← Quay lại trang sách

Chương II

Dương sợ nhất là những đêm khó ngủ… Thường thì thời gian khó ngủ ấy hay xảy ra trong mùa nóng như mùa này. Những đêm đó, chàng lăn lộn trên giường. Chiếc nệm trũng xuống, hai bên nệm nhô cao, như muốn ôm chặt lấy Dương, và cái hơi nóng âm ỷ từ chiều, chưa được hơi lạnh ban đêm xua đuổi đi hết, cứ như còn lảng vàng trong căn phòng nhỏ và hẹp.

Mỗi lần trở mình, chiếc giường sắt lại phát ra những tiếng kêu nghe ghê tai, như tiếng nghiến răng. Tâm nằm ở giường phía bên kia, rất khổ sở vì những tiếng động ấy, nên đã nhiều lần van nài:

– Tao lạy mày, xin mầy đừng trở mình nữa. Thà mày hét vào tai tao. Tiếng la tiếng hét ấy còn dễ chịu hơn là tiếng giường sắt nghiến vào nhau.

Dương thở dài:

– Nhưng tao khó ngủ quá!

– Mầy không ngủ được rồi mầy bắt tao cũng phải thức như mầy hay sao? … Biết vậy sao mầy không xin một chút dầu, cho vào khe giường sắt, có phải đỡ làm khổ lỗ tai thiên hạ biết mấy.

Dương biết lỗi của mình, nằm yên mà trong lòng như có một bó lửa âm ỷ cháy. Cái cháy ấy, nếu bùng lên để cho con người thành cây đuốc, chắc còn sung sướng hơn là sự cồn cào rỗng tuếch của chiếc đầu đeo đá. Chàng nằm yên rồi một lát, lại thèm một cái trở mình, để cho lồng ngực dễ thở hơn.

Chàng cố cựa nhẹ mình, mong chiếc giường đừng phát ra tiếng kêu, để Tâm có thể dễ được chìm vào giấc ngủ. Không ngờ lại nghe thấy tiếng Tâm hỏi:

– Mày vẫn chưa ngủ sao …

– Ừ, ngủ không được.

Ngoài phi đạo, tiếng động cơ nổ mạnh. Một chiếc phi cơ đang thử máy. Khu nhà sĩ quan độc thân, cách xa sân đậu phi cơ và phi đạo, nhưng buổi tối, không gian thật yên tĩnh, nên những tiếng động phi trường vẫn văng vẳng vọng âm. Lâu dần, tiếng động ấy trở thành quen thuộc. Tiếng lá rơi trên mái ngói, nghe còn rõ rệt hơn tiếng động cơ. Những cơn gió làm xạc sào xác lá và khua động thân cành.

Phi trường Biên Hòa ngày đó còn nhiều chất âm u. Cây cao bóng cả, che lấp mái ngói rêu phong. Dương cố dỗ giấc ngủ. Chàng đếm thầm. Từ 100 chàng nhẩm đếm liên miên rồi đến khi chợt bừng tỉnh hẳn, chàng mới thấy rằng mình đã đếm gần tới số một ngàn.

Con cắc kè còn sót lại nơi vươn cao su, chợt tắc lưỡi kêu lên vài tiếng. ” Bắc Kỳ, Bắc Kỳ, Bắc Kỳ… ”

Từng tiếng một mang theo một sự may, rủi. Cũng đã có nhiều đêm, Dương đếm từng tiếng may, tiếng rủi cho tới khi con tắc kè tắt tiếng, chỉ còn tiếng ọc ạch đoạn chót, như tiếng của chai nước dốc ngược.

Cũng vui mừng khi thấy tiếng tắc kè dừng lại ở tiếng may. Và cũng lo sợ vẩn vơ, khi tắc kè ngừng lại khi tiếng rủi... Và ngày hôm sau, cứ thấy lo lắng khi phải leo lên phi cơ làm những cuộc dấn thân lửa đạn. Những người phi công như Dương, như Tâm ai cũng có một tí mê tín, vừa đủ để cho mình không thành một thứ… dị đoan như đàn bà.

Sau khi một người bạn chết, những người bạn còn lại thường ngồi nói chuyện với nhau, nhắc lại những lời nói sau cùng của người đã chết, để rồi ai cũng phải nhận rằng đấy là những lời nói gở, lời nói của những người biết rằng mình sắp từ bỏ cuộc sống.

Một con đường chưa được đặt tên trong căn cứ, thằng nào đi qua buột miệng nói ra câu “con đường này sẽ mang tên tao” thì thằng đó đã có điềm báo trước là sắp sửa “về quê”.

Còn nhiều nhiều, nữa. Một anh chàng Trung úy, khoe rằng kỳ thăng thưởng đặc cách nầy, mình sẽ lên Đại úy. Nếu có kẻ đùa dỡn, nói một câu:

– Ừ, mầy sẽ lên Đại úy, nhưng mà là cố Đại úy…

Thì sự đùa rỡn ấy, được kể như một lối đùa vô ý thức. Người nhận được câu nói đó, cảm thấy như bị một ám ảnh khó quên.

Văn minh cơ giới chưa đuổi đi được hết những bóng đen huyền bí. Sợ rằng, khi nền văn minh cơ giới phát triển tới cùng cực, thì sự tôn sùng và nghiên cứu khoa học huyền bí cũng theo đà ấy mà tiến tới những nấc cao hơn.

Không phải chỉ có một mình Dương là có tật sợ ma. Gần như hầu hết những anh chàng phi công khu trục, đều có cái tật đáng yêu đó. Họ đưa ra những lý luận thật vững để bào chữa cho sự “có ma”, mà bao nhiêu người phủ nhận. Cái gì mà ngôn ngữ loài người đã có tên để gọi, thì cái đó chắc chắn phải có. Mà không phải chỉ có ngôn ngữ Giao Chỉ, mới có tiếng để gọi những kẻ chết chưa siêu thoát. Mà tiếng Tây tiếng Mẽo cũng có những danh từ để gọi hồn ma. Như thế thì ma có thật là cái chắc.

Dương cứ trằn trọc trong căn phòng hẹp, trong cái tối đen của đêm khuya cư xá, ý nghĩ vẩn vơ đuổi theo liên tiếp, để cho giấc ngủ không chịu đến. Về khuya cơn nóng đã dịu bớt. Dương nhớ tới những căn nhà phía bên kia, nơi các sĩ quan có gia đình trú ngụ. Một buổi tối, trong căn nhà Đại úy Hoàng phát ra những tiếng khóc nỉ non đến rợn người. Vợ của Đại úy vừa chết.

Những ngày sau, chàng được nghe thật nhiều những chuyện ly kỳ, do bạn bè phịa ra quanh cái chết ấy.

– Mầy có biết không?… Tháng trước, tao nghe chị Hoàng kể chuyện, tối nào đi ngủ, cứ vừa chợp mắt là thấy một ông cụ già… tới nắm chân kéo, đòi lại nhà… Chị kể lại với anh Hoàng, nhưng anh Hoàng không tin. Thế rồi chị bị chết đấy. Tao chắc là ngôi nhà ấy thế nào cũng có ma…

– Tao lại còn nghe kể, mấy đứa con của anh Hoàng nằm ngủ ở trên giường đàng hoàng, mà sáng nào cũng tìm thấy ngủ ngoài vườn. Ngôi nhà đáng sợ thật.

Dương đã co rúm người lại, khi nghe kể những câu chuyện đó. Thì đã nói rằng, căn cứ này vốn là một đồn điền cao su. Không thiếu gì những kẻ chết oan vì chính sách dã man của Tây và cặp rằng.

Những căn nhà để gia đình sĩ quan trú ngụ, đều xây theo lối cổ, với những chiếc cột to lớn, nền nhà làm trên những cái hầm, mà người ta không hiểu rằng, trong đó còn sót lại bộ xương khô nào không. Chính căn nhà mà Dương và Tâm đang ở, cũng là di sản để lại của Tây.

Tất nhiên là cũng có những căn phòng của một anh chàng phi công Tây nào đó, nằm ngủ một giấc, sáng dậy đi làm một phi vụ rồi bay luôn, không trở về. Chẳng cần nói đâu xa… Cạnh ngay văn phòng của Dương là văn phòng của Bạc, của Xuân ở cũ. Đã một thời kỳ để trống, không ai dám ở vì “sợ thằng Bạc”.

Ngày mà Bạc chết ở Nha Trang, lúc thâu lượm xác kiếm mãi không ra miếng xương đầu gối. Muốn cho bạn bè không dám đi tiểu ban đêm, Dương chỉ cần chờ cho khuva một chút, gõ lạch cạch vào từng chiếc cửa sổ, rồi làm ra giọng rên rỉ:

– Trả cái đầu gối lại cho tao … Tao là Bạc đây!…

Nhưng có một đêm, vừa diễn xuất trong trò đó, Dương bỗng sợ tái người, vì nghe thấy trong phòng có tiếng lên đạn lách cách. Tâm đã trách Dương nhiều, vì tính thích nghịch dại. Chúng nó sợ quá, chúng nó phơ cho một phát thì toi mạng. Rồi Tâm nhắc lại cho Dương nghe chuyện của Đăng.

Một ngày đẹp trời, Đăng thi hành một phi vụ huấn luyện. Hồi đó chiếc phi cơ F8F được mang danh là chiếc quan tài bay, tính tình bất thường cứ như một cô con gái đẹp con nhà giàu. Quay máy ở sân đậu bốn chiếc, thì lúc di chuyển chỉ còn lại hai.

Ra đến đầu phi đạo, thử máy lần chót, thì chỉ còn lại một chiếc. Anh chàng cô đơn ấy, bay một mình thì buồn mà cũng chẳng làm được trò gì, cũng quay đầu lại, về luôn. Ngày nào cũng xảy ra vài ba vụ bay hụt. Lco lên tàu bay rồi lại leo xuống, cứ y như anh chàng thích lấy le, nặng về phần trình diễn.

Chiếc phi cơ ấy, với bánh đuôi thật thấp, đầu ngước lên thật cao, nên lúc di chuyển, chẳng nhìn được gì phía đằng trước. Không hiểu sao mà cũng gây được bão táp trong kỳ… đệ nhị thế chiến.

Hôm đó, Đăng bay huấn luyện để thử máy. Chiếc phi cơ tự nhiên mất dần cao độ, lúc đang bay trên vùng trời Vĩnh Bình.

Cánh quạt quay như nghẹn thở, như có ai bóp chặt cổ họng, rồi cuối cùng, Đăng đành làm một phát cho phi cơ tắm mát dưới dòng sông Vĩnh Bình. Mở được cửa, thoát được ra ngoài, Đăng đứng trên bờ nhìn nước lên, che khuất dần chiếc phi cơ thân yêu, cho đến lúc mặt nước trở lại phẳng lì.

Đăng đã nhìn giòng nước lấp đi con tàu. Người phi công coi chiếc phi cơ như một người yêu. Khi thì ngoan ngoãn, cúi đầu lễ phép vâng lời trước tay ga, cần lái. Khi thì bướng bĩnh, phẫn nộ và ương ngạnh. “Cùng với em, làm những phát ngao du sơn thủy, từ trên cao nhìn xuống non sông cẩm tú, anh cảm thấy yêu nước mình hơn”.

Bây giờ thì chiếc phi cơ đã nằm tắm mát dưới lòng sông, nước đã phủ trùm lên, xóa hết không còn đấu tích. Đăng biết rằng, nếu những người bạn đi tìm kiếm, chắc cũng chẳng thể thấy được. Bay thử máy và huấn luyện cho phi cơ khu trực, bao giờ cũng phải thực hiện trên vùng không phận phi trường, với một chiều cao được xin phép trước.

Nhưng một phút yêu đời, Đăng đã mang phi cơ quá xa. Tuy rằng mới có mười lăm phút bay, nhưng vùng trời nầy đã là Vĩnh Bình. Đăng móc túi, lấy ra tấm bản đồ ướt nhẹp. Ngón tay đưa theo đường bộ. Con đường đi nầy dùng xe đò, ít ra cũng phải mất nửa ngày.

Bây giờ là mười giờ. Đăng nằm dưới gốc cây, gối đầu lên chiếc dù đẫm nước, chờ nghe một tiếng động cơ, chờ nhìn một chấm đen trên nền trời. Ngày đó, trực thăng là một thứ phi cơ quí và hiếm, nên có nhìn thấy Đăng, thì Đăng cũng phải về bằng đường bộ. Đồng quê thật yên tĩnh.

Đăng nghe thấy cả tiếng xè xè của một con chim đang đập cánh để đuổi bắt cào cào Lâu lâu, mới nghe thấy một vài thứ tiếng động cơ từ xa, thật xa vẳng lại rồi tất cả lại chìm vào một sự yên lặng mênh mông.

– Không hiểu ở nhà, chúng nó có nóng lòng không?…

Đăng thầm hỏi như vậy… Quả thật, ở nhà, tại Phi Đoàn nầy, đang mở cuộc tìm kiếm qui mô. Chiếc F8F, với thời gian bay chừng một giờ rưỡi, nếu quá giờ đó mà chưa thấy trở về, thì cuộc đời anh chàng phi công kể như hạ màn mất rồi.

Hàng chục phi cơ quan sát cất cánh, bay như đan đi, đan lại trên vùng trời. Phòng Hành Quân, điện thoại lên Đài Kiểm Soát để hòi câu nói cuối cùng của Đăng. Vẫn chỉ là thủ tục vô tuyến đàm thoại thông thường. Điện thoại về Saigon, cũng chẳng có gì mới lạ.

Tới buổi chiều cuộc tìm kiếm chấm dứt, và người ta kết luận rằng Đăng đã đi một đường tàu suốt rồi. Nhiều sự thương tiếc, không biểu diễn ầm ỹ, nhưng cũng tạo ra trên khuôn mặt những người bạn, thật nhiều nét buồn.

Nằm chung phòng với Đăng là An, anh chàng phi công thi sĩ. Tối hôm đó, An đi ngủ nhờ, nhưng phòng nào cũng đầy người. Sang tới phòng của Dương và Tâm, An chỉ xin được trải một tấm vải xuống nền nhà, để ngáo một giấc cho đỡ sợ. Một cuộc điều đình xảy ra liền tức khắc. Bằng lòng cho ngủ nhờ, nhưng sáng mai An có quyền mời Tâm và Dương đi ăn sáng. An đau khổ:

– Lâu lâu mới nhờ tới chúng mầy một lần. Hai thằng chúng mầy mà xúm lại ăn sáng, cuộc đời tao sắp tàn trong ngõ hẹp rồi… Thôi thì dù sợ, tao cũng vẫn về phòng ngủ… Thà rằng vì sợ mà thành… đau tim, còn hơn đau tim vì nhìn thấy chúng mầy ăn sáng bằng tiền của tao…

Chừng mười một giờ đêm, chợt một tiếng la hét thất thanh, rồi một tiếng súng nổ chát chúa, cả cái cư xá độc thân hốt hoảng vùng đậy, chạy ra ngoài, thắy Đăng đứng trước cửa phòng, mặt tái mét không còn một tí máu. Tất cả bọn reo lên:

– A, thằng Đăng về!…

– Mầy làm sao vậy?…

Lúc đó Đăng mới nói được:

– Thằng An nó bắn tao. Tao vừa gõ cửa phòng nó run run hỏi ai đó, tao trả lời, ấy thế là nó hét lên một tiếng rồi bắn ra cửa một phát. May mà không trúng, chứ trúng thì đời tao hết rồi…

Lúc đó An mới mở cửa ra ôm chầm lấy Đăng:

– Tao xin lỗi. Tao tưởng mầy chết rồi, mày là ma về dọa tao chơi. Cũng may tao không ở phòng thằng khác, lúc nửa đêm thức giấc, chợt nhớ rằng chưa khóa nước hay quên cái gì, trở về phòng lấy, thấy mầy nằm chình ình ở trên giường, chắc là tao té xỉu… Tao xin lỗi mày… Mầy có sao không?… Đã ăn uống gì chưa…

Dương mỉm cười trong bóng tối. Chàng nhớ tới khuôn mặt hốt hoảng và hối hận của An ngày đó, chỉ một tí tẹo nữa, là làm cho thằng bạn mình hóa thành ma. Rồi Dương lại bùi ngùi nhớ tới những người bạn đã chết, lúc còn sống rất sợ ma, nhưng không ngờ bây giờ đã thành ma cả rồi...

Đăng may mắn hơn, thoát được sự vùi xác dưới lòng sông, đi hai ba chuyến xe đò, về tới nhà, tớí cửa phòng, tưởng rằng sẽ được nằm dài, nhớ lại những giây phút hiểm nguy vừa trải qua, không ngờ chút xíu nữa thì được nằm yên nghỉ luôn. Lúc bạn bè xúm quanh, hỏi về những chi tiết của vụ thoát nạn, Đăng kể xong rồi dặn đò:

– Nếu vô phước có một lần nào chúng mày phảỉ hạ cánh ép buộc xuống nước thì nhớ đóng chặt “cockpit” lại. Đầu máy nóng lại thêm có dầu chảy ra; trong vài giây, đầu máy chạm mặt nước, nước sẽ sôi lên ào qua người chúng mày. Lúc đó chúng mày sẽ bị luộc chín như con heo. Vậy tao dặn thêm một lần nữa. Nhớ đóng kín cửa lại…

Từ ngày gặp tai nạn ấy, Đăng bị ngưng bay. Những lần Dương muốn dọa ma đám bạn bè, Tâm lại nhắc tới chuyện Đăng, là để nhắc tới viên đạn ghim vào nền nhà. Dương nói thầm:

– Ấy thế mà đã bốn năm.

Bốn năm trời qua đi thật mau. Dương nhận thấy những ngày trong quân ngũ, chỉ những năm đầu là trôi qua thật chậm. Chiếc kim đồng hồ chạy như nhích đi từng giây, từng phút. Tấm lịch treo trên tường cứ như nằm ì ra đó, chẳng ai thèm bóc đi tờ nào. Rồi sau vài ba năm, những năm về sau, trôi qua thật mau, đúng với câu “bóng ngựa qua cửa sổ”. Vừa mới hôm nào là Tết, mà đã lại thấy người ta sửa soạn ăn Tết. Nhưng đêm nay, đêm khó ngủ của Dương, thời gian sao mà quá dài…

Đèn ngoài đường vụt tắt. Dương nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang, thấy kim chỉ năm giờ sáng. Trời tối đen hẳn lại, một cái tối sẫm khi trời chuyển sang ban ngày. Tự nhiên Dương cảm thấy mệt mỏi ghê gớm. Ngoài đường đã có tiếng xe chạy của những người đi làm sớm. Đằng sau lưng cư xá, những người trong Câu Lạc Bộ đã lục đục thức dậy, sửa soạn để bán hàng buổi sáng.

Anh chàng chủ Câu Lạc Bộ bước đi những bước nặng nề, và ngáp một phát rất ồn ào. Tiếng nước chảy ào ào trong phòng tắm và có tiếng cô Thu, bán hàng ở Câu Lạc Bộ, ca một bản cải lương rất mùi… Dương thiếp đi trong những tiếng động đó. Bên tai chàng còn nghe thấy tiếng động cơ thử máy ở sân đậu và bắt đầu tiếng xe chạy qua đầu nhà rầm rập.

Ông trời hình như có một luật lệ riêng biệt, không muốn cho ai được ngủ những giấc vào khoảng chín, mười giờ sáng. Bởi thế chàng thức dậy.

Chàng vào nhà tắm, mở nước cho chảy mạnh. Nước mát tỉnh táo hẳn người. Tự nhiên Dương bật ra tiếng hát. ” Tại sao mình bết quá vậy nhỉ? Chẳng thuộc được một bài hát nào cho trọn bài.” Chàng hát lên mấy câu hát, bài nọ chạy sang bài kia một cách rất ư là mất trật tự.

Ông chủ Câu Lạc Bộ mở mạnh cửa sổ:

– Hôm nay, Trung úy Dương có vẻ yêu đời đấy nhé. Lại còn hành hạ thiên hạ bằng cái giọng hát nhà cháy nữa, thì nhất ông rồi…

Dương nói vọng sang:

– Một tô phở, một ly cà phê. Làm sẵn đặt lên bàn, tôi sẽ sang ngay bây giờ. Nhớ bỏ thêm vài ba con ruồi vào phở để đớp cho ngọt …

Tiếng ông chủ quán:

– Có ngay tức khắc!…

Dương mặc quần áo trong có một phút. Uống xong ly cà phê, chàng không biết phải làm gì cho tới mười hai giờ. Bây giờ mà mò lên Phi Đoàn thì “chuế” quá. Chắc là thằng Tâm nó đã phịa ra một căn bệnh gì của mình, ghê gớm lắm, để xin phép cho minh nghỉ hôm nay.

Thế nào cũng được vài ba lời thăm hỏi. Thế rồi lại thấy mình vác cái bản mặt lù lù dần xác tới, khoẻ mạnh như thường lệ, chắc là thằng Tâm sẽ uất ức lắm. Lần sau, chắc chẳng bao giờ xảy ra một sự xin phép nữa. Chẳng nên chơi dại. Và Dương lại có ý định đi khám bệnh, để thử coi mấy anh tu-bíp có được thử thuốc gì chữa cái bệnh mất ngủ của mình hay không…

Lâu lâu, không nhìn thấy cái mặt con heo của anh chàng “tu-bíp”, Dương cũng thấy nhớ. Anh chàng thầy thuốc mang tên con heo ấy, heo từ bộ mặt cho tới bộ lòng.. Khám bệnh cho vợ lính, chưa cần biết là khai bệnh gì, đau ở đâu, cái lệnh đầu tiên, bao giờ cũng là bắt vợ lính cởi áo ra …

Có một lần, ngồi ở nhà một người bạn có gia đình trong căn cứ, Dương và vài ba người bạn nữa, xúm lại nói về đốc tờ Heo. Khi nói về cái màn bắt vợ lính cởi áo, thì bà vợ người bạn tình cờ ở trong nhà đi ra, nghe được câu chuyện, vội phản đối ngay:

– Chẳng bao giờ ông ta bắt tôi cởi áo.

Tâm vốn tàn nhẫn với đàn bà, dù là vợ bạn, phang ngay một câu:

– Chỉ tại bà chị của tôi …”via” quá đấy! Bà thử trẻ lại chừng một chục tuổi nữa coi.

Vợ người bạn vừa già lại vừa xấu, nên quan đốc heo tha cho sự cởi áo khi khám bệnh. Hình như cặp vợ chồng này kết duyên với nhau từ lâu lắm, vì Dương thấy con họ đã lớn. Đứa con gái đầu lòng đã biết giúp mẹ làm bếp. Dương nhiều lúc nghĩ thầm, chắc chỉ cần vài bao gạo nữa, là con bé có quyền làm điên đảo nhiều người mà biết đâu trong đó có cả mình.

Tưởng tượng tới lúc đang chơi với bạn lại thành con rể của bạn, chắc hẳn tình cảnh phải éo le lắm. Lần đầu tiên, Tâm và Dương được bạn mời tới chơi nhà, gặp người đàn bà nầy lại cứ tưởng là mẹ của bạn, nên ăn nói rất mực lễ phép.

Người đàn bà thản nhiên trả lời:

– Nhà tôi vừa mới chạy qua hàng xóm… Mời hai anh vào chơi. Nhà tôi cũng cho biết là hôm nay mời hai anh tới dùng cơm. Con Lan đâu rồi… Rót nước mời hai bác đi con!…

Tâm và Dương nhìn nhau mìm cười ngượng ngập. Từ tiếng bác, đổi được sang tiếng chị, lối xưng hô đã thấy khó khăn. Rồi chừng ít lâu thì quen đi…

Trên đường đi tới bệnh xá Dương bỗng đổi ý. Chàng lại chẳng muốn đi khám bịnh. Quanh đi quẩn lại, chỉ có ngần ấy thứ thuốc. Anh đốc heo vốn chẳng có thiện cảm gì với dân “pilot”. Lỡ một cái, anh đè ra, lụi cho một phát sưng mông thì thật dại, mà chuyện ấy rất dễ xảy ra. Cứ ngồi mà nhìn anh ta lựa chiếc kim nào lớn nhất, dài nhất ra để xài, cũng đã lạnh xương sống rồi

Ngoài cái tật sợ ma, Dương còn sợ chích thuốc. Cứ nhìn thấy cái kim đâm vào thịt là Dương bỗng thấy ghê ghê. Bệnh viện của lính hơi hiếm nữ y tá. Chỉ toàn là đực rựa, nên bàn tay chẳng mềm mại tí nào. Nhân đi qua một trại gia binh, chàng rẽ vào, đi thơ thẩn dọc theo mấy nhà cũ và thấp.

Trại Gia-binh mang tên Huỳnh Hữu Bạc. Tên ngưòi bạn chàng được đặt cho chỗ nầy. Bạc là người phi công khu trục đầu tiên gãy cánh, nên có nhiều nơi dành lấy tên của người bạc mệnh. Từ một Câu Lạc Bộ đầy chất lộng lẩy, xa hoa, cho tới một trại gia binh nghèo nàn. Mỗi lần đi vào trại gia binh, chàng lại thấy nguội lạnh ý định lấy vợ.

Những gia đình sống trong trại gia binh phần lớn đều nghèo. Ngày đó người Mỹ chưa sang nhiều, nên chưa xảy ra những vụ kiếm ăn dễ dãi. Nhiều gia đình phải kiếm thêm bằng cách nấu cơm tháng, bán hàng và giặt đồ. Những đứa trẻ không người trông nom, đi chơi lủi thủi với nhau như một lũ gà con kiếm ăn nơi vườn rộng. Không ngày nào là không xảy ra những vụ cãi lộn, phần nhiều là tại vì lũ trẻ con.

Chơi với nhau thân thiết đấy, nhưng chỉ vì một cục kẹo, một đồng bạc, là sẵn sàng đấm đá nhau đến sưng mặt.

Vác cái mặt sưng u lên về nhà, được bố mẹ hỏi tới, bao giờ đứa trẻ con cũng phải thuật chuyện bằng cách đổ hết lỗi cho bạn. Ấy thế là những người lớn vì bênh con mình lại quay ra gây lộn với nhau, nhiều khi còn xảy ra những vụ đáng tiếc. Nói về những vụ đáng tiếc xảy ra ưong Trại Gia-binh thì nhiều lắm. Để nước chảy qua nhà nhau, rút trộm của nhau vài thanh củi, để chó ị bậy trước cửa nhà hàng xóm, là cũng đủ gây ra những vụ ẩu đả ác liệt.

Con người vốn ích kỷ, ít khi có thể nhường nhịn được nhau. Trại Gia-binh nào thì cũng thế thôi, dù rằng trại dành cho sĩ quan hay binh sĩ…

Trên một tấm ván để ngoài hàng hiên chật hẹp, Dương thấy bốn người vợ lính đang sát phạt nhau bằng bài tứ sắc. Những ông tướng xanh, tướng đỏ nằm phơi tênh hênh trên chiếu.

Đằng sau lưng một người đàn bà có một đứa trẻ vừa biết bò, đang ngoạc mồm ra khóc. Người mẹ đang dí vào tận mắt những con bài, mặt không lộ vẻ gì động tâm khi nghe con khóc. Vài ba quân bài lại được quặt xuống chiếu.

Rồi có lẽ không chịu nổi với tiếng khóc xa xả ấy, chị nắm lấy cánh tay đứa con, lôi thốc nó lên, thản nhiên vạch ngực ra.

Đứa nhỏ, ôm lấy ngực mẹ, bú một cách tham lam. Người đàn bà lại tiếp tục đánh bài. Dương nhìn một người đàn bà trong đám ấy thấy có nhiều nét quen thuộc.

Chừng vài giây sau, chàng chợt nhớ tới một người con gái, nổi tiếng là hoa khôi của một trường nữ Trung Học, nằm trên một con đường đầy xác lá vàng. Trường của chàng ở gần trường nữ trung học ấy, và ít ra thì trong lớp chàng, cũng có tới hàng chục anh si mê người con gái này…

Ấy vậy mà người con gái ấy bây giờ đã thành một người đàn bà, đang ngồi đây đánh tứ sắc còm, năm cắc một lệnh. Người đàn bà cũng cảm thấy có người nhìn, vừa ngừng mặt lên thì gặp đôi mắt của Dương.

– Xin lỗi Trung úy, muốn kiếm ai?

Dương cười buồn:

– Chị… Chị… Hằng phải không…?

Người đàn bà sững sờ vì nghe thấy có người gọi tới cái tên cùa mình thời con gái. Cái tên Hằng, đã có một dĩ vãng oanh liệt, đã từng gây điên đảo cho đám học trò con trai.

Từ trường Trưng Vương, quay một vòng tròn, đường bán kính không rộng lắm; đã có tới ít nhất là ba trường con trai. Gần trường lại có khu Đại Học nằm cạnh Viện Bác cổ phía bờ sông, tấp nập ra vào những chàng sinh viên đạo mạo.

Từ mấy năm nay, cái tên Hằng gần như chết ròi. Chỉ còn lại bà Hậu, bà Trung sĩ nhất Hậu, với một ngôi nhà nhỏ trong trại Gia-binh và tới những người bạn gái mới, thuộc đủ thành phần xã hội. Sau vài giây sững sờ, chị chớp mắt:

– Dạ, tôi là Hằng… Trung úy cần hỏi việc chi?…

– Chị Hằng không nhớ tôi sao? Dương đây mà?…

Người đàn bà thốt lên một tiếng reo vui. Khi mà người con gái tên Hằng còn là hoa khôi của trường nữ trung học ; thì Dương là anh họ của một người bạn gái mà Hằng thường lui tới, học chung với nhau trong mỗi kỳ thi lục cá nguyệt. Nhiều lúc Hằng cũng để ý tới anh chàng con trai lừng khừng, lúc nào cũng có vẻ như chán đời ấy.

Rồi những năm mới di cư, còn nằm ở nhà Hát Tây, Hằng gặp lại Dương. Lúc đó thì Dương với Phượng đang gắn bó với nhau.

Hằng lại là bạn thân của Phượng. Không ngờ gặp nhau ở đây. Đã năm năm nay rồi còn gì. Chị Hậu, bây giờ phải gọi Hằng là chị Hậu. Chị Hậu niềm nở:

– Mời anh vào nhà tôi chơi. Nhà tôi ở ngay bên cạnh đây. Mời anh, mời anh vào chơi…

Dương đi theo chị Hậu vào nhà. Vào đến trong nhà rồi, chàng thấy thương những gia đình phải vào sống trong trại Gia-binh. Căn nhà hẹp, kê ngang một chiếc giường, là chỉ còn có một lối đi chật hẹp.

Trong nhà, chỉ có một cái giường là đẹp nhất, có lẽ là kỷ niệm của ngày cưới. Hậu với chàng cũng là hai người bạn khá thân. Hồi trước, khi xuất ngoại, Dương chọn nghề lái tàu bay, còn Hậu đi học nghề thợ máy. Một chuyên viên ở bên Tây về, mà cuộc sống khốn khổ như thế nầy sao?

Chàng nhìn tấm hình của Hậu và Hằng treo trên tường, vẫn còn giữ được nhiều nét yêu đời của thời mới cưới. Chị Hậu đặt con luôn xuống nền nhà, rồi cười, nói với Dương:

– Nhà chỉ có nước lọc… Anh uống gì, để tôi chạy đi lấy… Mới dọn vào ở trong này được một tháng nay, nên nhà còn bề bộn quá…

Dương từ chối

– Thôi, chị đừng mua gì cả. Nhà Hậu ở đây mà hôm nay tôi mới biết. Có lẽ tôi sẽ tới chơi luôn.

Chi Hậu trợn mắt:

– Anh cũng quen biết nhà tôi?…

Rồi chị thở dài:

– Tính gàn quá, anh Dương ạ! Nếu anh ấy mà chịu khó sống như người ta, thì đâu có đến nỗi nghèo quá như thế này. Nhiều lúc thấy chán đời chỉ muốn tự tử, nếu không có thằng bé này.

Dương nhìn theo ngón tay của chị chỉ vào thằng bé đang bò lê la dưới đất. Chú nhỏ thản nhiên, bỉnh ra một đống giữa nhà. Một chú khuyển, không biết nấp ở đâu từ trước, nhảy xổ ra, đớp liền, vừa đớp vừa gừ gừ, như sợ bị ai dành mất phần ăn quí báu. Tới lúc liếm cái nền nhà đã nhẵn bóng, chú khuyển lại rút lui về vị trí cũ, như một tay đánh du kích thiện nghệ.

Chị Hậu bế thốc thằng nhỏ; mang ra phía đằng sau rửa ráy, rồi xin lỗi Dương:

– Anh coi… Tụi nầy sống bê bối quá!..

Trong lúc đó thì Hậu về. Bóng dáng chịu đựng, cúi gò lưng trên chiếc xe đạp. Hậu dựng xe ngoài cửa, nhìn thấy Dương ở trong nhà thì reo ầm lên:

– Trận gió nào thổi mày tới nhà tao thế này? A, hôm nay quan hai lại đi có một mình. Thằng Tâm đâu rồi? Mọi khi đi đâu, hai thằng chúng mày cũng dính với nhau như hai vợ chồng. Hôm nay, phải ở lại đây, ăn cơm với tao.

Ở quân chủng này, ít khi xảy ra vụ kỳ thị cấp bực. Đã là bạn bè với nhau thì dù bất cứ ở cấp bực nào ở địa vị nào, cũng vẫn xưng hô như thường lệ. Thằng nào mà muốn biểu diễn oai quyền, thì những thằng đó nên xin ra khỏi quân chủng. Chị Hậu thấy chồng mời Dương ở lại ăn cơm thì vội kéo chồng tới gần thì thầm:

– Ăn uống có gì đâu, mà mời anh Dương ở lại ăn cơm.

Hậu gắt nhặng lên:

– Muốn nói cái gì thì nói lớn lên. Có khách tới nhà, không có lối nói thì thầm. Cần phải có một tí teo lịch sự. Giấy rách cần phải giữ lấy lề…

Anh chàng Trung sĩ nhất này, vẫn còn nhớ những phép lịch sự, học được từ ở bên Tây. Khi có khách lạ trong nhà, không nên nói thì thầm, sợ khách cho là nói xấu. Gửi thư ngỏ, nhờ ai chuyển tay, không bao giờ được dán kín. Thì ở bên Tây về, chỉ hơn người được có thế. Dương hỏi lại:

– Nhưng mà “ma đàm” của mầy nói gì vậy?…

– Em trách tao đã mời mày ở lại ăn với tao một bữa cơm thanh đạm. Mà thanh đạm thật đấy, Dương ạ. Đã từ mấy tháng nay, chúng tao tập làm phù thủy Ấn độ. Chỉ sợ rằng với “rề-dim” này, chẳng mấy lúc, tao sẽ hơn chúng mày là biết bay mà không cần tới phi cơ.

Câu khôi hài của Hậu nhuốm đầy vẻ cay đắng. Không cần phải hỏi, Dương cũng hiểu được cuộc tình của Hậu và Hằng. Người con gái, hoa khôi của trường Trưng Vương, liệu có chịu đựng mãi được cảnh sống này không? Hay là rồi đây, sẽ bỏ cái Trại Gia- binh này, chạy theo cái nếp sống xa hoa?… Dương không tin rằng Hằng sẽ như thế, và Dương cũng không mong như thế. Chàng từ chối:

– Thôi để tao về. Bữa cơm nào tao cũng ăn với thằng Tâm. Không có tao, nó nhớ không ăn được…

– Thì gọi nó tới đây… Lâu lâu họp mặt một bữa. Để tao nhờ một thằng nhỏ đi gọi dùm… Còn cô, chạy sang nhà thằng Luận, kêu nó qua đây, mang cả cơm nhà nó sang đây, ăn cùng một thể luôn. Còn bao nhiêu tiền, mang ra mua lade„ rồi coi xem có thứ gì đớp được thì mua mang về đây…

Hậu ra lịnh như một ông tướng chỉ huy ba quân. Chị Hậu tuân lời, không có một tí tẹo phản đối. Khi nghe hết lịnh, mới cười:

– Cuối tháng thì nhớ chạy tiền đấy nhé!…

Hậu không trả lời, đi ra ngoài cửa, đưa tay vẫy một thằng nhỏ để nhờ đi gọi Tâm. Chàng đưa nó lên cao hướng về căn nhà ba tầng lầu, lẫn trong đám lá cây cao su xanh mướt:

– Thấy cái phòng thứ ba kia không?…Đếm lại cho bác nghe coi, một, hai, ba., đúng rồi. Leo lên phòng đó, hỏi Trung úy Tâm. Nói rằng bác Hậu con mời bác tới nhà, có cả bác Dương ở đây rồi. Nếu thấy bác Tâm chưa về, thì cứ ngồi ngoài cửa mà đợi.. Nhắc lại cho bác nghe. À được rồi, thằng này cũng khá thông minh đấy. Nếu đón được ông Trung úy Tâm về đây, là có quyền bắt năm tì…

Thằng bé được thả xuống chạy đi… Con nít xóm nầy cứ có năm tì, mười tì là sai được hết. Sống ở trong Trại Gia-binh, mới đầu thì khổ tâm và nhức đầu vì những chuyện eo sèo, nhưng rồi dần đần cũng quen đi. Thằng nhỏ được việc thật. Chỉ mới năm phút nó đã ngồi đằng sau xe của Tâm để được chở về. Việc đầu tiên là đòi tiền. Hậu trả cho nó năm đồng, nhưng lại bị đòi thêm:

– Bác còn nợ con năm đồng hôm nọ, sai con trèo lên hái tầm ruộc…

– Tao đâu có ăn tầm ruộc?..

– Bác gái sai con mà…

Hậu phải xùy ra thêm năm đồng nữa mà mặt buồn xo. Không phải buồn vì mất thêm năm đồng nữa, mà buồn vì vợ ăn tầm ruộc. Chắc là có chuyện rồi. Tối nay phải hỏi cho ra lẽ. Mụ mà mang thêm một cái bầu nữa, thì “thật là đại bất hạnh”.

Tâm vào nhà thấy Dương đã ngồi trong đó thì mắng yêu:

– Bố mày!.. Bắt tao xin phép nghỉ, tưởng là đau ốm gì ghê gớm lắm, không ngờ lỉnh đi chơi. Biết vậy, lần sau thì đừng hòng… Quả thực buổi sáng, nhìn thấy cái mặt đỏ bừng của mầy, tao cũng lo lắm, nên về sớm, thăm mầy xem ra làm sao.. Hôm nay, có chuyện gì vậy Hậu?

Hậu đưa chân lên chiếc ghế ọp ẹp, rung đùi:

– Cứ hễ ăn là có chuyện gì hay sao?… Tại hôm nay thằng Dương lạc đến nhà tao. Tao bắt nó ở lại ăn cơm. Chỉ có thế thôi..

Luận cũng đã sang, mang theo một chai rượu thuốc và một lọ cà.

Uống rượu với cà là một thú vui của những dân nhà nghèo. Cà với Tâm, Dương, Hậu và Luận, được đặt tên là “Ô-liu Giao Chỉ”. Vừa nhìn thấy những trái cà trắng phau, Hậu mừng rỡ:

– Nếu để cho tao chọn lựa giữa 2 lọ cà và ô liu, nhất định tao sẽ chọn lọ cà. Nhưng này Luận, rượu thuốc của mày được ngâm theo toa thuốc nào vậy?…

Luận lừng khừng:

– “Nhất dạ lục giao, sinh ngũ tử..”

Tâm và Dương cùng cười vang. Chỉ có Hậu là không cười. Có lẽ Hậu vẫn bị ám ảnh bởi những trái tầm ruộc, và cái bầu của vợ, nếu thực tình Hằng thèm ăn của chua, vì đã mang bầu…

Hậu và Luận cũng là đôi bạn thân như Tâm và Dương. Chỉ khác là Hậu và Luận đều có gia đình, còn hai chàng phi công thì độc thân. Vợ con Hậu và Luận đều dẹp, đã từng là hoa khôi của những trường nữ trung học. Một điều đáng ngạc nhiên của cái quân chủng nầy, là những người đẹp không phải là vợ sĩ quan, mà thường là vợ hạ sĩ quan. Đó cũng là một mối hoài nghi khó giải.

Hậu tự nhiên buồn, vì sợ rằng vợ mình mang bầu thêm một lần nữa. Cuộc sống hồi nầy rất chật vật. Số tiền mượn để làm đám cưới, đã gần bốn năm rồi, mà trả vẫn không xong. Tiền lương mỗi tháng lĩnh về, được tiêu xài có một nửa, còn một nửa phải mang ra trang trải nợ nần. Những ngày mới cưới, Hậu chê nhiều nhất cái Trại Gia-binh, coi Trại Gia-binh như một thứ nhà tù.

Theo ý Hậu, thì căn nhà cũng như con người. Trong một xóm, một dãy phố, những căn nhà phải khác nkau, cũng như hàng trăm người đi trên đường phải có những khuôn mặt khác nhau. Trại Gia-binh thì không thế. Căn nhà nào cũng giống như căn nhà nào, nếu trông ở bề ngoài. Chỉ có bên trong là chưng dọn khác, tùy theo tình trạng tài chính của chủ nhân.

Khi phải rời căn nhà ngoài phố vào ở trong trại, Hậu rất khổ sở nhưng vì tình thế bắt buộc. Ở trong này tiết kiệm được mỗi tháng ngàn bạc tiền nhà, và với tình trạng kiệt quệ như hiện nay, thì một ngàn bạc cũng là một con số đáng kể.

Lúc đó thì vợ Hậu trở về, tay ôm một mớ đồ làm món nhậu cho lũ đàn ông. Hậu tò mò nhìn xuống bụng vợ, thì thấy vẫn không khác gì. Chàng cũng thấy yên chí phần nào, và vui vẻ trở lại:

– Cô mua được gì thế?

– Mua được cái lưỡi heo và một miếng đầu heo. Chờ đó, em đặt nồi nước lên bếp. Chỉ chừng nửa giờ, là có quyền… đớp.

Dương nhìn điệu bộ lếch thếch của vợ Hậu, bồng con đi mua bán và bồng con xuống bếp. Dương nghĩ thầm rằng chắc Hằng phải yêu Hậu lắm, mới chịu đựng được cái cảnh này. Chàng lảng xuống bếp bồng lấy thằng bé:

– Ra bác bồng một chút, để cho mẹ làm bếp mau lên. Bác đói rồi…

Thằng bé được theo mẹ đi chợ, có lẽ cũng đã được ăn một cái gì no nê rồi, nên dễ tính. Dương bồng nó lên tay mà nó không khóc, đòi mẹ. Vợ Hậu cười:

– Anh yêu con nít như vậy, sao không lấy vợ đi. Tưởng rằng anh với Phượng, lấy nhau từ lâu rồi, trước cả tụi này… Anh với Phượng thì đẹp đôi quá rồi còn ngần ngại gì nữa…

Vì là căn nhà nhỏ, nên những câu chuyện dưới bếp vẫn vọng lên được tới trên nhà. Hậu nói vọng xuống:

– Nó lấy vợ rồi mà cô không biết sao?..

– Có thật không?.. Thế thì hôm nào phải giới thiệu cho em biết mới được.,.

– Cần gì phải giới thiệu… Vợ nó là thằng Tâm đang ngồi chình ình một đống ở đây này.

Tiếng cười vang lên trong căn phòng hẹp. Không phải tới bây giờ, thiên hạ mới gọi Tâm và Dương là hai vợ chồng. Hai anh chàng nầy, đi đâu cũng dính với nhau, nên nhiều khi, bạn bè thường đùa rỡn gọi là đôi uyên ương. Nhưng ai là chồng, ai là vợ?… cả hai đứa đều không thể trả lời. Hậu gọi:

– Dương à, lên đây uống hết ly của mầy đi!..

Dương bồng đứa cháu nhỏ lên nhà. Chàng ực một hơi hết một ly rượu thuốc, và thấy cổ họng nóng ran lên, phải hà một tiếng, như đệ tử lưu linh chính hiệu. Chàng đưa ly cho Luận rót thêm. Vợ Hậu từ dưới bếp bưng theo một tô lớn thịt heo, khói bốc lên nghi ngút. Vợ Hậu vẫn còn thắc mắc về câu chuyện chồng vợ của Dương:

– Tại sao anh với Phượng lại xa nhau vậy?..

Dương trả lời buông xuôi:

– Tôi cũng không biết nữa.

– Chủ nhật này về Sàigòn, tôi sẽ lại nhà Phượng, hỏi chuyện về anh. Để câu chuyện chẳng có đầu, có đuôi như thế nầy, tức muốn chết. Nếu cần tôi sẽ tác hợp lại cho hai ông bà…

Dương nói đùa:

– Dạ, xin nhờ chị… Rồi sau nầy, vợ chồng có sinh năm đẻ bẩy được cũng là nhờ cái… mồm của chị…

Tiếng cười, tiếng nói như muốn phá vỡ căn nhà, phá vỡ những trái tim con người, thực sự thương yêu nhau, dù rằng gặp nhau chỉ với những ly rượu…