Chương XX MỘT VÕ CÔNG OANH LIỆT NHẤT CỦA VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ 18
Cái chết của Vũ Văn Nhậm
- Chiến sự Việt Thanh
- Cuộc giao thiệp giữa Tây Sơn với nhà Thanh
- Việc mở mang chính trị của vua Quang Trung
1 – Cái Chết Của Vũ Văn Nhậm
Chỉnh bại trận bị phanh thây, về phía hoàng gia nhà Lê cũng trải nhiều khổ cực. Vua Chiêu Thống sai Lê Quýnh cùng 30 người tông thất đưa bà Hoàng thái hậu, ba Hoàng phi và Hoàng tử lên Cao Bằng. Từ đó nhà vua chạy lạc long từ Hải Dương về Sơn Nam cùng mấy kẻ tôi trung. Bọn Đinh Tích Nhưỡng thấy thế nhà Lê suy tàn cũng quay ra làm phản. Vua Chiêu Thống đành chạy qua Tàu cầu cứu. Nhà Lê tính ra trị vì dân tộc Việt Nam hai phen (Tiền Lê và Hậu Lê) được 360 năm tuy được một thời trung hưng nhưng chỉ đóng vai bù nhìn cho nhà Chúa. Rồi chúa đổ thì vua cũng tàn (1788).
Về phần Vũ Văn Nhậm bình định xong Bắc Hà liền thiết lập ngay bộ máy cai trị để chấm dứt chính quyền của con cháu nhà Lê, và cho người đi kiếm vua Chiêu Thống nhưng không được. Nhậm phải cử Sùng Nhượng Công Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc cho yên lòng dân Bắc Hà.
Thủ đoạn chính trị này cũng không bưng mắt được sĩ dân ở đây, do đó vị Giám Quốc chỉ có vài Hoàng thân và vài võ tướng theo mà thôi.
Vũ Văn Nhậm, từ ngày diệt được Chỉnh có ý kiêu ngạo và độc đoán khiến bọn Ngô Văn Sở và Phan Văn Lâm làm Tham Tán Quân Vụ bất bình[1]. Nhân trước đây, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ vốn có óc đa nghi bởi Nhậm là con rể của vua Thái Đức nên đã dặn Sở và Lân canh chừng và cho chia sẻ quyền hành để kiềm chế Nhậm một phần nào. Nhậm mất lòng họ, Sở liền ngầm báo cáo về Phú Xuân rằng Nhậm có ý tự vương (Theo Thanh Triều Sử Lược và Lê Kỷ Dã Sử). Làm đại tướng ở ngoài cõi, uy danh lớn bao nhiêu thì dễ bị người ghen ghét bấy nhiêu rồi số phận của Nhậm đã bị kết liễu một cách bi thảm sau đó ít ngày.
Bắc Bình Vương được mật thư của bọn Sở lập tức lên đường. Mười ngày sau, Vương ra tới Thăng Long (Mậu Thân -1788) hồi canh tư. Vương ập vào Tổng hành dinh giữa lúc Nhậm đang ngủ say, Vương cho võ sĩ đâm chất Nhậm ngay trên giường.
Giải quyết xong vấn đề Vũ Văn Nhậm, Vương họp các quan văn võ của mình và của nhà Lê để tổ chức tân chính quyền.
Nguyễn Huệ đặt bốn trấn tướng phụ trách quân sự tại Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương là Hòa Nghĩa hầu, Lôi Quang hầu, Nguyệt Quang hầu, và Hám Hổ hầu. Bốn võ quan khác giữ bộ Lại, Chính Ngôn hầu giữ bộ Hộ, Ước Lễ hầu giữ bộ Lê và Lộc Tài giữ bộ Hình cũng là tay chân của Vương từ Phú Xuân ra. Tất cả những người này đều thuộc quyền Đại tư mã Ngô Văn Sở và thuộc cấp bộ Trung ương. Một số quan nhà Lê như Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn, Trần Bá Lãm chỉ đóng vai phụ thuộc trong bộ máy chính quyền đời bấy giờ mà thôi. Ở cấp phủ, huyện thì Vương cho đề cử, nghĩa là theo lối giới thiệu để có quan cai trị, tại các địa phương gồm hai loại: Văn phân Tri và Võ phân Xuất. Còn những lại viên thuộc các Ty thì tùy sự tuyển dụng của Ngô Văn Sở.
2 – Chiến Sự Việt Thanh
Việc vua Chiêu Thống mất nước, Tây sơn lập tân chính quyền ở Bắc Hà được hai cố thần nhà Lê là Nguyễn Huy Túc và Lê Duy Đản vượt biên giới sang báo cáo cho Tổng đốc Lưỡng quảng là Tôn Sĩ Nghị và Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh. Bọn này liền dâng sớ lên xin vua Càn Long gấp rút lợi dụng cơ hộ này sang chiếm nước Nam, bề ngoài lấy danh nghĩa dựng lại họ Lê và trừ quân Tây Sơn. Vua Càn Long chấp thuận luôn đề nghị này và ra lệnh chu biện việc ăn ở cho cung quyến vua Chiêu Thống cùng cho nhà vua theo quân Thanh về Nam chinh. Việc đã quyết định xong, triều thanh liền huy động binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông và Quảng Tây được tất cả là 200.000 người, chia làm ba đạo kéo vào nội địa nước ta[2].
Đạo thứ nhất do chính họ Tôn và Đề đốc Hứa Thế Thanh chỉ huy theo đường Nam Quan đổ xuống.
Đạo thứ nhì do Đề tổng họ Ô, lĩnh quân Vân Quý (hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu) từ Tuyên Quang tiến sang.
Đạo thứ ba do Điền châu Tri phủ, Sầm Nghi Đống từ Cao Bằng kéo vào.
Ngô Văn Sở được tin quaanThanh kéo sang tới tấp liền nhóm các văn võ quan liêu nhà Lê sau khi tướng Trấn thủ Lạng Sơn là Phan Khải Đức hàng giặc, phó tướng Nguyễn Văn Diễm thế cô rút về Kinh Bắc với Nguyễn Văn Hòa.
Một bức thư ký tên Giám Quốc Sùng Nhượng Công, Lê Duy Cẩn được đưa sang xin hoãn binh với Tôn sĩ Nghị. Rồi các tướng Tây Sơn mở cuộc thảo luận.
Những kẻ bàn dùng phục binh đánh quân Thanh như vua Thái Tổ nhà Lê diệt bọn Liễu Thăng, Lương Minh trước đây duy Ngô Thì Nhậm chủ trương kế hoạch, nhử giặc vào sâu nội địa, thủy quân rút về Biện Sơn trước, lục quân kéo vào đóng giữ núi Tam Điệp rồi báo tin vào cho Bắc Bình Vương.
Chiến lược này được chấp thuận, binh sĩ các đạo đều được lịnh về hội ngay dưới cờ của Tiết Chế Ngô Văn Sở tại bờ sông Nhị vào năm hôm sau.
Sở bàn kế hoạch lui quân.
Riêng Phan Văn Lân khảng khái xin đem 1000 quân đi đánh. Trời bấy giờ rét buốt. Quân Tây Sơn vượt sông Nguyệt Đức đánh vào quân Thanh đang đóng ở núi Tam Tầng. Súng đạn của Thanh bắn ra như mưa. Quân Tả Hữu Dực bắn châu vào quân Tây Sơn chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Đồn này phát hỏa, Lân cả sợ rút về.
Ngày 21 tháng 11 năm Mậu Thân (1780) không còn một bóng quân Tây Sơn ở trên đất Bắc, thành Thăng Long bỏ ngỏ, quân của Nghị vào đóng và tướng doanh của Nghị đặt tại Tây Long Cung. Theo lời vua Thanh đã dặn lấy xong thành này rồi trao ấn cho Duy kỳ để tấn phong làm An Nam Quốc Vương. Đây là một chước để ràng buộc lấy lòng dân…
Ngày 22, Sĩ Nghịlàm lễ ở điện Kính Thiên để làm lễ sách phong cho vua Lê Chiêu Thống.
Trước biến cố năm Mậu Thân, nông dân Bắc Hà đã mất luôn mấy vụ mùa liền, cảnh huống rất là nheo nhóc, bi thảm. Quân Thanh tới nhân dân càng điêu đứng thêm. Đã đói lại loạn mà loạn luôn mấy năm thì còn sức nào mà chịu nổi. Bọn ngoại nhân ỷ thế làm bậy, hàng ngày như đánh người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái không còn kiêng nể một thứ gì.
Tình dân đã rối ren mà hoàng gia cùng quan liêu cũng hết sức lủng củng do tính nhỏ nhen vung dại của vua Chiêu Thống khiến nhiều người sinh chán nản. Nguyên vừa về đến Thăng Long vua Chiêu Thống đã nghĩ ngay đến sự đền ơn trả oán: đàn bà trong tông thất lấy tướng tá của Tây sơn đã có mang vậy mà vua Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy thai quăng đi để chết cả mẹ lẫn con; ba vị Hoàng thúc bị chặt quân quăng ra giữa chợ. Hoàng đệ Duy Lưu, Trấn Thủ Tuyên Quang Phạm Như Toại, Phò mã Dương Hành, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Hoàn, Phan Lê Phiên, Mai Thế Uông…kẻ bị tử hình, người bị cách chức giáng chức khiến bà Thái Hậu phải bất bình: “Ta cây đắng mới xn được quân đến cứu. Nay đền ân mai trả oán, phá hoại thế này nước nhà phỏng còn gì nữa? Việc hỏng đến nơi rồi!”
Còn việc quân đáng lẽ phải thúc đẩy gấp thì thầy trò vua Chiêu Thống chẳng hề nghĩ đến, khiến nhiều đạo quân Cần Vương phải chán nản. Sau nhiều người thúc dục vua Chiêu Thống mới cho dựng ba cái đồn tại Bắc ngạn sông Thanh Quyết tỉnh Hà Nam làng Nhật Tảo và ở làng Ngọc Hồi tỉnh Hà Đông.
Sau Nghị mới quyết định sang Xuân vào mồng 6 sẽ xuất sư và bảo Lê Quýnh là người được vua Chiêu Thống cử sang giục Nghị ra quân rằng: “Nếu muốn đi gấp thì thầy trò nhà ngươi cứ việc đem quân tiến trước cũng được”.
Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1788) Ngô Văn Sở từ núi Tam Điệp cho tin cấp báo về Phú Xuân việc quân Tôn Sĩ Nghị dưới danh nghĩa “cứu Lê” đem quân vào Thăng Long, khí thế rất mạnh mẽ.
Bắc Bình Vương tỏ ra rất bình tĩnh.
Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy chính vị hiệu để buộc lấy nhân tâm, dương thanh thế rồi sẽ tiến quân ra Bắc. Bắc Bình Vương cho là phải liền cho đắp đàn Giao ở Bàn Sơn, phía Nam núi Ngự Bình tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang.
Từ giã Bàn Sơn, đoàn quân thủy bộ của Bắc Bình Vương như hùm beo, tràn đầy hùng khí rầm rộ tiến ra Bắc Hà mạnh như thế chẻ tre, bạt núi. Ngày 29 đại quân tới Nghệ An. Ở đây Vương cho lấy thêm lính mới, cứ ba xuất đinh lấy một, quân số cộng lại được 10 vạn và tượng binh được vài trăm con. Thân quân Thuận, Quảng chia làm 4 doanh: Tiền, Hậu, Tả, Hữu, lính mới sung vào Trung quân.
Trừ đám tân binh còn những thân quân của Vương vốn được tập tành thuần tục đã lâu, chiến đấu dẻo dai, bơi lội giỏi, đi đứng rất nhanh. Vương nảy ra sáng kiến để cuộc Bắc tiến được cực kỳ thần tốc, cho hợp ba người làm một tốp rồi lần lượt thay phiên để võng nhau (chắc hẳn lúc đó võng làm bằng tre vì tre là thứ vật lieuj dễ có nhất ở khắp nước ta và có thể làm thành chiếc võng giản dị nhất và mau chóng nhất).
Nhờ có sự chuyển vận tối tân và kỳ dị này quân Tây Sơn đi rất nhanh và đỡ cả sự mệt nhọc. Ngày 20 tháng 12 năm ấy đại quân đến núi Tam Điệp nơi tiếp giáp của hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình. Tư Mã Sở và Nội Hầu Lân ra đón cùng xin chịu tội đã phải rút lui trước quân địch. Vua Quang Trung chỉ quở trách qua loa.
Để nuôi lòng kiêu căng của giặc, vua Quang Trung vừa cho gấp rút tiến quân vừa cử một sứ đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tổng đốc họ Tôn với ba đạo bẩm văn (một của Lê Duy Cẩn, một của các cựu thần nhà Lê, một của nhân dân) bày tỏ sự tình phải thay nhà Lê và ngỏ ý “cung thuận” với “thiên triều”, đồng thời nhà vua lại nộp trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh có bón chục người bị tướng Tây Sơn bắt được khi còn đóng ở Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân dân sứ đoàn lại, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và cho biết sẽ bắt nhà vua cùng đánh tới Quảng Nam cho sạch cả gốc lẫn ngọn.
Ngày 30 tết, quân Tây sơn vượt qua bến bò Gián Khuất. Tướng nhà Lê trấn giữ Sơn Nam (Nam Đinh) là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy về sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam. Bọn thám tử của nhà Thanh cũng bở vía lẩn nốt bị đuổi đến Phú Xuyên (Hà Đông) rồi bị bắt hết. Giặc mất liên lạc nên không biết chiến cuộc đã xảy ra bất lợi cho chúng tại miền Nam trung châu xứ Bắc thưở đó.
Mồng 3 tháng Giêng Kỷ Dậu (1789), nửa đêm giặc Thanh đang ngủ kỹ trong đồn Hà Hồi, tiếng loa, tiếng trống bỗng nổi lên, tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng như có thiên binh vạn mã đang ào tới gây nên một cuộc khủng khiếp như trời sắp long, đất sắp lở.
Quân Thanh không còn hồn vía liền kéo ngay cờ hàng. Quân của Vương ở đây không tốn một mũi tên, một hòn đạn, đàng hoàng vào tiếp thu quân nhu và khí giới của giặc. Ngày mồng 5. Đầu trống canh năm, vua Quang Trung cho thu quân lương vào một khu rồi truyền đốt sạch. Ngài quấn chiếc khăn vàng ở cổ tỏ lòng quyết tử với giặc rồi xắn áo cưỡi voi thúc quân xung phong vào phá đồn Ngọc Hồi; đi trước ngài là đạo tượng binh hơn một trăm con. Đạo tương binh này có hiệu lực như một đoàn thiết giáp xa phá đồn trại rất mạnh.
Quân Thanh ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa gặp voi hoảng sợ, rống lên rồi chạy nhảy tán loạn. Địch bị tan vữ ngay hàng ngũ, vội vã rút vào trong cố giữ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Đạn của giặc trong đồn bắn ra như mừa rào. Quân ta vẫn tiến một cách cảm tử. Để tránh tên đạn, quân ta lấy 60 tấm ván gỗ, cứ ba tấm xếp lại thành một bó ngoài phủ rơm nhào với bùng rồi 10 người khiêng một bó đi trước, lưng đeo đoản đao, theo sau 20 khinh binh tiến thành hàng chữ nhất. Trời tối mịt không trăng, không sao. Quân Thanh đốt thuốc sung khói mù mịt bốc ra do gió Bắc thổi tới, quân ta mở mắt, thế trận gần như ngừng lại rồi lát sau trời quay gió nồm khói lại trở lại phía địch. Đám quân có ván rơm liền lăn xả vào tiền tuyến, quăng ván xuống đề lấy chông. Bọn có đoản đao ùa theo, lướt qua làn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước lũ.
Tại đây hai quân đánh giáp lá cà. Lớp này ngã lớp kia lại xông tới. Sắt thép va vào nhau vang lên những tiếng lanh lảnh, như gào thét ghê hồn. Thân người đổ xuống như rạ. Mùi thịt cháy khét lẫn với mùi thuốc súng và máu tanh nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực góc trời. Người ngựa chỉ là những bóng đen nhào lộn, lăn xả vào nhau, vung gươm giáo đâm nhau tới tấp như diễn một cảnh loạn xạ trong âm ty, địa ngục.
Súng nổ rền động cả không gian trong đêm dày đặc. Muôn nghìn tiếng hò hét, tiếng kêu khóc chen nhau giữa tiếng trống, tiếng loa, tiếng thanh la gây nên một không khí đầy khủng khiếp đè nặng xuống chiến trường. Cuộc chém giết mỗi lúc một thêm tàn ác, man rợ, cuồng nhiệt.
Quân Thanh chịu không nổi cắm đầu, cắm cổ chạy. Chính họ lại rơi vào các máy ngầm hay các nơi có rắc chông do họ đặt sẵn từ trước. Địa lôi nổ ầm ầm làm chúng tan ra như xác pháo. Đồn Ngọc Hồi thất thủ. Đoàn quân chiến thắng của ta hò reo tiến thẳng về phía Thăng Long hạ thêm được hai tiền đồn của giặc ở đây là đồn Văn Điển và Yên Quyết.
Giặc tổn thất quá nửa phần quân số, tai hại nhiều hơn cả là các tướng lĩnh: Đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Triều Long, Tả dực Thượng Duy Thăng…bỏ mạng ngay tại chiến địa. Cùng lúc này là lúc quân Tây Sơn đang thắng ào ạt, một đạo quân do Đô Đốc Long cầm đầu theo kế hoạch đã tiến đến Khương Thượng, vây kín đồn binh của Sầm Nghi Đống. Quân Bắc cố cầm cự, nhưng khi kiệt sức đến nơi vẫn không được tiếp ứng người và đạn dược. Chủ tướng họ Sầm không chịu hàng, trốn ra Đống Đa thắt cổ tự vẫn trên một cành đa. Cuộc chiến đấu đã kéo dài được suốt một đêm, tới sáng thì dứt. Tàn binh của giặc chạy tản ra các nơi. Vua Quang Trung đã liệu trước đặt sẵn quân từ Thanh Trì sang Hà Đông chỗ thì đón đánh, chỗ làm nghi binh khiến từ làng Đại Áng sang đến làng Quỳnh Đô hàng vạn quân Thanh bị chết vì voi giày đạp hay bị phục kích.
Khoảng giờ Thân (4 giờ chiều) mồng 5 Tết, vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi ung dung tiến vào kinh đô nhà Lê đúng lời đã hẹn từ 20 tháng Chạp. Chiếc áo bào đỏ của người anh hùng dân tộc qua nhiều trận huyết chiến đã đổi màu đen cháy vì hơi khói của thuôc súng.
Ngày hôm trước (mồng 4) Tôn Sĩ Nghị được tin báo cấp tốc rằng các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi bị phá, đã cho Thanh Hùng Nghiệpđi cứu thì sáng sớm đã thấy phía Tây Bắc chìm trong khói lửa, súng nổ không ngớt. Kỵ binh đi dọ thám về cho hay đồn Điền Châu cũng đã bị hạ, quân Nam đang ầm ầm kéo vào các cửa ô. Nghị mất tinh thần không kịp đóng yên ngựa cùng vài thân binh vượt cầu phao trên sông Nhị Hà chạy sang Bắc Ninh.
Quân đội các doanh cũng chạy theo chủ tướng, xô đẩy nhau không còn chút gì là trật tự. Cầu phao bị đè nặng, chịu không nổi rồi hàng vạn con người bị hất xuống lòng sông làm tắc cả dòng nước. Tiếng rên than, kêu khóc vang cả một góc trời. Nghị chạy đến Phượng Nhỡn nghe nói quân Tây Sơn từ mặt Đông sắp tới chẹn đánh, sợ quá. Mấy kẻ thủ túc vất vả cả sắc thư, cờ hiệu, bài lệnh, ấn tín cho dễ thoát thân. Hai đạo quân của Vân Nam, Quí Châu vừa sang tới Tây Sơn nghe Nghị thua chạy cũng vội rút lui nốt. Thế là chỉ trong vòng 7 ngày chiến đấu ào ạt, vua Quang Trung đã tiêu diệt được hai trăm nghìn quân Thanh mau như chớp ngoáng. Đây là một vũ công oanh liệt đáng xếp vào bậc nhất trong các vũ công lớn lao của các danh tướng cổ kim trên thế giới.
Nhuwngq uân ta còn bắt được một tài liệu vô cùng quí giá do Tôn Sĩ Nghị quẳng bỏ hay đánh rơi trong lúc hốt hoảng trên con đường gần Phương Nhỡn. Đó là một sắc thư bí mật của vua Càn Long gửi họ Tôn có những chỉ thị đánh chiếm nước ta để làm thuộc quốc như xưa.
3 – Cuộc Giao Thiệp Của Tây Sơn Với Thanh Đình
Tin Tôn Sĩ Nghị và hai chục vạn quân Thanh bị đại bại ở Thăng Long bay về đến bắc triều làm cho vua càn Long và các đình thần vô cùng căm tức. Rồi Thanh triều cử ngay Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị làm Lưỡng Quảng Tổng Đốc đề xuất 50 vạn quân, định ngày kéo xuống Việt Nam. Biết chưa phải lúc gây một cuộc trường chiến với nhà Thanh, vua Quang Trung cho quan sang giao thiệp với Phúc Khang An và Thanh Hùng Nghiệp là Tả Giang Bình bị Đạo để mở cuộc giảng hòa. Phúc Khang An thấy quân ta đang mạnh nên trong bụng dã có ý muốn làm hòa lại được vua Quang Trung cho vàng bạc nên cùng với Các thần là Hòa Thân đề nghị bãi binh.
Phúc Khang An còn đề nghị phong vương cho Nguyễn Huệ vì con cháu nhà Lê không còn đủ tư cách làm chủ nước Nam nữa. Việc này được thực hiện vào ngày 26 7 năm Kỷ Dậu (1789). Để biết mặt người anh hùng đã phá cả 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị nhanh như chớp ngoáng, vua Càn Long giáng chỉ vời Quốc Vương An Nam sang chầu. Vua Quang Trung chọn Phạm Công Trị có hình giáng giống mình đi thay trá làm quốc vương. Cùng đi với giả vương có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn. Tổng Đốc Lưỡng Quảng và Tuần phủ Quảng Tây phải đưa phái đoàn lên Yên Kinh. Tại đây vua Quang Trung được tiếp đón rất long trọng và lúc về nước được vua Càn Long sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần để ban cho cùng các quý vật.
4 – Chính Trị Của Vua Quang Trung (Việc Nội Trị)
Sau khi nhà Thanh đã thừa nhận vua Quang Trung là Quốc Vương An Nam, Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) ở lại đất Tàu, nhưng ở trong nước em là HOàng ba Lê Duy Chỉ vẫn hiệu triệu các cố thần nhà Lê mưu việc khôi phục.
Duy Chỉ nhờ có thổ tù châu Bảo Lạc, trấn Tuyên Quang là Khoan Triều chiêu binh mãi mã, khi ẩn khi hiện ở vùng Thượng du Bắc Hà. Binh đội Tây Sơn dẹp mãi không yên.
Sau này Duy Chỉ hoạt động dần xuống các vùng Trung du như Mục Mã, Thái Nguyên và chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bằng làm căn cứ để xuất phát xuống Thăng Long. Tại đây Duy Chỉ được bọn Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng giúp sức.
Có thời ông Hoàng ba nhà Lê đã liên kết được cả với chính quyền Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quí Hợp mưu đánh Nghệ An.
Năm Canh Tuất (1790) Đại tổng quản Trần Quang Diệu và Đô Đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 binh của trấn Nghệ An đi đánh dẹp. Thắng được liên quân của nhà Lê ở đây, quân Tây Sơn vây luôn vùng Bảo Lạc là nơi lẩn lút cuối cùng của Duy Chỉ. Duy Chỉ bị bắt sống cùng với hai thổ tù kể trên nhốt vào cũi đem về Thăng Long. Ngoài việc đề kháng của Lê Duy Chỉ đáng kể hơn cả, còn những vụ chống đối lẻ tẻ có tính cách địa phương như vụ Trần Quang Châu vào năm Quang Trung thứ nhất (1788) – vụ Dương Đình Tuấn người huyện Yên Thế (Bắc Giang) đem hai con và cháu chống nhau với Tây Sơn khi vua Chiêu Thống chạy đến huyện Nhân Mục (1788) – vụ Phạm Đình Đạt gồm hai anh em là tạo sĩ Phạm Đình Phan và tiến sĩ Phạm Đình Dữ, tại Võ Giàng (Bắc Ninh)…Các liệt sĩ này đều thất bại hay tử tiết để thỏa lòng trung với một triều đại mà họ nặng cảm tình theo giáo lý Khổng Mạnh, hoặc để tỏ sự bất cộng tác với tân chính quyền.
Việc Quân Sự
Vua Quang Trung lên ngôi từ 1788 đến 1792 thì mãn phần, như vậy chánh quyền trong tay ngài không được lâu dài là bao nhiêu. Lại nữa, trong 5 năm đó ngài có mấy khi được ngơi tay, rảnh trí để lo việc nội trị nếu ta bàn đến việc nội trị của ngài.
Tuy nhiên về tổ chức binh chế đời Tây Sơn ta thấy cũng có vài điều đáng chú ý. Như nhiều triều đại trước, Tây Sơn cũng có ngũ quân: Tiền, hậu, trung, tả, hữu. Đó là 5 đạo quân trong hồi đánh nhau với nhà Thanh. Ngoài ra nhà vua còn nhiều đội quân đặc biệt khác lấy hiệu là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiện thành, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan. Ta có thể đoán ngũ quân là năm đạo quân căn bản và 11 đội quân sau đây là những đạo quân đặc biệt để tăng cường cho ngũ quân và thường được cử đi bình định hay chiến tranh đại qui mô mới sử dụng đến cả ngũ quân. Ngũ quân và 11 đội quân trên đây hợp thành chủ lực của quốc gia.
Còn ở các phủ huyện thì quân Tây Sơn chia ra từng đạo, cơ, đội, lấy Đạo thống cơ, Cơ thông đội, có võ phân xuất cầm đầu.
Dưới triều Tây Sơn vì đánh ngoại xâm là một việc hết sức quan trọng, đã có phen chính quyền tổng động viên đinh tráng từ 12, 13 đến 60 tuổi.
Tinh thần chiến đấu của binh đội Tây Sơn theo nhận xét của nhiều nhà truyền giáo ngoại quốc, rất là cao. Người lính nào cũng gan dạ, thuần thục, một chống nổi mười nên dánh đâu thắng đấy.
Nghe lời Ngô Thời Nhậm vua Quang Trung theo chính sách nhà Chu, nhà Hán lấy người đồng tính làm tay chân để giữ địa vị và chính quyền, do đó ngài phong cho con cả là Quang Toản làm Thái tử, Quang Thùy làm Khanh công, lĩn Tiết Chế Bắc Thành thống xuất thủy bộ chư quân, Quang Bàn làm tuyên công, lĩnh Đốc trấn Thanh Hóa kiêm Tổng lý quan dân chính.
Bên cạnh ba vị hoàng tử này có các quân thần, danh tướng giúp sức.
Quan Chế
Bộ máy triều đình có những quan chức như sau: Cấp trung ương: Tam công, Tam thiếu, Đại chủng tể, Đại tư đồ, Đại tư khấu, Đại tư không, Đại tư cối, Đại tư lệ, Thái úy,Ngự úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thu sảnh, Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị Trung đại học sĩ, hiệp biện đại học sĩ, Thị trung ngự sử, Lục bộ thượng thư, Tả, hửu đồng nghị, Tả, hửu phụng nghị, Tư vụ, Hàn lâm.
Tại các trấn có: về võ có Trấn thủ, văn có Hiệp trấn.
Tại mỗi huyện có: Võ phân suất, Văn phân trim Tả quản lý, Hữu quản lý. Văn quan phụ trách binh lương, thuế khóa, tù tụng. Võ quan cai quản và thao luyện binh đội.
Hành chính xã, thôn có:
- Xã trưởng, thôn trưởng, tổng trưởng (như cánh tổng đời nay).
Các Địa Hạt Hành Chính Trong Nước
Tình hình chính trị, xã hội trong nước dưới triều Tây Sơn mới được ổn định hoàn toàn từ Đàng trong ra tới Đàng ngoài, tức là từ Trung Việt trở ra Bắc Việt. Còn miền Nam Việt bấy giờ thuộc Đông Định Vương Nguyễn Lữ nhưng vẫn luôn luôn bị quân Cựu Nguyễn (Nguyễn Ánh) dánh phá nên chưa sắp đặt, mở mang được bao nhiêu. Riêng về đất đai thuộc ảnh hưởng của Quang Trung thì phải kể từ Thuận Hóa ra Bắc. Vua Quang Trung cho Nguyễn Thiếp tức là La Sơn Phu Tử xây dựng lại Nghệ An một đô thành nữa gọi là Trung Đô, Nhà vua rời ra đó có ý muốn khống chế miền Bắc về chính trị cũng như quân sự. Trung đô thành lập xong thì Thăng Long đổi ra Bắc Thành, hẳn để người ta quên dần nhà Lê, một vương triều dài 360 năm đã đặt nhiều kỷ niệm sâu đậm trong lòng nhân dân.
Bắc Hà từ đời nhà Lê đã chia ra 11 xứ (hay trấn):
1) Xứ Nam (Sơn Nam). 2) Xứ Đông (Hải Dương). 3) Xứ Bắc (Kinh Bắc). 4) Xứ Đoài (Sơn Tây). 5) Xứ Yên Quảng (Hải Ninh). 6) Xứ Lạng (Lạng Sơn). 7) Xứ Thái (Thái Nguyên). 8) Xứ Tuyên (Tuyên Quang). 9) Xứ Hưng (Hưng Hóa). 10) Xứ Thanh (Thanh Hóa). 11) Xứ Nghệ (Nghệ An).
Chín xứ trên được để nguyên vẹ, duy hai xứ Sơn Nam và Thanh Hóa có sự thay đổi như sau:
A) Sơn Nam nay thành hai trấn: phía trên gọi là Nam hay Thượng trấn. Phía dưới giáp biển gọi là Nam Hạ hay Hạ Trấn. Phố Hiến trước là sở lỵ của Sơn Nam, bây giờ là sở lỵ của Hạ Trấn đóng ở Vị hoàng cách Phố Hiến vài dặm; còn của Thượng trấn thì đóng ở Châu Cầu tỉnh Hà Nam.
B) Thanh Hóa cũng chia làm hai: nửa ra Bắc gọi là Thanh Hóa ngoại; nửa về Nam gọi là Thanh Hóa nội.
Mỗi xứ (tức tỉnh) gồm có một số phủ, huyện và châu (nếu gần sơn cước), rồi mỗi phủ, huyện chia ra nhiều tổng, xã, nếu xã lớn thì chia thêm ra thôn.
Kẻ chợ là thành Thăng Long trước đây nay gồm một phủ, hai huyện và mười tám phường.
Thuế Khóa và Nông Chính
Dưới đời Lê dân phải đóng một thứ tiền xâu dịch cũng có thể coi như là một thứ thuế dùng vào các việc đê điều, tạp dịch. Thuế này còn được gọi là “điệu” hay “điệu tiền”. Nhà nước thu của dân rồi khi có việc tạp dịch lấy tiền này mà thuê mướn người làm. Đây là một thứ thuế bắt chước phép cố dịch của nhà Đường (618 – 906). Đến đời Quang Trung thì phép đánh thuế này bỏ đi có ý giảm bớt sự gánh vác cho dân. Từ năm có giặc Thanh sang nước ta (1788) loạn ly đã hại, dân lại mất mùa luôn luôn, thêm vào dịch lệ tràn khắp nơi dân chết quá nửa. Nhà nước phải đánh thuế vào các tư điền để lấy gạo, lúa.
Trong giai đoạn này đinh thì ít, điền thì nhiều, nhiều nhà giàu bỏ ruộng không nhận để đỡ nộp thuế. Tập “Hân Các Anh Hoa” của Ngô Thời Nhậm có chép bài chiếu “Khuyến Nông” của vua Quang Trung nêu ra hai điều mà chính quyền đời bấy giờ lo lắng nhất là:
1) Sao cho ruộng đất xuất sản được nhiều.
2) Sao cho nhân khẩu gấp rút tăng gia để dân số chóng đông đảo.
Đối với điều thứ nhất, vì ruộng bị bỏ hoang nhiều nên kém sinh sản lượng. Nhà nước ra lệnh cho những người di cư trốn tránh sưu dịch hay sang ở quê mẹ, quê vợ, hay vì đi buôn bán xa xôi nếu đã ngụ đâu thì trên ba đời mới được ở lại nơi đó, còn phải trở về sinh quán làm ăn. Những người này được lĩnh hay phải lĩnh ruộng đất để cầy cấy, không được từ chối. Các xã trưởng, thôn trưởng phải xem lại sổ đinh và điền thực sự có bao nhiêu. Hai thứ sổ sách này phải trình các viên phân suất, phân tri ở huyện đệ lên triều đình xét, rồi quan sẽ đến khám lại cho việc bổ thuế được công bằng.
Nếu xã nào không cương quyết áp dụng lệnh hồi cư và thể lệ cư ngụ đều bị nghiêm trị. Nếu xã nào để ruộng hoang đến hạn mà chưa khai khẩn thì chức dịch phải chịu trách nhiệm nghĩa là chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà nộp gấp bội.
Ruông tư khi đã sáp nhập vào hạng công điền thì thuế tính theo ngạch công điền. Các mệnh lệnh trên đây xét ra chỉ có mục đích đem lưu dân về làng cũ, khuyến khích và thúc đẩy các nông gia cầy cấy để xây nền thịnh vượng chung cho quốc gia mà thôi. Ruộng tư và ruộng công bấy giờ được chia làm 3 hạng để chịu riêng mỗi hạng một thứ thuế.
Công điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 150 bát thóc
Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 80 bát thóc
Hạng ba mỗi mẫu nộp: 50 bát thóc
Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng kẽm về thuế khoán kho. (mỗi bát nói đây độ nửa lít).
Tư điền:
Hạng nhất mỗi mẫu nộp: 40 bát thóc
Hạng nhì mỗi mẫu nộp: 30 bát thóc
Hạng ba mỗi mẫu nộp: 20 bát thóc
Cả ba hạng mỗi mẫu phải nộp mỗi mẫu 30 đồng kẽm về thuế khoán kho, còn tiền thập vật theo như ruộng công trên đây.
Ngoài thuế ruộng, triều Quang Trung cũng theo lệ cũ đánh những thứ thuế như dung tiền (thuế thân do chúa Trịnh đặt ra từ năm Quí Mão 1723 mỗi xuất là một quan hai tiền), cước mễ…
Năm Quang Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa hòa gió thuận. Cuộc sinh hoạt đã bắt đầu đầm ấm, phát đạt tới nửa phần thuở thanh bình trước do chính sách ưu ái nhân dân của triều đình. Xin nhắc rằng nếu năm nào có tai trời ách nước, triều đình lại ra ân xá thuế, giảm tội cho dân chúng.
Chính sách nhân hậu này của triều Tây Sơn được nhiều người ngoại quốc ca ngợi và minh chứng: tỉ dụ nhà du hành người Anh là Ông Crawford đến viếng nước ta vào năm 1822 là năm vua Gia Long đã mất, và Minh Mạng lên ngôi được 3 năm. Ông chống hẳn lại những lời phê bình bất công của mọt số sử gia Tây phương đối với nhà Tây Sơn. Ông viết như sau:
“Bảo rằng nhân dân khao khát dòng vua chính thống được khôi phục như một số người Tây phương chỉ biết có tán tụng vua Gia Long chưa chắc đã đúng và triều Tây Sơn đâu có thất nhân tâm như thế. Tôi được một số nhà buôn Trung Hoa đã sinh sống lâu năm tại xứ này dưới quyền chúa Nguyễn và cả dưới quyền nhà Tây Sơn đoan chắc với tôi rằng các nhà cầm quyền Tây Sơn cai trị dân chúng còn công bằng và khoan hòa hơn nhà vua hiện tại (chỉ Minh Mạng và phụ vương của ngài là vua Gia Long)…”
Việc Dùng Nhân Tài Việc Học Và Khoa Cử
Quang Trung Hoàng Đế tuy là một quân nhân thượng võ, múa gươm trên mình ngựa mà lấy thiên hạ, nhưng sau cuộc đại định cũng đã tỏ ra biết chú trọng đến nhân tài, văn hóa và chính trị. Trong các sự việc này nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt phát sinh ở một tinh thần cách mạng và quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến.
Trong việc dùng người, nhà vua biết phục thiện nghĩa là nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, nhà vua biết lấy lễ tân sư (vừa coi là khách vừa coi là thầy) để mời tham gia việc nước. Đó là trường hợp đối xử với Nguyễn Thiếp tức La Sơn Phu Tử, Nguyễn Đăng Trường, Ngô Thời Nhậm, Pham Huy Ích…
Về việc học, nhà vua cho lập trường học từ ở các thôn xã trở lên, dùng đền, chùa làm nơi giảng dạy. Các Huấn đạo được cử đến đây để khuếch trương nền giáo dục. Dưới quyền các quan Huấn đạo là các nho sĩ lựa trong đám người có học và có hạnh.
Khoa thi Hương được mở ra để lấy khóa sinh tú tài, hạng ưu được vào quốc học, hạng thứ cho vào xã học.
Các ông Cống triều Lê cũng được đắc dụng, nếu chưa làm chức gì triều đình vời ra nhận các chức Huyện quan Huấn đạo.
Các cựu nho sinh và sinh đồ phải đợi khoa thi, nếu chưa làm chức gì triều đình vời ra nhận các chức Huyện quan hay Huấn đạo.
Các cựu nho sinh và sinh đồ phải đợi khoa thi, nếu là hạng ưu thì lấy đỗ, hạng liệt thì bãi về xã học.
Còn loại sinh đồ mua bằng ba quan (đời Lê cần tiền đã có việc buôn quan, bán tước, việc học hành thi cử cũng thành chuyện thương mãi nên mất cả giá trị) thì cũng bị loại làm dân nghĩa là phải chịu những sự gánh vác các tạp dịch như mọi người chớ không được miễn như xưa.
Đáng chú ý là việc trọng dụng chữ Nôm đã biểu lộ một tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế của vua Quang Trung, nghĩa là tuy trong khoa cử, học hành chữ Nho vẫn được dùng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, văn Nôm đã được đặc vào một địa vị quan trọng.
Việc Đúc Tiền và Sự Thay Đổi Thái Độ với Mãn Thanh
Vốn là con người có óc thực tế, vua Quang Trung sau khi lên ngôi liền nghĩ ngay việc đúc tiền bằng đồng để tiêu dùng trong nước và có sự thuận tiện trong việc thương mãi.
Rồi đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê. Năm Quang Trung thứ tư (1791) do cần chuẩn bị việc đánh Mãn Thanh, nhà vua đã cho đi thu hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để đem làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên.
Nhà vua rất chú trọng đến việc khuếch trương kinh tế, thương mãi ra tới bên ngoài nên phái người sang điều đình với Mãn Thanh mở chợ ở Bình Thủy Quan thuộc tỉnh Cao Bằng và ở Du Thôn ải, tỉnh Lạng Sơn.
Vua Quang Trung lại còn xin lập Nha Hàng ở phủ Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây cũng không ngoài mục đích đưa dân ta sang làm ăn buôn bán với Trung Quốc.
Các điều yêu cầu trên đây được vua Thanh thỏa mãn cả, nhưng một việc nhà vua không hài lòng, đó là chuyện đòi bảy châu thuộc Hưng Hóa xưa.
Vua Quang Trung lấy làm tức giận lắm và càng hăng hái trong ý chí vẽ lại mảnh địa đồ Việt Hoa để rửa cái hận nghìn thu trên Lịch Sử bị mất đất về phương Bắc.
Nhưng trước khi tính chuyện đánh Thanh, nhà vua cho quấy rối nội địa Trung Quốc bằng cách lợi dụng đảng “Thiên Địa Hội” làm chuyện khiêu khích Mãn Thanh.Người của đảng chính trị này là những di dân, chí sĩ của nhà Minh thuộc giống Hán vốn bất phục triều Thanh bí mật tổ chức cơ quan này tính xoay lại thời thế.
Các biên thần nhà Thanh tuy biết rõ Đại Việt có bí mật nhúng tay, nhưng cũng phải bấm bụng vì thấy lực lượng quân sự của nước ta đang thịnh phát.
Bãi Việc Cống Người Vàng
Một quốc hận đáng kể cho người Việt từ đời Hậu Lê tới nay còn là một kỷ niệm chua cay, tức là việc cống người vàng.
Nguyên trong cuộc kháng Minh vào ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427) hai tướng của Bình Định Vương Lê Lợi là Lê Sát và Trần Lựu chém được Chính Lự tướng quân An Viễn Hầu Liễu Thăng của địch tại Mã Yên Sơn (làng Mai Sao, thuộc Ôn Châu tỉnh Lạng Sơn) nhà Minh lấy làm đau đớn lắm vì Liễu Thănglà một danh tướng của họ. Sau này hai nước mở cuộc giảng hòa, Minh triều đã bắt đền chúng ta phải đúc người vàng thế mạng cho viên tướng tử trận đó.
Vua Lê Thái Tổ thấy dân tình đau khổ, nheo nhóc từ cuộc bại trận của nhà Hồ đến nhà Hậu Trần, rồi lại 10 năm chiến tranh vừa xong, trước sau ngót ba chục năm ròng, không muốn kéo dài thêm chiến họa e hao mòn dân số và tài nguyên quốc gia nên phải nhắm mắt chấp nhận điều kiện trên đây của Minh triều.
Sau Tiền Lê đến Mạc và các vua Lê đời Trung Hưng cũng vẫn tiếp tục việc cống người vàng. Nhà Tây Sơn khi đã yên vị không chịu lệ này do đó vua Quang Trung có gửi thư cho Phúc Khang An xin bãi bỏ, vua tôi nhà Thanh phải nghe theo.
Đi xã hơn nữa, năm Nhâm Tý tức Quang Trung thứ 5, nhà vua bắt đầu thi hành công chuyện nói trên. Ngài gửi chọn biên thần nhà Thanh hai bức thư liên tiếp nhờ đề đạt lên vua Càn Long ngỏ ý cầu hôn với công chúa Thanh và đòi đất Lương Quảng để làm quốc đô. Sự thực nhà vua chỉ muốn một việc khiêu khích để lấy cớ khởi binh nếu Thanh đình bác bỏ lời yêu cầu của Đại Việt.
Hai việc yêu sách[3] của vua Quang Trung nêu trong tấu chương đều được đem ra đình nghị và đều được chuẩn cả: việc xin hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây thì vua Thanh ưng cho một, tức là cho tỉnh Quảng Tây để đóng đô. Việc cầu hôn được mỹ mãn hơn nghĩa là sau ngày tiếp Nam sứ tại Lương Các, vua Càn Long liền sai bộ Lễ sửa soạn nghi lễ cưới gả và định ngày cho Công chúa lên đường. Xem thế ta đủ hiểu thuở bấy giờ nhà Thanh đã nhượng bộ đến bực nào đối với Đại Việt ta. Tiếc thay sau đó mấy hôm thì sứ đoàn được tin vua Quang Trung mất vào ngày 29 tháng 7 (Nhâm Tí 1792, miếu hiệu là Thái tổ Vũ Hoàng Đế)[4].
Câu chuyện khôi phục Lương Quảng trên bản đồ của người Việt hay cuộc đánh chiếm Trung Quốc và cuộc nhân duyên Việt Hán từ đấy tan ra mây khói vì vua Quang Trung qua đời rồi thì nhà Thanh còn sợ ai nữa!
4 – Vua Chiêu Thống Bị Nhục Trên Đất Tàu
Sau khi Tôn Sĩ Nghị bại trận chạy về Nam Ninh (Quảng Tây) Khang An đến thay Sĩ Nghị, vì đã có chủ trương giảng hòa với nhà Tây Sơn nên cho người đưa vua Chiêu Thống về Quế Lâm cùng một số văn thần võ tướng là các ông Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Phan Khải Đức… Khang An cho Đinh Nhạ Hành giữ chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm Đô Tư Liễu Châu còn những người khác bị phân tán đi nhiều nơi. Duy chỉ vài người thân thần của nhà vua được ở lại.
Tháng 4 năm Kỷ Dậu (1789) vua tôi nhà Lê vào yết kiến Khang An xin xuất quân về đánh quân Tây Sơn, Khang An tìm cớ khất quanh rồi khuyên nhà vua và các bề tôi nên cắt tóc thay áo theo Tàu để khi về nước, Tây Sơn sẽ không nhận đượcmặt. Vua tôi nhà Lê tin lời cho rằng việc binh cần phải biến trá, có ngờ đâu Khang An chỉ muốn mượn hình thức này để tâu lên vua nhà Thanh rằng: “Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không muốn xin viện binh nữa, đã gióc tóc, thay áo, sống theo người Tàu và xin ở lại đất Tàu”. Vua nhà Thanh liền xuống chỉ bãi binh và triệu vua Lê lên Yên Kinh. Đến đây được mấy hôm, Đô thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản, phụng chỉ vua Thanh phong chức Tả lĩnh và trao mũ áo quan Tam phẩm cho vua Chiêu Thống.
Nhà vua biết mình bị lừa đau đớn lắm bèn cùng bề tôi là Phạm Như Tùng, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích uống máu ăn thề, định sống chết thế nào cũng xin cho được viện binh mới nghe. Nếu việc này không xong thì xin cho hai tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang để phụng thờ tổ tiên hoặc xin về nước hợp cùng Cựu Nguyễn ở Gia Định mưu việc khôi phục.
Thấy thái độ quyết liệt của vua tôi nhà Lê, Kim Giản bàn với Hòa Thân di chuyển vua Chiêu Thống và các vong thần mỗi người đi một nơi. Việc này xảy ra vào năm Tân Hợi (1791), kẻ đi Phụng Thiên, người đi Trực Lệ riêng Phạm Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu vua.
Một hôm vua Chiêu Thống cưỡi ngựa đến tư dinh Kim Giản để can thiệp về vụ các tùy thuộc bị lưu đày, nhà vua gặp Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh, lính canh gác không cho Chiêu Thống vào vườn, người đi hầu vua Lê là Nguyễn Văn Quyên thấy bọn lính Tàu vô lễ với chúa mình liền lấy gạch ném vào chúng và hết lời chửi rủa. Bọn lính xúm vào đánh Quyên chẳng bao lâu Quyên bị bệnh mà chết.
Từ giai đoạn này trở đi, Chiêu Thống biết rằng hết trông cậy vào người Thanh, nên tuyệt vọng, thân thể cùng tinh thần mỗi ngày một hao mòn. Qua tháng 3 năm Nhâm Tí (1792) hoàng tử lên đậu mùa rồi chết. Nhà vua càng đau đơn thêm rồi thở hơi thở cuối cùng vào tháng 10 năm Quí Sửu (1793), thọ 28 tuổi. Nhà Thanh lấy lễ tước Công mà mai tang ở ngoài cửa Đông Trực. Sáu năm sau, tháng 11 năm Kỷ Mùi (1799) đời vua Gia Khánh, Hoàng thái hậu cũng qua đời. Xét ra, trên Lịch sử vua Chiêu Thống là một ông vua xấu sổ nhất. Thuở ấu trí cha là Lê Duy Vĩ bị chúa Trịnh hạ sát, mẹ con bị cầm tù khá lâu đến khi lên ngôi thì bị cảnh quốc phá, gia vong rồi bị nhục trên đất Tàu cho tới lúc không còn gượng sống thêm được nữa.
NHỮNG CUỘC CHIẾN TRANH CUỐI CÙNG GIỮA TÂN NGUYỄN VÀ CỰU NGUYỄN1 – Nguyễn Vương Quật Khởi (Tây Sơn Mất Gia Định)
Sau cuộc bại trận tháng tư năm Ất tị (1785) tại Mỹ Tho cùng với quân Tiêm, Nguyễn Ánh chạy qua Vọng Các nương nhờ Quốc vương xứ này sau bao nhiêu phen đào vong qua cá đảo Phú Quốc, Côn Lôn, Cổ Cốt, Panjang. Rồi Nguyễn Ánh gặp Giám mục Bá Đa Lộc cũng đi tị nạn tại một hòn đảo gần vịnh Komponsom. Vào tháng 2 – 1784, Giám mục bàn với Nguyễn vương nên cầu viện nước Pháp để gỡ nước cờ bí. Bấy giờ người Anh, người Hà Lan, người Bồ Đào Nha cũng có ý giúp Nguyễn Vương, nhưng chúa Nguyễn đã theo lời Bá Đa Lộc. Cuối năm 1784 Giám mục mang Thế tử Cảnh xuống tàu đi Pondchery (thuộc địa của Pháp ở Ấn Độ) để qua Pháp.
Sứ đoàn rời Pondichery vào tháng 7 – 1786 và tháng hai năm sau đã bước chân lên đất nước Pháp. Giám mục dã hết lòng vận đọng giữa Pháp đình về việc giúp cho Nguyễn, điều này theo sự trình bày của Giám mục còn có lợi cho nước Pháp là chiếm được một thị trường quan trọng ở Á Châu, một đất dụng võ ở Viễn Đông và với Nam Hà, Pháp có thể ngăn cản bước tiến của người Anh ở địa phương này nếu hợp tác được với Tây Ban Nha đang làm chủ quần đảo Phi luật Tân, lại nữa giúp chúa Nguyễn sau này thành công thì việc truyền giáo cũng có nhiều tương lai ở xứ này.
Vua Louis XVI liền ký hiệp ước tại Versailles ngày 28-11-1787 thuận giúp Nguyễn Vương 4 chiến hạm, 1750 sĩ quan và binh sĩ có đủ súng đạn (Điều 2) Giám mục thay mặt Nguyễn Vương nhận quyền sở hữu về cửa Hàn (Tourane) và đảo Côn Lôn sẽ thuộc cả Việt lẫn Pháp (Điều 5), nước Pháp được tự do đi lại và trú ngụ ở nước Nam, còn người ngoại quốc nào muốn nhập cảnh ở đây thì phải có sự chấp thuận trước của nước Pháp. Việt và Pháp lại tương trợ về quân sự mỗi khi hữu sự (Điều 8 và 9).
Trong khi GIám mục hoạt động ở Pháp thì Nguyễn Vương còn nương náu trên đất Tiêm đã giúp vua đánh quân Miến Điện và Mã Lai vào cướp phá xứ này Nguyễn Vương được tin anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lủng củng với nhau và quân của Nhạc ở Gia Định đã rút nhiều về Qui Nhơn, Nguyễn Vương liền cho người bí mật đến Hà Tiên cổ võ nhân tâm và tổ chức binh đội. Rồi Nguyễn Vương phải trốn về Nam Việt vào một buổi tối, sợ vua Tiêm giữ lại.
Tháng 7 năm Đinh Tị (1787) quân Nguyễn đánh vào Long Xuyên có kết quả. Nguyễn Vương mạo một bức thơ để Nguyễn Lữ hiểu lầm thái độ của viên Trấn thủ Sài Côn là Phạm Văn Tham, lợi dụng sự nghi ngờ của tướng Tây Sơn, Nguyễn Vương chiếm Sa Đéc, Vĩnh Long rồi đóng quân ở Mỹ Tho dùng nơi này làm căn cứ.
Ngày 7-9-1788 Nguyễn Vương đánh được Gia Định đuổi được tướng Phạm Văn Tham đang quyết tử giữ thành này. Từ giờ này trở về sau thành Gia Định nằm mãi mãi trong tay họ Nguyễn.
Nguyễn Vương liền thi hành ngay ở đây chính sách định quốc an dân. Việc cờ bạc, đàng điếm, mê tín nhảm nhí đều cấm ngặt. Các ngạch thuế khóa được đặt ra để lấy tiền nuôi quân đội và việc khẩn hoang, trồng trột được thúc đẩy rất là mạnh mẽ. Mười hai Điền Tuấn quan trong đó có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Lê Quang Định được cử ra để dạy bảo dân làm ăn cầy cấy. Thuế ruộng nộp bằng thóc. Ruộng đồng bằng nộp 100 cơ (mỗi cơ là 42 bát), ruộng đồi núi nộp 70 cơ trở lên. Binh sĩ cũng như phủ nộp đủ thì miễn cho một năm tạp dịch. Nhà nước cấp trâu bò và nông cụ cho ai quá nghèo rồi các thứ này được trả bằng thóc vào ngày mùa. Nguyễn Vương còn tổ chức các đồn điền ở những vùng cao nguyên. Khai khẩn ở đây là những đội gồm quân lính và dân chúng gọi là đồn điền đội, mỗi người phải nộp đồng niên 6 hộc thóc. Dân mộ được 10 người trở lên đi làm đồn điền thì cho làm cai trại và miễn sưu dịch. Nhờ có sự khôn khéo này Nam Kỳ xưa kia hoang vu dần dần trở nên trù phú, đông đảo và vui vẻ. Người ngoại quốc ra vào buôn bán tấp nập. Bấy giờ Nguyễn Vương chú ý rất nhiều đến việc mua các đồ đồng, sắt, gang, thép để làm quân khí và trả bằng ngũ cốc cùng đường cát.
Nguyễn Vương đang gặp may thì nhiều người Pháp do Giám mục Bá Đa Lộc chiêu mộ đã tới giúp. Nguyên hiệp ước Versailler tuy đã ký nhưng Pháp đình còn giao cho Toàn Quyền De Conway ở Ấn Độ nghiên cứu lại. Tướng De Conway phần vì không ưa giám mục, phần thấy chính giới Pháp có ý rụt rè về việc xuất quân bởi kém cả khả năng tài chính, ông ta lại sợ trách nhiệm nữa nên đã bác bỏ hiệp ức kể trên. Giám mục không còn cách nào khác hơn là xuất tài lực riêng của mình ra để chiêu binh, mộ tướng cho họ Nguyễn.
Tháng 9-1788, các tàu Dryade, Garonne, Đại Úy Cook và Moyse mang nhiều vũ khí đến Sài Côn và một số võ quan Pháp là: Olivier, Dayot, Vannier, Laurent Barizy, de Forsans phần nhiều sở trường về hải quân và tổ chức các ngành quân đội theo lối Âu Châu. Xét ra Giám mục đã đóng vai trò một Bộ trưởng Chiến tranh và Ngoại giao rất đắc lực cho Nguyễn Vương.
Từ giai đoạn này quân Gia Định mỗi ngày một mạnh bởi được chỉnh bị và cải tổ theo Tây phương về chiến thuật cũng như về chiến lược.
Tháng 3 năm Quí Sửu (1793) thế tử Cảnh được lập làm “Đông Cung” lãnh chức coi Tả quân danh.
2 – Nguyễn Vương Tấn Công Vào Qui Nhơn Lầm Thứ Nhất
Được Gia Định làm căn cứ có đủ thóc gạo nuôi quân, ngay năm sau là năm Canh Tuất, vào tháng tư (1790) vương cho Lê Văn Câu là Chưởng Tiền Quân đem 5000 quân thủy bộ ra đánh thành Bình Thuận, Võ Tánh và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí. Sau việc thất bại này Câu bị lột hết chức tước, lấy làm xấu hổ nên uống thuốc độc mà chết.
Những việc xuất quân của Gia Định trên đây xét ra không lợi. Bấy giờ là tháng 7, gió Bắc thổi mạnh phải đợi gió thuận thủy quân mới đi đánh nhau được. Cuối mùa Xuân năm Nhâm Tí (1792) quân Gia Định, do các tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot, Vannier đem các chiến hạm, chiến thuyền ra đánh thủy quân của Tây Sơn ở Thị Nại (cửa Qui Nhơn) rồi bỏ về.
Năm sau, Quý Sửu (1793) Thế tử Cảnh được chỉ định giữ Gia Định, Nguyễn Vương tự lĩnh thủy quân cùng bọn Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh đánh vào Nha Trang, lấy hai phủ Diên Khánh và Bình Khang rồi tiến ra đánh phủ Phú Yên; trong khi này lục quân của Tôn Thất Hội, Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành tấn công Phan Rí.
Thủy quân Gia Định toàn thắng, nhưng lục quân Gia Định chỉ hạ được phủ Bình Thuận mà thôi. Vương liền gọi bọn Thành tiến lên cùng hợp sức đánh Qui Nhơn. Trước thế mạnh của Gia Định, tại Thị Nại, Nguyễn Nhạc sai Thái tử Nguyễn Bảo ra cầm trợ. Vương cho Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn văn Thành đánh tập hậu, quân Tây Sơn thua to phải chạy về giữ thành Qui Nhơn. Thành này bị quân Gia Định phong tỏa rất là nguy ngập.
Vua Thái Đức phải cho người ra Phú Xuân cầu cứu vua Cảnh Thịnh tức Nguyễn Quang Toản vừa lên kế vị Quang Trung (1792). Quân của Toản vào giải vây, Nguyễn Vương liệu sức chống không nổi viện quân liền rút hết binh sĩ về Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay) rồi trở lại Gia Định và giao cho Nguyễn Văn Thành giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức giữ Bình Thuận.
Bọn Phạm Công Hưng giải vây cho thành Qui Nhơn xong thì vào lấy hết kho tàng và ra mặt chiếm đóng thành khiến vua Thái Đức uất lên, hộc máu mà chết. (Nguyễn Nhạc làm vua được 16 năm).
Cảnh Thịnh phong cho Nguyễn Bảo tước Công, cấp lộc một huyện gọi là Tiểu triều rồi cử Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ Qui Nhơn. Tuy vậy Bảo vẫn giận và qua hàng Nguyễn Vương[1].
Cuộc chiến tranh giữa Tân Nguyễn và Cựu Nguyễn vẫn tiếp tục. Quân Nguyễn tuy thường thắng trận nhưng vẫn không chiếm được Qui Nhớn. Năm 1797, vua Cảnh Thịnh đem nhiều lực lượng đến bảo vệ Qui Nhơn. Nguyễn Vương phải bỏ việc tấn công thành này rồi mang quân đánh lén cửa Hàn, phá được nhiều chiến thuyền của Tây Sơn rồi rút về Sài Côn.
Đầu 1798, Nguyễn Bảo đánh được vào Qui Nhơn báo tin cho Nguyễn Vương ra hợp sức, nhưng quân Nguyễn chưa ra kịp thì thành Qui Nhơn lại bị Phú Xuân tái chiếm và Bảo bị giết.
3 – Qui Nhơn Thất Thủ Lần Thứ Hai Và Thứ Ba
Đầu năm Giáp Dần (1794) như ta thấy Tây Sơn cho tướng Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, Trần Quang Diệu vây thành Diên Khánh. Đông Cung Cảnh phải cầu cứu về Gia Định. Đại binh của Nguyễn Vương ra giải vây được thì Diệu rút quân về. Võ Tánh rat hay Đông Cung Cảnh để giữ Diên Khánh.
Năm sau Diệu trở lại, Diên Khánh bị uy hiếp nặng nề, Nguyễn Vương lại đem thủy sư ra cứu. Lúc này giữa triều Tây Sơn, các đại thần bất hòa với nhau vì vua Cảnh Thịnh quá non nớt. Năm Ất Mão (1795) Thái sư Bùi Đắc Tuyeen cho Ngô Văn Sở ra Bắc thay Võ Văn Dũng. DŨng về Phú Xuân đến trạm Hoàng Giang gặp Trung thư lịnh Trần Văn Kỷ phải tội bị đầy ra đây. Kỷ vốn được Dũng quý trọng đã xui Dũng về trừ Bùi Đắc Tuyên. Dũng nghe theo nên liền mưu với Phạm Công Hưng đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên vào một đêm tối. Con Tuyên là Trụ đang ở Qui Nhơn cũng bị bắt nốt. Bọn Dũng còn lấy lệnh vua sai Tiết chế Nguyễn Quang Thùy giải Ngô Văn Sở về Phú XUân. Những người này đều bị cáo làm phản và dìm xuống sông mà chết. Thế lực nhà Tây Sơn từ đấy sút kém hẳn.
Năm Đinh Tị (1797) đánh không được Qui Nhơn, Vương để Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ Diên Khánh. Ảnh hưởng của Gia Định vẫn chưa ra khỏi địa phương này.
Năm Kỷ Vị (1799), Vương lại mang đại quân thủy bộ ra đánh Phú Yên, Qui Nhơn. Riêng thành Qui Nhơn cho đến bấy giờ rất là kiên cố, quân Nguyễn ra công mấy lần mà vẫn không lấy được. Năm ấy, Giám mục Bá Đa Lộc cùng Đông Cung Cảnh cầm đầu một đạo quân lớn đến bao vây phen nữa. Tháng tư Nguyễn Vương dẫn thủy quân đánh vào cửa Thị Nại. Hậu quân Võ Tánh và Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đổ bộ lên đóng ở Trúc Khê. Tiền quân có Nguyễn Văn Thành ra đánh Phú Yên rồi lệnh đi tiếp ứng đi tiếp ứng cho Võ Tánh.
Ba đạo quân khác theo đường bộ, đạo thứ nhất có quân Lào hợp sức nhắm vào Thanh Hóa làm mục tiêu; đạo thứ nhì men theo bờ bể, đạo thứ ba đi con đường ngắn nhất đến Qui Nhơn, nối tiếp với các đạo quân đang đổ bộ. Các đồn Tây Sơn thuộc tiền tuyến bảo vệ thành Qui Nhơn bị mất dần vào tay các tướng Lê Văn Duyệt và Võ Tánh. Triều đình Phú Xuân cho Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu nhưng đến Quảng Ngãi thì Tây Sơn bị quân của Nguyễn Văn Thành ngăn lại ở Thạch Tân.
Đạo quân của Vũ Văn Dũng đến Chung Xá cũng ngừng lại, đêm tới có người trông thấy con nai trong rừng lạc ra liền reo lên: Con nai!Quân Tây Sơn nghe lầm ra là: Quân Đồng Nai! Liền bỏ chạy vỡ tan hết, Quân Nguyễn cứ thế đuổi đánh.
Trấn thủ thành Qui Nhơn lâu không thấy viện binh của mình đến lương thực lại cạn sạch đành mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đổi tên Qui Nhơn ra Bình Định từ đó.
Qui Nhơn bị mất, vua Cảnh Thịnh lại cho đại binh vào đóng ở Trà Khúc (Quảng Ngãi) tính đánh lấy lại Qui Nhơn nhưng vì trái mùa gió không dùng được thủy chiến phải rút về. Nguyễn Văn Giáp được lệnh ở lại Trà Khúc, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam.
Về phía quân Nguyễn, một phần rút về Gia Định, một phần lại giữ Bình Định. Thành này được đặt dưới quyền Phò mã Võ Tánh và Ngô Tùng Chu. Trong dịp này vì trải nhiều vất vả, gian lao lại thêm thủy thổ bất phục Giám mục Bá Đa Lộc bị bệnh lỵ mà chết tại Thị Nại ngày 9-10-1799. Xác người được đưa về mai tang rất trọng thể ở Tân Sơn Hòa (Gia Định) và Giám mục được truy tặng tước Thái Phó Bí Nhu Quận Công.
Tuy mất Qui Nhơn, Tây Sơn vẫn không thoái chí nên đầu năm sau (1800) Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng lại mang địa quân vào bao vây ở thành Qui Nhơn. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành, Văn Dũng đem hai chiếc tàu lớn và 100 chiến thuyền nhỏ ra đóng giữ cửa Thị Nại, đặt các hải đồn và đại bác quay ra mặt bể để phòng quân Nam ở ngoài khơi tiến vào. Trước một lực lượng quá hùng hậu lại do danh tướng chỉ huy, Võ Tánh cố thủ chờ quân Gia định ra tiếp sức.
Lúc này Nguyễn Vương cử Nguyễn Văn Thành, Lê Chất, Nguyễn Đình Bắc, Trương Tiến Bảo lĩnh ba đạo quân đánh vào Phú Yên rồi kéo ra đóng ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Còn Ngài dẫn thủy quân tính phá Thị Nại. Kế hoạch này không có thực hiện được vì quân thủy bộ không liên lạc được với nhau. Một năm qua, tháng Giêng năm Tân Dậu (1801) quân Nguyễn do Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương, Lê Văn Duyệt, Võ Duy Nguy lại tấn công cửa Thị Nại, đốt được nhiều tàu, thuyền của Tây Sơn, khiến Vũ Văn Dũng phải chạy về hợp sức với Trần Quang Diệu; vòng vây của quân Tây Sơn lại càng xiết chặt vào thành Bình Định, rồi Võ Tánh cũng Ngô Tùng Chu hết lương thực, quân nhu tự sát, Võ Tánh làm lầu bát giác, chất cỏ rơm và thuốc súng ở dưới và tự hỏa thiêu, Ngô Tùng Chu cũng không ham sống, tử tiết bằng chén thuốc độc.
Trần Quang Diệu vào Bình Định, chiếu theo lời khẩn cầu của Võ Tánh đã tha chết cho mọi phần tử quân dân trong ngành và làm lễ mai tang rất trọng thể cho hai kẻ chiến sĩ biết nêu cao gương tiết liệt.
4 – Phú Xuân Đổi Chủ (15-6-1801)
Trong khi thành Bình Định lâm vào tình thế tuyệt vọng, Nguyễn Vương đã gở mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành này thì trái lại Võ Tánh đã khuyên vương nên lợi dụng lúc đại quân của Tây Sơn bị cầm chân ở Bình Định mà đánh úp Phú Xuân, Nguyễn Vương nghe theo để Nguyễn Văn Thành ở lại chống nhau sau Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, còn ngài đem thủy sư đánh vào cửa Tư Dung. Thủy sư của Vương gồm có 6 chiếc tàu Âu Châu do vannier, Chaigneau, Forsans và De Barisy chỉ huy với một đạo quân đổ bộ 15.000 người. Ngày 11-6-1801 quân Nguyễn chia ra làm hai cánh tiến vào cửa sông Hương vừa tầm súng đại bác trên hải đồn. Các tài và các pháo thuyền lớn chặn ngay cửu Hữu; 45 chiến thuyền có