Chương I
Lần nào phát thư, cũng chẳng có thư của hai ông.
Dương và Tâm ngồi ở đầu hè trước phòng Hành quân, nghe câu nói ấy đều giật mình quay lại. Người Trung sĩ Bưu tín viên nhìn hai chàng cười, lấp lánh vài chiếc răng vàng.
Người Trung sĩ nầy rất chịu khó. Mỗi buổi sáng, chừng hơn tám giờ, khi nắng đã trải rộng lên phi đạo tràn lan khắp sân đậu, soi rõ những hạt sương đọng trên cockpit của phi cơ, là người Trung sĩ Bưu tín viên xuất hiện đúng giờ, cứ y như một chiếc đồng hồ loại tốt.
Trước phòng Hành-quân của Phi-đoàn X. có treo một hàng dài hộp thư, bên trên đề tên từng phi công của Phi-đoàn. Hộp thư nào cũng có khoá cẩn thận. Riêng chỉ có hai hộp thư của Trung-úy Dương và Trung-úy Tâm là bỏ ngỏ.
Cánh cửa nhỏ mở toang hoác. Ai đi qua, buồn tay cũng đập một phát. Cánh cửa đập vào thành bên trong, bật lên một tiếng động nhẹ, rồi lại bật trở ra như một cánh cửa tự động.
Chẳng bao giờ người bưu tín viên được hân hạnh bỏ vào đấy một phong thư. Lâu lắm rồi, hình như ở đấy cũng có một phong thư màu xanh, được dán cẩn thận, nhưng buồn thay lá thư đó không lấy một lời âu yếm mà chỉ thấy đầy những con số. Đó là thư đòi thuế của sở Thuế Lương Bổng mà mỗi tháng phát lương, Sở Tài Chánh quên khấu trừ thẳng vào tiền lương.
Tâm cũng cười:
– Không được phát thư cho chúng tôi, bạn có buồn không? Nhưng xét ra mỗi lần bạn đi từng phần sở, với cái cặp da đầy nhóc tâm tình kia, mang phát tâm tình cho mọi người thì kể cũng mệt. Bởi vì thương cái thân ốm yếu của bạn, nên chúng tôi không thèm viết thư mà cũng chẳng thèm nhận thư.
Người Trung sĩ Bưu tín viên thấy Tâm nói vậy thì có vẻ không bằng lòng ra mặt. Như vậy là nghi ngờ thiện chí của hắn ta. Đáng lẽ ra hắn chỉ ngồi một chỗ, nhắc cái “tô lô phôn” lên, gọi về phòng Văn Thư của các phần sở, cho biết là có giấy tờ thư tín.
Phòng Văn Thư có phận sự phải cho người lên lấy về phân phát lại. Nhưng hắn muốn được làm cái công việc mang niềm vui cho mọi người mỗi buổi sáng. Cái sung sướng hắn thật giản dị. Một lời nói cám ơn rất suông tình. Một khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên, khi run run bóc lá thư của người yêu. Nét mặt sầu thảm khi nhận tin xấu về gia đình. Với những kẻ nhận được thư tình, hắn thường nói đùa một câu:
– Đọc thư đứng cười một mình như thế thì chó nó cũng biết là thư của ai rồi.
Với những người nhận được thư rồi sau khi đọc thư, biểu diễn một khuôn mặt táo bón, hắn cũng nói lên vài lời an ủi. Hắn cũng buồn theo với người bạn và nhiều khi cũng có một ít nước mắt, nếu người bạn ấy nhận được tin nhà, báo tin trong nhà có người vừa nằm xuống.
Từ ngày làm phận sự bưu tín viên, một điều ngạc nhiên đến khó chịu là chẳng bao giờ hắn có hân hạnh phát thư cho hai ông Trung-úy trẻ và cũng đẹp trai chẳng kém gì ai. Theo ý nghĩ của hắn thì hai anh chàng này ít ra cũng phải có hàng tá người yêu, lâu lâu cũng phải biểu diễn nhiều đường bay bướm viết thư tán nhảm về trăng sao hoa bướm, kể lể vài phát về không gian trời xanh mây trắng.
Nhưng không hiểu sao thư đi cũng không có, thư về cũng không có nốt. Hắn đã định một ngày đẹp trời nào đó, hắn sẽ mời hai anh chàng “đầy bí mật” này nhậu một bữa, rồi sau khi trà dư, tửu hậu, hắn sẽ hỏi rõ nguyên nhân.
Cái gì dù bí mật tới đâu, nhưng chỉ cần vài phát la-de là bao nhiêu tâm sự sẽ phọt ra hết. Hắn đã hăm doạ như thế nhiều lần. Hắn hỏi thêm:
– Còn Trung-úy Dương?…Đẹp trai như ông mà không có lấy một người viết cho “vài hàng gửi anh trìu mến” thì kể như hạ màn mất rồi!
Dương nháy một bên mắt:
– Tôi tên là Dương nhưng bị …liệt dương. Cứ em nào gần tôi một ít lâu, là “còn tình chi nữa mà thù đấy thôi”. Lý do chính là không thoả mãn được những gì mà em đòi hỏi. Cứ tới chợ là hết quà hay nói nôm na là cứ lên lưng ngựa là bị tuột xích.
Tiếng cười vang lên trong nắng sớm. Anh chàng bưu tín viên vẫn lắc đầu:
– Tôi không tin như vậy…
– Tin hay không là tùy bạn.
Người Trung sĩ Bưu tín viên cũng ngồi xuống bực thềm. Ở cái quân chủng nầy, người ta sống rất thân mật, ít có chất kỳ thị cấp bậc. Thắc mắc của chàng Trung-sĩ vẫn chưa được giải đáp. Hai anh chàng Trung-úy nầy vẫn còn đầy bí mật, dù rằng cái bí mật ấy chẳng đến nỗi quan trọng như những bí mật quốc phòng…
Ba người ngồi trên bực thềm. Lúc này thì sinh hoạt ngoài phi đạo đã tấp nập. Một vài chuyên viên leo lên phi cơ cho nổ máy để kiểm soát. …Cánh quạt quay chầm chậm, rồi một làn khói xanh biếc cuồn cuộn toả về phía sau phi cơ. Cánh quạt được trớn, quay tít thổi làn khói xanh bay toả lên không gian rồi tan biến…
Cảnh đó thật quen thuộc mỗi sáng. Người Trung sĩ Bưu tín viên vẫn còn thắc mắc thật nhiều. Tâm và Dương là hai kẻ, tính tình gần như trái ngược ấy vậy mà lại thân nhau như chồng vợ. Có thể vì vậy mà hai anh chàng phi công trẻ tuổi này ít có những mối tình lẩm cẩm?…
Nhưng chẳng lẽ xảy ra …những chuyện vớ vẩn như những chuyện đọc được trên các báo Tây, báo Mỹ. Anh chàng Trung-sĩ này không tin như vậy nên hỏi lại:
– Các ông không có người yêu nào để viết thư sao?…
Câu chuyện lại trở về lúc đầu. Dương thản nhiên:
– Túi rỗng, chẳng có đồng xu mẹ nào, thì sao có được người yêu. Bạn hỏi câu đó hơi…bết đấy nhé.
Người Trung-sĩ bực tức:
– Nếu như vậy thì các ông làm xấu mặt lính tàu bay rồi. Các ông không thấy nhiều tên lính của mình?..Tiền không có, lon lá cũng không có, ngay đến bộ quần áo mặc trên người cũng phải đi mượn, ấy vậy mà ái tình cứ ùa đến chật phòng. Còn các ông thì dầu sao cũng cao ráo, sáng sủa, lái tàu bay, lại có tí lon lá…Thiên hạ bì sao được mấy ông. Tôi thấy cứ hễ buổi chiều, là đã có vài ba người đứng ngoài cổng để đón “bóng người phi công” rồi…
– Rất may là trong đó, không có chúng tôi…
Dương cười vang, nói tiếp:
– Nhiều người đang chờ bạn đấy. Tiếp tục làm việc ban phát tâm tình đi thôi chứ.
Người Trung sĩ Bưu tín viên chợt nhớ nhiệm vụ, đứng lên, chào hai người rồi đi về phía Ban Kiểm Kỳ.
Bóng dáng lủi thủi, câm nín đã quen mắt trong mỗi buổi sáng. Trời hôm nay thật đẹp, chỉ lảng vảng vài ba đợt mây mỏng và lặng gió. Dương ngước nhìn lên trời….Hai chiếc phi cơ khu trục nghiêng cánh, đưa bụng về phía mặt trời làm thủ tục hạ cánh.
Tâm ngước mắt nhìn theo rồi hỏi:
– Chúng nó cất cánh từ hồi nào vậy?
– Từ sáu giờ sáng.
Chiếc phi cơ thứ hai nghiêng cánh vòng theo. Hai bên cánh vẫn còn bom đạn chưa thả hết.
Hai làn khói trắng xẹt ra từ hai đầu cánh, chỉ một thoáng rồi loãng tan dần.
– Gió yếu thế nầy mà nó cho hạ cánh hướng về phía mặt trời làm chi cho chói mắt?
– À, vùng bên kia sông, nơi đầu phi đạo ấy vẫn còn trong thời gian xạ kích của pháo binh…
Chiếc xe của Đoàn vũ-khí chạy qua trước mặt. Người lính đứng bám vào cửa cạnh tài xế nhìn Tâm và Dương toét miệng ra cười. Hai chiếc phi cơ ngừng lại nơi đầu phi đạo, gỡ hạt nổ rồi di chuyển vào bến đậu. Tiếng rồ máy thật mạnh rồi tắt hẳn. Hai người phi công tiến về phía Phòng Hành Quân.
– Bay sớm nhìn mặt trời mọc chắc khoái lắm. Thằng An thi sĩ chắc là thế nào cũng làm thơ?…
Người phi công trả lời Dương:
– Đừng xúi dại tao chứ mày!… Đạn nó đan lên như pháo bông, làm thơ để mà chết mất xác. Tao phải tới thùng thư, coi xem hôm nay có thư của em không? Cứ hai ngày mà không có thư, cuộc đời ôi sao là buồn….
Nghe câu than cải lương ấy, Tâm và Dương cũng thấy vui lây. Khi yêu, con người dễ trở thành con nít và pha một chút xíu cải lương trong lối nói chuyện. Câu “anh yêu em, em yêu anh” nghe trên màn bạc bằng tiếng Tây, tiếng Mỹ thì không sao, nhưng nghe phát ngôn bằng tiếng Mít thì thật buồn nôn hết chỗ nói.
Có nhiều lúc, Dương không hiểu rằng, các cụ ngày xưa, không biết đã nói gì tới tiếng “yêu” không. Chắc là phải có, vì đọc cả một rừng ca dao, tục ngữ đều thấy có nhắc nhở tới chữ yêu:“Yêu nhau cởi áo cho nhau. Về nhà, mẹ hỏi qua cầu gió bay”. Cũng thắm thiết lắm đấy chứ!
Nhưng chữ yêu của các cụ ngày xưa nghe bàng bạc mà đằm thắm, không sống sượng và nặng chất tống tình như bây giờ.
Nhìn thấy người bạn mình, vừa làm một chuyến bay trở về, chạy vội lại thùng thư, thấy lá thư và mắt sáng lên, Tâm và Dương cũng thèm có một lá thư.
Chàng phi công tên An, hấp tấp xé bao thư, moi ra một tập giấy màu xanh, chữ viết dày đặc. Dương hỏi:
– Bao nhiêu lâu chúng mày không gặp nhau rồi?…
– Hai ngày!
– Trời, mới có hai ngày mà chị đã gửi thư cho anh, mà viết ngần đó chữ. Chắc là sẽ mở đầu bằng câu “anh hãy đếm lá thư này có bao nhiêu chữ, thì tình của em yêu anh là…ngần đó”.
An nhìn được kính phục:
– Mày tài quá! Đúng thật! Câu mở đầu của em đúng y như …”dậy”. Không biết rằng cái tư tưởng đó, em thuổng của mày, hay mày thuổng của em.
An cầm lá thư, đi vào phòng nghỉ. Hành lang lại chỉ còn có Tâm và Dương. Hai người ngồi đây chờ phi vụ, lúc nào cũng sẵn sàng sửa soạn lên đường. Một vài chiếc xe chạy vụt qua. Trên trời, dưới đất vang động tiếng động cơ ồn ào. Một vài cơn gió thoảng nhẹ, vừa đủ bay bay mái tóc và làm rung động chiếc ống gió.
Tâm hỏi:
– Mày đã viết thư cho người yêu bao giờ chưa…
– Nhiều lần.
– Tại sao không viết nữa…
Dương cau mặt:
-Vì bây giờ, không còn yêu nhau.
Tuy rằng nói không còn yêu nhau nữa, nhưng khi nói với câu này, bỗng chợt thấy bâng khuâng. Như một cái gì chợt mất mát. Như ngày xưa còn thời mơ mộng; đọc thơ Tản Đà “cái hạc bay lên vút tận trời”.. Cái bâng khuâng hiện nay, cũng mơ hồ như thế. Chàng thấy như người câm lặng hẳn đi, quên rằng mình đang ngồi đây, chỉ chợt giựt mình khi nghe Tâm hỏi:
– Sao không thấy bao giờ mầy nói chuyện nầy cả?…
– Tại vì tao yêu Phượng từ trước khi đi lính.
– À, thì ra tên cô nàng là Phượng.
Dương muốn nhắc nhiều lần tên Phượng. Tên của em, muốn gọi cứ phải mím chặt môi lại, khi cái tên thoát được ra ngoài, có thể là một tiếng reo vui, có thể là một tiếng thở dai.
Anh còn nhớ ngày xưa, em hay mặc áo đỏ, màu của hoa phượng nở thắm sân trường, mà anh thường gọi màu áo đỏ mà em hay mặc, là màu xe chữa lửa. Anh đã nói đùa với em là nếu em cứ hay mặc áo đỏ, thế nào cũng bị bò húc mà coi. Bò vốn ghét màu đỏ mà. Rồi em hỏi anh rằng anh có phải là bò không.
Chỉ vì anh không phải là bò, nên anh mới yêu em, yêu người con gái mặc áo đỏ, để mỗi lần đi đâu với em, là làm nhức mắt thiên hạ.
Dương cười một mình…Chiếc phi cơ phản lực cất cánh từ đầu phi đạo, tiếng máy nổ ầm ầm làm rung cửa kính. Tâm đưa hai tay lên bịt chặt lấy tai:
– Mấy thằng mọi da đỏ này ồn ào quá.
Buổi sáng nay, Tâm và Dương không có một phi vụ nào để lên đường. Ngồi nhìn cảnh sân đậu thì ngày nào cũng thế. Chỉ lâu lâu đổi khác một chút, khi có chiếc phi cơ gặp trục trặc. Phi trường nhốn nháo hẳn lên vì xe chữa lửa, cứu thương chạy tấp nập. Rồi tới khi phi cơ chạm bánh về được tới sân đậu, sinh hoạt lại trở nên bình thường như mọi ngày.
Hai người rủ nhau xuống Câu Lạc Bộ. Mới hơn mười giờ, hơi nóng mặt nhựa đã bốc lên rát mặt. Mỗi khi một cơn gió nổi lên là hơi nóng lùa vào người, làm mồ hôi chảy ra, ướt đẫm lưng. Đang đi, tự nhiên, Dương ngừng lại.
Chàng nhìn thấy trên mặt nhựa, để trơ ra màu xám đất lẫn lộn vài viên đá nhỏ. Rồi ở giữa khoảng đất ấy, một thân cây nhỏ bé èo uột mọc lên, chiếc lá xanh dầy đóng đầy bụi, trên ngọn, nở một bông hoa màu tím với những cánh mỏng manh. Chàng nói với Tâm:
– Không ngờ khoảng đất như thế nầy mà cũng nở được một bông hoa. Mầy có biết bông hoa nầy tên là gì không?
Tâm cười:
– Làm sao mà biết được. Nhưng khi những bông hoa nào không biết được tên, cách gọi tên tiện nhất, gọi luôn nó là bông hoa dại.
Dương ngồi hẳn xuống, vuốt ve từng cánh hoa. Chắc chỉ một ngày, với cái nắng này, với sức nóng hun đốt mặt nhựa, bông hoa này cũng sẽ tàn.
Ai đã gieo một hạt giống nơi đây để mọc thành cây, để cho cây có được một bông hoa? Chỉ có Trời mới làm được công việc ấy. Nhưng Trời đã để cho cây ra đời, rồi lại tước đoạt đi sự sống, để cho sự sống mong manh quá. Dương thấy thương cho bông hoa lạc lõng.
Chàng cúi xuống hái lấy bông hoa gài lên túi áo. Thân cây nhỏ, mất đi bông hoa màu tím lại trở thành một kiếp cỏ hoang rồi sẽ nát đi dưới vết bánh xe, gót giày.
Giờ này Câu Lạc Bộ vắng người…Anh chàng chủ Câu Lạc Bộ đang giải trí bằng cách đập ruồi.
Cô bé trong quầy hàng, ngồi đọc một tờ báo phụ nữ, mà tờ bìa ngòai in hình cặp tài tử cải lương đang áp má vào nhau cười toe toét. Dương gõ lên mặt quầy:
– Cô Thu đang đọc chuyện gì vậy?…
– Bức thư tình…
Dương nháy mắt:
– Trong đó có bức thư nào tôi viết cho cô không? nếu có làm ơn đọc lớn cho thiên hạ nghe chơi.
Ngồi bán hàng ở những Câu Lạc Bộ của lính, hình như cô em gái nghe những lời tán tỉnh cũng đã nhiều, nên ít khi xảy ra một vụ cảm động. Cô này bĩu môi một phát rất điệu:
– Đừng có nham nhở. Uống gì đây mấy cha nội!….
Tâm không có tật tán gái. Đối với chàng thì đàn bà chỉ là một phương tiện để giải quyết những gì ứ đọng trong người. Những đứa con gái dễ dãi ở nơi trà đình, tửu quán, nếu phải đối thoại, thì chúng cũng làm như một thủ tục cho phi cơ hạ cánh “xin phép vào vòng phi đạo”. Khi được chấp thuận, chàng làm đủ thủ tục, buông hai hai cái cẳng lớn và thò cẳng giữa ra, hỏi lại lần cuối: “Xin phép được hạ cánh”. Khi được được hạ cánh, hai cẳng trên và cẳng giữa ôm chầm lấy phi đạo, để rồi cứ lăn đi, từ từ cho tới khi ngừng chạy. Ấy thế là xong một phi vụ. Chỉ có như vậy thôi. Làm chi những cái khác, cho rườm rà, lôi thôi rắc rối.
Ý nghĩ về đàn bà của Tâm chỉ giản dị như thế. Ừ tại sao không coi một lần gần đàn bà, là một lần cho phi cơ hạ cánh? Cũng chỉ ngần đó thủ tục, làm theo thói quen. Lúc tắt máy, cũng như lúc xong công việc, đều thấy nhẹ nhàng, thanh thản, dù rằng người nhớp nháp một chút mồ hôi.
Tâm và Dương ngồi vào một cái bàn kê gần cửa sổ. Người chủ quán hỏi mà tay không ngừng đập ruồi:
– Cái ghế đó chắc trung úy Tâm mua đứt rồi, lần nào tới Câu Lạc Bộ này cũng thấy ông ngồi cái ghế đó.
Tâm không trả lời, nhìn qua khung cửa hẹp. Đằng sau Câu Lạc Bộ còn sót lại vài cây cao su xanh mướt lá.
Cả một rừng cao su, ngày xưa nổi tiếng là miền Biên Hoà đất đỏ nầy, chỉ còn lại có thế. Những ngày còn nhỏ ở ngoài Bắc, đã một dạo, Tâm nghe thấy người ta tuyển mộ phu vào làm đồn điền cao su ở mãi tuốt tận trong xứ Nam Kỳ. Rồi bao nhiêu chuyện thê thảm được viết thành sách, tả kiếp con người khổ ải, đầy đoạ trong những nơi mà người ta đặt tên là đồn điền.
Ở làng Tâm, cũng có mấy người ra đi, mà người đi thì có, người về thì không. Khi mới đổi về Biên Hoà, Tâm mới biết rằng căn cứ nầy, được tạo dựng trên một đồn điền cũ của Tây. Di tích còn sót lại cũng nhiều. Những dãy nhà thấp, trần nhà nám đen đầy bụi và mạng nhện, ngày trước là nơi cư ngụ của phu đồn điền, nay đã biến thành Trại Gia-binh Hùynh Hữu Bạc với những gia đình vợ con lính sống lúc nhúc.
Trước cửa và sau lưng cư xá độc thân, trong đó có phòng của Tâm và Dương, là những bóng cao su cổ thụ, xanh mướt lá. Những cây cao su trông thật hiền hoà, giống như tất cả mọi cây khác, chỉ khác một điều là chưa bao giờ Tâm thấy những cây này có lấy một bông hoa.
Tâm thích ngồi ở chỗ này trong Câu Lạc Bộ nhìn ra khoảng sân sau. Trời thu hẹp trong một khung vuông vắn. Thỉnh thoảng một chiếc lá bay vèo qua khung cửa sổ, lảo đảo lọt qua khung cửa, nằm tênh hênh trên nền xi-măng phẳng bóng.
Dương nhìn Tâm:
– Mầy nghĩ gì vậy?…
Tâm lơ đãng, chớp mắt:
– Tao đang thắc mắc, không hiểu những cây cao su nầy sống đã bao lâu. Ít ra thì tuổi thọ của nó, phải hơn tuổi tao, hơn tuổi mầy là cái chắc.
Dương gật gù cái đầu:
– Cái đó chắc phải hỏi cô Thu ngồi trong quầy hàng kia mới được. Cô ta là một quảng cáo rất ăn khách cho nghề trồng cao su.
Tiếng cười của hai người bạn vang lên. Cô bán hàng Câu Lạc Bộ, thấy vậy bỏ tập báo xuống, cũng cười. Thế ngồi của cô ta bây giờ rất hớ hênh. Lưng tựa vào thành ghế, ưỡn ngực ra, hai chân gác lên một chiếc ghế khác.
Trên đầu, một chiếc quạt quay tít làm nhấp nhô, phập phồng làn vải mỏng. Dưới chân còn để thêm một chiếc quạt nữa để làn gió vô tình thổi lùa vào ống quần rộng. Biên Hoà, hồi này đang lúc giao mùa. Những lúc gần buổi trưa, trời thật nắng.
Dù có hai cái quạt trên đầu, dưới chân, Tâm và Dương vẫn thấy cô hàng đổ mồ hôi. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên cổ, làm thành một khoang ở hai bên nách. Lâu lâu, cô hàng lại dùng tờ báo quạt phành phạch.
– Tao đang có một dự định…
Dương ngạc nhiên nhìn Tâm:
– Dự định gì vậy?…Lấy vợ chăng…?
– Còn lâu…Tao đang phác hoạ một chương trình giải trí lành mạnh. Muốn giải trí thì phải có tiền mà tao với mày đều không có tiền. Tao nghĩ rằng mình chỉ còn một cách giải trí là ghi tên học thêm. Đó cũng là một cách giải trí, một cách giết thì giờ rất linh nghiệm…
– Nhưng thời giờ thì đâu có tội tình gì mà mầy định giết nó?…Mầy không sợ nó báo thù sao?…
Khi mà thời giờ nó đã báo thù, thì thật kinh khủng. Ban ngày, có việc làm còn có thể quên đi. Nhưng ban đêm, sao mà nó dài lê thê. Bao nhiêu tiếng thằn lằn tắc lưỡi trên trần nhà, là phải đếm hết. Mỗi chiếc là kho rơi trên mặt sân là một sự khắc khoải, hành hạ người những đêm dài khó ngủ.