tiện phát tang xong mới cho người sang báo với Huệ. Huệ giận lắm. Công chúa Ngọc Hân phải mật sai người tin cho Duy Kỳ sang xin lỗi Huệ mới yên.

[9] Huệ sợ chưa có lệnh vua anh, đã đem quân ra Bắc là mạn phép, làm liều.

[10] Trịnh Bồng sau cuộc bại vong đã bỏ đi tu và từ đó không ai thấy tông tích của ông ta nữa.

[11] Phủ quân Võ Thành có uy quyền như Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội ngày nay.

[12] Mưu Nam Bắc phân trị là lấy Hoành Sơn và Linh Giang (sông Gianh) làm phân giới rồi chia ra hai miền Nam Bắc như các tiền triều để cùng hưởng phú quý. Lại có sách chép: Nghe tin Duệ có ý thông đồng với Chính, Bắc Bình Vương liền phái Nguyễn Văn Đức ra đóng ở Diễn Châu (Nghệ An) để cùng trông coi trấn này, nhưng khi Duệ và Đức biết Nam hà đang có mâu thuẫn nội bộ bèn viết thứ cho Chỉnh bàn cùng hợp lực kéo vào Nam gây loạn, khi thành công sẽ chia nhau đất đai như trên đã nói, nhưng Chỉnh do dự nên việc này không thành.

[13] Đây là một việc thiếu tâm lý vì Tây Sơn và nhà Lê chưa thật tình ở tốt với nhau, lại còn đang nghi ngờ nhau là đàng khác.

[14] Văn Nhậm là tả quân của Bắc Bình Vương nhưng là rể của vua Thái Đức. Bắc Bình Vương có bụng nghi ngờ cho rằng Văn Nhậm dầu sao vẫn có cảm tình với bố vợ nhiều hơn với mình rồi kinh nghiệm cho hay trên đường chính trị khi người ta đã nghi nhau là sẽ kiếm cách giết nhau.

[15] Sông Mã ở vào khoảng tiếp giáp ba huyện Thụy Nguyên, An Định và Vĩnh Lộc thuộc tỉnh Thanh Hóa.

[16] Chân Cầu là xã sở tại huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.

[17] Bến đò Nghệ thuộc Trại Nghệ, làng Đại Hữu, huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình.

[18] Một làng thuộc huyện Gia Viễn.

[19] Tục gọi là Sơn Miêng, nay thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông.

[20] Vợ con Chỉnh ở làm tin bên Tây Sơn; khi Chỉnh ra Bắc lần sau chỉ có mang hầu và con nàng hầu mà thôi.