← Quay lại trang sách

ĐOẠN CHÓT

Thời gian mà Tâm hẹn với mẹ để giải quyết vấn đề Thư Hương là một tháng. Một tháng có ba mươi ngày. Một ngày qua đi, Phượng có cảm tưởng như nàng bước thêm một bước gần tới hạnh phúc. Má Phượng lại đỏ hồng, môi Phượng lại có được màu thắm.. Như một cánh chim sau con bão tố, rủ sạch được nước mưa ướt trên đôi cánh, chim sửa soạn bay lên cao, thật cao về chân trời đầy nắng, đầy hoa. Nụ cười của Phượng không còn héo hắt. Vết nhăn nơi khóe miệng đã dần dần dãn ra, để khuôn mặt của Phượng rạng rỡ như mặt trăng đêm rằm.

Phượng không che dấu sự vui tươi trong lòng mình. Nàng cười, nói và hát suốt ngày. Chị Yến than phiền:

– Con nhỏ này nó điên rồi chắc…

Loan thì tức bực:

– Mày khép cái cửa miệng của mầy lại được một lát, không Phượng?… Đang buồn muốn chết mà cứ nhí nhảnh, ca với hát…

Loan buồn, vì Loan sắp sửa phải lên đường. Ba chiếc va-li to tổ bố đã xếp gọn ở một góc nhà. Chỉ còn vài ngày nữa là Loan sửa soạn cho một chuyến đi, rất dài và rất lâu.

Mấy năm xa mẹ, xa chị, xa em, xa quê hương đã làm Loan nhiều lúc buồn muốn phát khóc. Ấy vậy mà bên cạnh lại có Phượng lúc nào cũng chỉ trêu chọc, thì sao mà Loan không nổi giận. Nhưng dù cho một kẻ than phiền, một kẻ tức bực, mặt Phượng cứ trơ ra. Nhiều lúc đang ngồi yên lặng, cả nhà đang chăm chú lo việc riêng của mình, thì Phượng hét lên một tiếng. Chị Yến giật mình, kim đâm cả vào tay. Loan thì đánh rớt chiếc măng-tô mà nàng đang cầm chải bụi.

Vinh đang sửa xe, tuy vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng cũng hơi hốt hoảng một tí. Vinh cười, tay vẫn siết con ốc:

– Chị Phượng lại nổi cơn điên rồi.

Cơn điên của Phượng tới thường trực hàng ngày. Vinh khoái nhất cơn điên của Phượng, vì lúc Phượng nổi cơn thì cái gì của Phượng, Vinh xin cũng được hết. Cả chiếc xô-lếch nầy, Phượng cũng đã hứa cho Vinh, nhưng phải chờ một tháng nữa. Tấm lịch treo trên tường, nhà đều lười biếng không ai chịu bóc, nhưng bây giờ, Phượng là người bóc lịch chăm chỉ nhất.

Mỗi tờ lịch bóc đi nàng lại vui hơn một chút, điên hơn một chút. Chị Yến và Loan chỉ đoán mò rằng, Phượng có một chuyện gì vui lắm. Câu chuyện của Phượng, của Dương, của Thư Hương, chẳng ai được bỉết, vì những người trong cuộc, ai cũng dấu diếm, không nói ra.

Ngày Loan đi, Phượng cũng buồn mất vài phút. Đấy là lúc Phượng nhìn mọi người, mắt đỏ hoe, đứng ở nhà ga phi cảng. Cái khung cảnh nhộn nhịp của sân ga phi cảng, không làm vui được cái không khí tiễn đưa. Loan dịu dàng nắm lấy tay Phượng:

– Chị đi, Phượng có buồn không?

– Buồn, buồn chứ. Buồn bỏ xừ đi…

Chưa bao giờ Phượng thấy Loan ăn nói dịu dàng đến thế. Nhất là xưng chị với Phượng. Bởi thế Phượng lại trêu tức:

– Chị Loan có biết tại sao Phượng buồn không?… Phượng buồn vì bây giờ, nhà thiếu mất người rửa chén, lau bàn. Lại phải chia thêm công việc. Buồn, buồn quá!…

Đang buồn như thế mà Loan phì cười… Công việc rửa chén, lau bàn là công việc của Loan.

Nhưng sau khi cười được một tí, Loan lại bâng khuâng vì nhớ nhung và luyến tiếc. Tiếng máy phóng thanh ậm ọe gọi những người sắp sửa lên đường, ra cổng số một, Loan ôm lấy các cháu, hôn mỗi đứa một cái, hứa hẹn sẽ mua quà gửi về cho cháu. Các bà chị dâu, cầm tay mấy đứa nhỏ, chắp tay lại, cúi đầu, ạ cô… Loan bước vào khung cửa kính, và thoát ra ngoài sân bay rộng thênh thang, gió thổi lồng lộng. Phượng, mẹ, chị Yến và các anh, các cháu lên trên lầu nhà ăn, nhìn cánh cửa phi cơ, có Loan bước lên bực thang sắt, một tay cầm áo măng-tô, một tay xách chiếc va-li nhỏ.

Liếc nhìn sang mẹ, Phượng thấy mẹ khóc. Lúc này Phượng mới thấy buồn thấm thía…

Buổi tối, nằm trên chiếc giường rộng, Phượng nhớ Loan ghê gớm. Nhưng rồi cái nhớ ấy phai dần. Chỉ ba ngày sau, Phượng đã tạm quên. Bây giờ ở nhà, người nhắc đến Loan nhiều nhất là mẹ, nhất là những lúc có những món ăn mà Loan thích. Mẹ Phượng cứ thắc mắc rằng sang đến bên đó, không biết Loan có chịu được lạnh, có ăn được đồ ăn của người ta không? Phượng nói đùa với mẹ rằng, rồi đây không chừng mẹ có thêm một chàng rể người Mỹ. Mẹ Phượng mắng Phượng một câu, nhưng rồi lại thắc mắc, lo âu.

Buổi tối hôm đó, mẹ Phượng bảo Vinh viết thư cho Loan, viết luôn cả những lời dặn dò của mẹ.

Thư Hương ở nhà hộ sinh mười ngày. Nàng đã trở về nhà. Nàng sống trong sự nôn nao chờ đợi. Nàng chờ bà Phủ, anh Tâm hay là Phượng và Dương nói đến chuyện của nàng. Nhưng chẳng ai đả động gì tới. Chẳng lẽ nàng lại hỏi trước. Tâm vẫn giữ thái độ thản nhiên. Nhiều lúc Thư Hương bắt gặp đôi mắt xót thương của mẹ nhìn nàng. Những lần bắt gặp đôi mắt ấy, nàng thường cúi mặt xuống. Thời gian ấy, Tâm và Dương rất ít về nhà. Hai người lấy cớ là bận công vụ. Nhưng nàng hiểu rằng, họ tránh gặp mặt nàng.

Một buổi tối, không chịu được sự nôn nao khó chịu, nàng sang phòng mẹ. Nàng nói với mẹ:

– Tối nay, mẹ cho con ngủ ở đây với mẹ.

– Có con rồi mà còn sợ ma.

– Đâu có. Lâu quá không được ngủ với mẹ, thành ra con nhớ hơi mẹ quá.

Bà Phủ linh cảm rằng, không phải vì nhớ hơi mẹ mà Thư Hương đòi nằm với mẹ. Bà rất sợ phải nói với con gái những chuyện buồn, nhất là chuyện Phượng và Dương, Thư Hương. Bà thoái thác:

– Hôm nay mẹ mệt. Nằm với mầy, mầy cứ hỏi chuyện lang bang làm mẹ không ngủ được. Phải nằm ở phòng mà trông con chứ. Đêm thức dậy, cháu khóc thì sao?

Thư Hương cúi đầu lặng thinh. Một lát sau, Thư Hương mới nhìn mẹ bằng đôi mắt thật khắc khoải:

– Anh Tâm với anh Dương có bàn tính đến chuyện con không hở mẹ?

– Sao mầy không hỏi thẳng anh Tâm, anh Dương?…

– Con biết hỏi như thế nào?

Thư Hương nói như thế cũng là phải. Bà Phủ tránh nhìn vào đôi mắt của Thư Hương và nói tiếp:

– Mẹ muốn biết rằng con có yêu Dương không?…

Bà Phủ hỏi câu đó cũng là bất đắc dĩ lắm. Chính ra thì bà muốn rằng, chuyện của tụi trẻ thì để chúng nó giải quyết với nhau. Bà đã già rồi, không muốn mệt óc vì những chuyện này, và có lẽ bà cũng không muốn làm cho con trai, con gái phải phiền lòng. Nhưng câu hỏi, đã thốt ra khỏi miệng mất rồi. Hỏi câu đó xong, bà chẳng muốn được nghe trả lời.

Hai mẹ con cùng lặng thinh… Thư Hương cúi mặt nhìn nhũrng ngón chân của mình đặt trên nền gạch hoa trắng bóng. Nàng nghĩ lại những ngày vui xưa khi còn ở căn nhà nhỏ cạnh đường tàu. Với Dương, tuy chỉ là vợ chồng hờ, không cần nhau trong chuyện chăn gối, nhưng trong căn nhà nhỏ ấy, cũng giữ nhiều hương đầm ấm của một tiểu gia đình. Có hương tóc, da thịt đàn bà, có mùi thuốc lá mạnh, vững chắc của đàn ông. Cảnh đó, hương sắc đó đã quyến rũ Thư Hương. Những lúc mà Dương vắng nhà, Thư Hương cũng khắc khoải chờ mong. Bà chủ nhà lại hay lên căn lầu đó, nói vài ba câu chuyện, thường là khen ngợi cái êm ấm của đôi vợ chồng trẻ. “Hai cô cậu ở nhà, chẳng bao giờ nghe thấy tiếng nói lớn.Thật là hiếm có. Vợ chồng trẻ là ưa cãi nhau lắm, nhưng hai cô cậu thì không”.

Bà chủ nhà khen Dương hiền lành và Thư Hương khéo léo. Hàng xóm thường nhìn Dương và Thư Hương bằng những đôi mắt đầy cảm tình. Một cảnh gia đình như thế mà không luyến tiếc sao được.

Bà phủ lại dịu dàng:

– Thư Hương chưa trả lời câu hỏi mẹ…

Nàng nghẹn ngào:

– Con biết trả lời mẹ làm sao bây giờ?… Mới đầu thì con chỉ coi anh Dương như anh Tâm, hay hơn nữa, là ân nhân của gia đình ta. Nhưng về sau này, con thấy thiếu vắng anh Dương, thì lòng thật khắc khoải, lo buồn…

Thư Hương ứa nước mắy, nắm lấy tay mẹ, nói tiếp:

– Ngày anh nằng nặc xin đi bay lại, con muốn ngăn cản một lời, mà không nói được, vì con chẳng có quyền hành gì. Con đã tủi thân khóc mất mấy đêm. Nếu con là vợ anh thật, thì con mới có quyền can thiệp vào cuộc đòi của anh. Những lúc anh đi Biên Hòa, nghĩ tới cái ngày mà phi cơ của anh bị rớt, lạc trong rừng mất ba ngày, lòng con cứ như chết sững. Nhưng rồi cũng quen đi, không còn lo ngại như lúc mới dầu. Nhưng nếu bắt con phải bỏ anh Dương….

Bà Phủ ngắt con:

– Nhưng còn Phượng.. Mẹ không muốn gia đình ta mang tiếng là những kẻ vô ơn, làm đau khổ cả những người ơn của mình…

Bàn tay Thư Hương lạnh ngắt đi như vừa được nhúng vào nước đá. Số phận của nàng, trời định doạt như thế rồi. Trời đã bắt nàng phải long đong, vất vả như thế này, thì nàng đành chịu. Mặt Thư Hương hằn lên những nét đau khổ. Bà Phủ thấy lòng minh nhói đau, thật thương cho con gái. Bà an ủi:

– Con quên đi… Sau vụ này con nên nghỉ ngơi một thời gian, rồi còn phải sửa soạn lấy chồng.

Thư Hương lắc đầu một cách dữ đội:

– Chẳng bao giờ con lấy chồng nữa.

Bà Phủ biết tính tình con gái. Khi Thư Hương mà nói như vậy, là nàng đã chán nản lắm rồi. Không chừng nàng sẽ bỏ thi cử, bỏ hết tất cả, và coi cuộc sống của những ngày sắp tới như một cuộc sống của kẻ khác.

Bà không lo Thư Hương tự tử như lần trước vì còn bé Hoàng, bắt nàng phải sống.

Nhưng với cái rầu rĩ, buồn đến thê thảm, thì sống như thế, nào khác gì đã chết.

Tiếng bé Hoàng khóc vang lên ở phòng Thư Hương. Thằng bé khỏe mạnh nên khóc thật lớn. Bà Phủ đập mạnh vào Thư Hương:

– Con nó khóc, chạy về với con đi…

Thư Hương giật mình, nói một câu vô nghĩa:

– Ừ, cháu khóc…

Rồi nàng đứng dậy, hấp tấp bước đi. Bà Phủ nhìn theo, lắc đầu thương hại, Bà cũng hờn giận mình, vì đã nóng nảy quá, không chờ để Tâm giải quyết câu chuyện này. Nhưng rồi bà nghĩ lại, thấy rằng, biết trước được ý nghĩ của Thư Hương, như vậy cũng hay. Bà sẽ kể cho Tâm nghe câu chuyện buổi tối hôm nay, để Tâm lựa chọn lời nói với Thư Hương những câu có tính cách quyết định. Thằng bé Hoàng vẫn khóc vang vang.

Bà ngồi dậy, đưa chân kiếm đôi dép, đi chậm chạp sang phòng con gái.

– Thằng cu sao mà khóc dai thế?…

Thư Hương đứng ở bàn sữa, trả lời mẹ:

– Chờ pha sữa mà nó khóc thế đấy… Không hiểu rằng đói một ngày, thì nó khóc tới đâu…

– Sao con không cho nó bú?

– Con lo một vài tháng nữa phải đi dạy học, nên cho cháu ăn sữa hộp. Lúc con ở trường, lấy ai cho nó bú.

– Nếu vậy con phải tập cho người làm pha sữa…

– Dạ con sẽ tập dần đần… Còn bây giờ, con chỉ sợ chị ấy làm dơ, rồi cháu đau bụng. Cái thằng chó ấy, coi vậy khó tính lắm đấy, mẹ ạ…

Đứa nhỏ đã làm cho hai mẹ con tạm quên câu chuyện buồn vừa rồi. Thấy đứa nhỏ khóc lâu quá, bà Phủ cũng thấy sốt ruột. Bà bồng thằng cu Hoàng lên. Thằng nhỏ nín khóc ngay, mắt nhìn bà ngoại, miệng nhóp nhép đòi ăn. Bà Phủ giục Thư Hương:

– Mau lên con mẹ ranh! Cháu bà đói quá rồi đây..

Thư Hương lắc chai sữa:

– Mẹ cứ để thằng chó khóc một hồi nữa cho khỏe, không sao đâu. Khóc nhiều càng nở phổi…

– Thôi đừng có ác nhân, ác đức như vậy. Nghe trẻ con khóc, nhất là khóc đói, ai mà chịu được.

Thằng bé được bồng lên, tưởng là được ăn, nhưng chờ mãi không thấy, sắp sửa ngoác cái mồm ra khóc nữa, Thư Hương cười, dơ tay đón lấy đứa con từ trên tay bà ngoại nó. Thằng nhỏ tham lam, bú đến lõm chiếc vú cao sú, nổi bọt chai sữa.

– Từ từ thôi chú bé, không sặc bây giờ…

Nàng ôm con, nhẹ vỗ vào lưng con… Nhìn cảnh ấy bà Phủ thấy lòng mình ấm áp hẳn lại. Có đứa con, đứa cháu như thế nay, thì người lớn cũng vui lây, quên đi được những cảnh khổ, lúc nào cũng như rình rập quanh mình. Bà Phủ ngồi xuống cạnh Thư Hương:

– Con cứ cho cháu bú… Còn lâu, con mới đi dạy học mà. Ít ra thì cũng phải sáu tháng nữa, thì lúc đó, thằng cu Hoàng cũng đã lớn, có cai sữa mẹ cũng đỡ thấy thương. Cho con bú, tình mẹ con mới thắm thiết, đứa con lúc lớn lên mới yêu mẹ nhiều hơn…

Thư Hương mỉm cười hỏi mẹ:

– Hồi tụi con còn bé, mẹ có cho tụi con bú khônơ?

– Có chứ! Chúng mầy là bú tí mẹ lâu nhất. Nhất là thằng Tâm. Đi học rồi mà còn nhớ tí. Cứ đi học về là chạy vào tranh tí mẹ với em. Mãi về sau, bị chế quá, anh Tâm của mầy mới bỏ được, nhưng cũng ngẩn ngơ mất mấy ngày...

Nhắc đến Tâm, bà Phủ thấy nhớ bâng khuâng. Cái thằng tệ đến thế thì thôi. Cả nửa tháng nay, từ ngày Thư Hương ở nhà hộ sinh về là Tâm mất mặt, không về thăm nhà. Cả Dương nữa.

Hình như hai đứa chúng nó bàn tính với nhau chuyện gì, nên trốn biệt. Những ngày đó, ông Phủ cũng về nhà một đôi lần, nựng cháu ngoại vài câu, hỏi “thằng Tâm đâu”, rồi lại đi. Hồi nầy hình như ông cũng bận rộn chuyện gì. Nhà lại chỉ có hai mẹ con và chị người làm. May là có thằng Hoàng, bận bịu với cháu ngoại suốt ngày, nên cũng không đến nỗi buồn như ngày trước. Nhưng những lúc nói một câu chuyện gì, như chuyện hôm nay, có nhắc tới Tâm thì bà lại nhớ con trai. Thư Hương hỏi:

– Anh Tâm có nói chuyện gì về con không?

Bà Phủ mặt lộ vẻ buồn:

– Anh con định rằng sau khi con sinh nở độ một tháng sẽ nói về chuyện của con và Dương. Tâm nó cứ có mặc cảm là vì nó, mới xảy ra chuyện của con, để cho Phượng buồn. Mẹ chẳng biết làm gì cả. Nói chuyện này với con, mà mẹ cũng đã ngập ngừng rồi…

Câu chuyện tưởng qua đi, không ngờ lại được nhắc tới. Từ phòng của bà Phủ bây giờ sang phòng của Thư Hương.

Thằng bé Hoàng, bú no nê xong, nhả chai sữa ra, lại nhắm mắt ngủ ngon lành. Nàng thèm được sống vô tư như đứa nhỏ này, cứ bú no là ngủ, không thắc mắc về những chuyện đời biển đâu biến đổi. Nhè nhẹ, nàng đặt con vào trong nôi, buông chiếc mùng xanh lơ xưống, nhìn thật lâu vào chiếc miệng xinh xinh.

Trong giấc mơ, đứa nhỏ nhoẻn một nụ cười. Nàng ngồi xuống bên mẹ, âm thầm nhắc nhẹ:

– Hôm nay, đã được hơn hai mươi ngày…

Rồi nàng ngước mặt lên nhìn vào tấm lịch treo trên tường. Tấm lịch ấy, đã một thời kỳ nàng không xé. Thời kỳ ấy là thời sau khi cưới, nàng về ở tạm nhà Dương ở xóm nhỏ, cạnh đường tàu. Những ngày đó sống thật vui vẻ, êm đềm. Lúc trở lại căn phòng này nàng đã bóc hơn một trăm tờ lịch ấy, cất đi, nâng niu nó và coi nhự một kỷ niệm đẹp trong đời.

Nhiều lần, ngồi buồn, nàng đã ngồi đếm từng tờ lịch ấy, như đếm những tờ giấy hạnh phúc. Rồi nàng trịnh trọng cất đi. Bây giờ, cũng vẫn cuốn lịch ấy, nhưng mà tập lịch đã mỏng đi nhiều. Cứ một tờ lịch rụng xuống, báo hiệu một ngày qua đi là lại thêm một ngày nàng sắp sửa phải buông tay, để cho hạnh phúc của cuộc đời thành một cánh chim vỗ cánh bay đi.

Bà Phủ bảo Thư Hương:

– Mẹ về phòng ngủ đây…

– Dạ, mẹ về ngủ.

Bước chân của bà Phủ, chậm chạp bước ra cửa. Thư Hương cũng bật đèn ngủ, rồi tắt đèn lớn. Nàng biết rằng, bắt đầu từ hôm nay, nàng sẽ mất ngủ như những ngày vừa từ bệnh viện về. Thư Hương muốn vất bỏ hết tất cả những lo nghĩ, mặc cho tạo hóa đã an bài cuộc đời, nhưng khổ một nỗi là cuộc đời, thế là đã được an bài rồi.

Nàng thở dài… Rồi ít lâu nữa, gặp Phượng nhất là gặp Dương, nàng sẽ nói những câu chuyện gì đây? Người ngoài nhìn vào, thì hai người cũng đã một thời là vợ chồng. Họ làm sao hay được những điều bí ẩn bên trong. Thư Hương không được biết những đôi tình nhân cũ, đôi vợ chồng cũ, tình cờ gặp nhau có xảy ra một sự ngượng ngập gì không, chứ nàng, nếu sau khi ly dị với Dương, nàng không còn mặt mũi nào gặp Dương, gặp Phượng. Có lẽ nàng sẽ xin đi dạy học ở một tỉnh thật xa. Như là một tỉnh của vùng cao nguyên chẳng hạn.

Nhưng rồi, nàng tự biết sức chịu đựng của mình. Cả thể xác và tinh thần đều yếu đuối, nàng làm sao chịu nổi những ngày dài lê thê, buổi sáng, buổi chiều đều làm những công việc giống như ngày hôm qua, rồi ngày mai…lại sẽ tiếp tục như thế. Một chút kinh hoàng vừa chợt nổi. Nàng thảng thốt không dám nghĩ tiếp nữa. Rồi còn mẹ, còn con nàng. Thư Hương chẳng thể mang thằng cu Hoàng đi theo, vì đứa trẻ sơ sinh, đâu có thể chịu được thay đổi thời tiết một cách bất chợt. Mà để lại ở nhà cho bà ngoại nó, thì sự nhớ nhung sẽ dằn vặt mình đến héo hon.

Thư Hurơng vẫn mở lớn đôi mắt, nhìn lên trần nhà. Nàng nghĩ rằng, nàng vẫn chưa thể xa rời được mẹ. Trừ khi nào anh Tâm cưới vợ. Mà bắt được Tâm cưới vợ, thật là chuyện khó. Mẹ nàng đã nhắc chuyện vợ con với Tâm, nhưng Tâm đều kiếm cách nói lảng sang chuyện khác. Hình như việc cưới vợ, đối với Tâm là một công việc lạ lùng, ghê gớm. Đã nhiều lần, nàng giới thiệu với Tâm, những người bạn học cùng lớp, nhưng đều bị Tâm chê bai đủ thứ.

Cô nầy Tâm chê là vô duyên. Cô khác, Tâm chê nhõng nhẽo, là điệu, là nặng phần trình diễn. Nhiều đứa bạn đã trách móc Thư Hương rất nhiều về Tâm.

Nói chuyện với con gái, mà Tâm ít khi tỏ ra “ga-lăng” như tất cả những chàng đàn ông, con trai khác. Tâm đã hỏi thẳng một người bạn của Thư Hương: “Cô cân nặng bao nhiêu ký lô?…Chắc phải sáu chục ký. Cứ cái đà bành trướng và phát triển như thế nầy, chắc là tôi phải gọi thợ tới, nới rộng thêm cái cửa, thì mới mời cô tới chơi nhà được “. Hay là “Cô nầy ốm thế, mỗi khi ra đường, thấy gió thổi mạnh, nhớ kiếm một cái gốc cây nào mà ôm đấy nhé”. Dùng những lời lẽ đó mà nói với con gái, nhất là những cô gái học sư phạm, lúc nào cũng nghiêm trang, nghĩ tới cái nghề nghiệp sau này, thì hỏi rằng ai mà không giận.

Bạn bè Thư Hương đã trách nàng nhiều, nhưng nhìn mặt chúng nó, đứa nào cũng có cảm tình với Tâm. Chỉ cần Tâm gật đầu một phát, là chúng nó bằng lòng ngay. Nhưng Tâm chẳng bao giờ chịu gật đầu. Chỉ có lắc đầu thì hơi kỹ…

Nàng nói thầm với mình:

– Chỉ còn có mười ngày nữa. Không hiểu anh Tâm sẽ nói những gì với mình đây…

Thì còn nói gì nữa… Chỉ cần nói về cái ơn của Phượng, của Dương đối với gia đình mình là cũng đủ nói hết rồi. Phản ứng của nàng lúc đó, không biết ra sao? Thản nhiên chịu đựng? Khóc lóc âm thầm? Dù cái phản ứng có dữ dội, ồn ào hay bình thản, lặng lẽ, thì cũng chẳng thể nào thay đổi được tình cảnh vốn dĩ đã định từ trước. Việc ly dị, sẽ xảy ra thật mau lẹ và chóng vánh. Anh Tâm sẽ mời anh Phạm, một người bạn thầy cãi đến nhà, đẩy tới ngồi trước mặt Thư Hương, rồi hạ một câu ra lệnh:

– Mày làm thủ tục cho Thư Hương nó bỏ thằng Dương. Càng mau càng tốt…

Anh Phạm chắc cũng sẽ trợn mắt ngạc nhiên, nhưng rồi sau vài ba câu trần tình, Phạm sẽ bắt tay vào việc. Cũng phải mất vài ba tháng, để tòa án hòa giải, nhưng với Phạm, thì công việc sẽ mau hơn. Phạm vốn tận tâm với bạn bè…

Anh Phạm, bạn của anh Tâm, là một chàng thày cãi, chuyên môn lo về các vụ ly thân ly dị. Thân chủ của ảnh, phần nhiều là những cô ca sĩ, đào cải lương…

Anh Tâm đã nhiều lần nói đùa rằng, “vợ chồng người ta không ăn nằm được với nhau, là vì cái mồm thằng Phạm “.

Với kiến thức chuyên môn nghề nghiệp, anh Phạm sẽ lo cho vụ ly dị của Thư Hương và Dương, dễ dàng và mau chóng như một giấc ngủ. Đã nhiều lần, Dương chỉ trích cái nghề của Phạm là cái nghề thất đức, không ngờ tới bây giờ, lại phải là thân chủ của Phạm.

Nghĩ tới đấy, Thư Hương mỉm cười lặng lẽ… Chắc rồi đây, anh Phạm sẽ tới nhà này, gặp Thư Hương, gặp Dương, hỏi vài ba chi tiết, thâu thập một ít giấy tờ cần thiết như tờ hôn thú của Thư Hương và Dương, tờ giấy khai sinh của cháu Hương, lá đơn xin ly dị, rồi bỏ vào chiếc cặp khóa “tách” một phát. Anh Phạm gọi chiếc cặp ấy, là túi càn khôn. “Miệng túi càn khôn thắt lại rồi”.

Anh Phạm giảng nghĩa rằng, “càn” và “khôn” cũng giống như uyên ương, như loan với phụng, như cầm với sắt, đều là nói về vợ chồng. Bởi vậy, cái cặp đầy nhóc những hồ sơ, xin ly dị nhau, có thể gọi là túi càn khôn được lắm. Thư Hương lại thở dài vì nghĩ tới lúc xúm nhau lại, bàn tính việc đặt tên cho cháu Hoàng. Đặt tên đứa nhỏ là Hoàng, cũng là Phượng. Thư Hương gọi thầm vào bóng tối. Phượng Hoàng! Phượng Hoàng!…

Ôi, những kỷ niệm thật êm đềm, qua đi như một giấc mơ hay một câu chuyện cổ tích, có hoàng tử, công chúa, có Hằng Nga ngủ trong rừng. Ánh đèn xanh mờ, làm căn phòng của nàng thêm hiu hắt. Có một điều lạ là chẳng bao giờ nàng nhớ đến Hoạt, chàng trai thứ nhứt của đời nàng, đã phá nát cả cuộc đời nàng, đã một lần làm cho nàng phải đi tìm lối thoát về bên kia thế giới.

Nàng chắc rằng ngày đó, chưa phải là tình yêu. Đó chỉ là một thứ tình trai gái, cần thiết cho một người con gái, vừa lớn lên mà lại bị cấm cung như nàng. Không thể so sánh với tình của nàng và Dương bây giờ. Nghĩ tới đó, nàng lại thương cho Phượng và thương cho cả chính thân mình. Như một cọng rơm, trôi xuôi theo giòng nước lũ. Như một con ngựa đi vào ngõ hẹp, khó lòng mà quay đầu lại. Đành buông xuôi cho số phận, mặc cho giòng đời, nào biết trôi cuốn về đâu…

Nàng khắc khoải chờ cho hết kỳ hạn của Tâm. Chỉ còn mười ngày nữa. Nàng muốn cho mười ngày này cứ kéo đài ra, kéo dài mãi tới bất tận. Nhưng làm sao mà cưỡng lại được với thời gian, vì một ngày, chỉ là hai lần sáng tối. Thư Hương gục mặt xuống gối, và nước mắt nàng trào ra…

Tâm hẹn một tháng, sau khi Thư Hương sinh nở sẽ giải quyết chuyện về Thư Hương, về Dương, về Phưọng. Nhưng Tâm lỗi hẹn mất rồi.

Chưa tới thời hạn một tháng, Tâm đã bay một Phi vụ cuối cùng. Sổ hoạt động hàng ngày của đài kiểm soát phi trường, chỉ ghi giờ cất cánh, mà không ghi giờ hạ cánh…

Buổi sáng hôm đó, cũng như mọi lần, Tâm và Dương lại ngồi trên bực thềm, trước cửa Phòng Hành Quân, nhìn ra sân đậu phi cơ. Phía xa, nơi đầu phi đạo, từng chiếc phi cơ cất cánh và hạ cánh.

Người Trung sĩ Bưu tín viên của Không đoàn, vẫn làm phận sự của mỗi buổi sáng, bỏ từng lá thư vào ngăn của mỗi người. Hộc thư của Tâm và Dương, chỉ có được một lá thư lần đó thôi, và bắt đầu từ đó, vẫn trống hoác như chiếc mồm ông lão đã rụng hết răng. Khi người Trung sĩ đi ngang qua, Tâm nói đùa một câu:

– Hôm nay, thấy ông có vẻ mệt mỏi. Chắc đêm qua lại làm ăn nhiều quá chứ gì?…

Người Trung sĩ lắc đầu:

– Đâu có! Già rồi mà, Trung úy!…

– Thế cái gì làm cho ông mệt mỏi?…

– Chạy gạo!… Trung úy tính coi, mười miệng ăn với số lương như thế này…

Rồi người Trung sĩ cắp cặp đi. An thi sĩ từ trong phòng Hành Quân đi ra, mặt hớn hở nhìn vào hộc thư, rồi lôi ra một bao thư dày cộm. Tâm và Dương vốn ghét cái mặt hớn hở của nó, khi nhận được thư người yêu. Nhưng An thi sĩ không đọc ngay, lại bỏ vào túi. Đó là một chuyện lạ. An thi sĩ quay sang Tâm:

– Đi vào nhận lệnh. Tao với mầy sửa soạn lên đường…

Tâm và An vội vã vào phòng nhận lệnh rồi mang dù và nón, leo lên phi cơ. Dương nhìn theo hai chiếc phi cơ bò đi chầm chậm trên đường vận chuyển. Chàng thấy Tâm và An cất cánh thật vội vã, gần như cùng một lúc. Còn lại một mình nơi đây, Dương cũng buồn, nên xuống Câu Lạc Bộ ăn sáng…

Nhưng buổi trưa, chỉ có một mình An về. Cả Phi Đoàn như náo loạn hẳn lên. Dương điên cuồng chạy tới chạy lui… An thi sĩ chỉ nói được vài câu rồi nước mắt chảy ra đầy mặt. Dương nhảy lên chiếc phi cơ trực thăng, đi kiếm xác Tâm. Tuy rằng xúc động và mệt mỏi, An cũng nhất định đi theo, để chỉ chỗ cho chính xác. Buổi xế trưa hôm đó, xác Tâm được đưa về.

Chiếc băng-ca đặt xác Tâm, trên phủ chiếc khăn trắng được đặt nằm trong nhà xác. Dương ngồi bên cạnh lặng đi, không khóc được. Trái tim như bị ai bóp nát. Cả Phi Đoàn, ngày hôm đó như chết hẳn hoạt động, để chịu tang cho Tâm. Tất cả bạn bè, người nào cũng tới, lật mặt Tâm lên, để nhìn người bạn mình lần chót, mặt Tâm đã lau sạch vết máu, đôi môi như vẫn mỉm cười….

Dương bất động, gục đầu lặng lẽ. Chàng có cảm tưởng là bây giờ, chàng mà gào lên được, la lên được, chắc là sự đau thương sẽ giảm đi nhiều. Rồi tới lúc Hậu và Luận tới, thì nỗi đau đớn đã lên tới cùng cực. Chàng nắm chặt lấy tay Hậu:

– Sao nó lại chết?… Tại sao những thằng khốn nạn, những thằng không đáng sống chút nào, thì vẫn sống, mà những thằng như nó lại chết? mầy trả lời tao đi, Hậu?…

– Đã ai báo tin về nhà chưa?..

– Tao không có can đảm làm việc đó...

– Mày tưởng tao có can đảm làm việc đó hay sao?… Cả mầy, tao, thằng Luận, thằng An, bất cứ một thằng nào ở đây chẳng ai có can đảm làm việc đó. Đành phải để anh Tư, làm sao đó thì làm…

Dương nuốt những giọt nước mắt cho trôi xuống cổ họng:

– Còn chúng mình phải làm gì bây giờ?…

Luận bàn góp:

– Đi uống rượu… Chỉ còn có một việc là đi uống rượu…

Hậu nói thêm:

– Mày cũng nên đi ra ngoài một chút. Ngồi mãi trong phòng này, có hại nhiều lắm…

Dương nhìn thật lâu vào chiếc bàn đá, trên đó, Tâm đang nằm bất động. Căn nhà xác choáng ngộp một màu trắng. Nhiều người bạn của Dương, của Hậu, của Luận đã được đưa về nằm ở đây. Bao giờ tới lượt mình?… Dương thì thầm tự hỏi như vậy.

Tâm ơi, mầy chỉ đi trước anh em. Rồi tất cả những thằng đứng quanh mầy đây, sẽ nối gót theo mầy đi về thênh thang, có nhiều hoa và trăng sao. Dương gọi “Tâm ơi” để cho nước mẳt được tự do trào ra, rơi từng giọt xuống chiếc khăn trắng phủ người Tâm. Giọt nước mắt, thấm vào vải, loang dần và mờ nhạt. Chàng muốn gào lên, kể lể những kỷ niệm xưa, may ra cái đau đớn đang nặng chĩu trong lòng vơi đi được chút nào chăng…

Luận kéo tay Dương:

– Đi thôi mầy!…

Dương nghẹn ngào:

– Tao không nỡ để nó nằm một mình… Rồi vài ngày nữa, người ta sẽ chôn nó xuống đất. Dưới đó, chắc lạnh lắm. Hơn nữa, lúc đó nó cô đơn. Bây giờ nó còn nằm đây, tao muốn ngồi mãi bên cạnh nó để cho nó vui… Biết đâu, nó chỉ đùa chơi với chúng mình. Lát nữa đây, nó sẽ ngồi dậy, bật lên tiếng cười…

Nghe Dương nói, Hậu và Luận cùng lạnh người. Bây giờ, đang là ban ngày. Khu nhà xác, ít người qua lại. Có người kể rằng, đã bị một ông phi công chặn đường lại “xin tí lửa”… Người này, móc chiếc quẹt máy trong túi quần, vừa bật lên để có được ngọn lửa, thì không thấy anh chàng đâu nữa. Câu chuyện có vẻ hoang dường, huyền hoặc, nhưng cũng đủ để cho khu “tử sĩ đường” này thành một nơi âm u, vắng vẻ vào lúc ban đêm.

– Tao sẽ ở đây suốt đêm nay…

– Đồng ý, nhưng bây giờ hãy đi uống rượu. Khi có một nỗi “sầu vạn cổ” thì không có gì quên mau bằng rượu…

Dương phải nghe lời Hậu và Luận. Đầu chàng cúi thấp, bước đi chậm rãi, dẫm lên xác những lá cây nằm rải rác trên lối đi. Bước chân như chĩu nặng. Ba người không nói một câu nào, trên con đường từ đây tới Câu Lạc Bộ. Đường đi không xa, nhưng mấp mô sỏi đá. Bước từng bước thấp, bước cao, Dương, Hậu và Luận thất thểu đi dọc theo bức tường ngăn cách khu Gia Binh và Căn Cứ.

Đầu đường là một trường học. Ba người bắt gặp những đôi mắt thơ ngây của những đứa nhỏ. Trong số đó, chắc có những đứa mất cha, mồ côi cha từ lúc còn nhỏ. Cuộc chiến tàn khốc này, còn kéo dài cho tới bao giờ?… Chung quanh ngôi trường, được rào bằng giây kẽm gai, bao quanh ngôi trường, như nhốt vào đó tuổi ấu thơ, thật không còn gì đau xót cho bằng. Ngậm ngùi mà bước đi qua đó.

Tiếng reo cười vẫn đuổi theo, nhưng tiếng reo cười chim non ấy, lẫn vào tiếng phi cơ cất cánh từ đầu phi đạo. Có tiếng nổ thật lớn ở xa. Người ta đang phá hủy kho bom hư hỏng.

Giờ này, Câu Lạc Bộ vắng người, chiếc bàn mà mọi người thường ngồi vẫn trống. Dương bùi ngùi, vỗ vào thành một chiếc ghế:

– Thì bây giờ cứ để dành chiếc ghế này cho nó.

Hậu gọi mấy chai bia lạnh… Chỗ ngồi của Tâm ở đây, nhìn ra chiếc sân sau của Câu Lạc Bộ, có những cây cao su xanh mướt lá, có một khoảng trời xanh nhỏ với vài ba đám mây trắng nằm chết sững trên nền trời. Thỉnh thoảng, một cơn gió nổi, lá cây cao su lại ào ào rụng xuống, lãng đãng bay bay. Dương âm thầm nhớ câu thơ cổ: “Vèo trông lá rụng đầy sân, công danh phù thế có ngần đó thôi”. Người xưa đã gọi cuộc đời này là trôi nổi. Hai chữ “phù thế” là ý nghĩa ấy. Hậu nói:

– Nếu mà nửa tháng nữa, thằng Tâm hãy chết thì hơn…

– Nó đã được đề nghị lên Đại úy kỳ này… Chừng một tuần lễ nữa có lon về. Sau đó, nó mà chết, sẽ được vinh thăng lên cố Thiếu Tá. Bây giờ chỉ là cố Đại úy…

Dương chán nản:

– Nhưng rồi thằng Tâm có mang theo được những thứ đó đi cùng với nó vào trong đất lạnh hay không?… Thằng Hậu chỉ thích nói những chuyện lẩm cẩm…

Nhưng rồi Dương thầm nghĩ tới cái chết của Tâm, nếu xảy ra chậm nửa tháng. Không phải là ý nghĩ “cố Thiếu Tá” như Hậu nghĩ. Chàng nghĩ tới chuyện của chàng và Phượng, để rồi chợt thấy bàng hoàng. Tuy rằng chưa được biết cái đau đớn của mẹ Tâm, nhưng chàng biết rằng nỗi đau ấy không thể có gì so sánh.

Chiếc lá xanh đã rụng trước chiếc lá vàng. Chàng nói với cô bán hàng, cho thêm một chai và một cái ly nữa. Chàng rót ra đầy ly:

– Chai nầy của mầy đó, Tâm! Uống đi!…

Hậu bật lên khóc… Hậu đã cố nén nhiều lắm rồi đấy.Chàng đứng dậy, nói như mê sảng:

– Cấm chúng mày khóc. Không thằng nào được khóc. Chỉ có một mình tao khóc thôi.

Người chủ Câu Lạc Bộ đã ra đứng ở cạnh đấy.

Mặt anh ta cũng thật buồn. Anh nói nhỏ:

– Tôi sẽ cất chiếc ghế nầy đi. Chiếc ghế nầy của Trung úy Tâm, chỉ có một mình Trung úy Tâm được ngồi. Nay Trung úy Tâm đã đi rồi, thì không ai được phép ngồi lên nữa…

Dương bùi ngùi:

– Xin cám ơn anh… Xin thay anh Tâm, cám ơn anh!…

Hậu đã ngồi xuống ghế, nhìn mông lung vào khoảng trống trước mặt. Như ở cách chỗ này thật gần, thật xa, hình dáng của Tâm như mờ, như rõ rệt qua màng nước mắt. Hậu than thở:

– Bây giờ ở nhà thằng Tâm, chỉ còn có một mình thằng Dương là con trai thôi…

Câu nói của Hậu chỉ ngắn ngủi có thế mà làm cho Dương bàng hoàng.

Chàng bắt đầu thấy nôn nao. Nếu vài ngày nữa có chuyện ly dị giữa chàng với Thư Hương, lũ bạn bè của chàng sẽ xúm lại sỉ vả chàng, và có lẽ không quên nhắc lại cái chết của Tâm ngày hôm nay. Hơn nữa, mẹ Tâm, người đàn bà mà chàng kính yêu như mẹ, liệu có thể chịu đựng được hai nỗi buồn vĩ đại tới cùng một lúc. Cái chết của con trai, và cuộc tình duyên dang dở của con gái.

Chàng uống một hơi cạn sạch ly bia mà như uống vào trong người một chút đắng cay. Chàng gọi ba chai khác… Cơn bão tố ngấm ngầm trong người chàng đang làm đảo lộn đầu óc. Chàng nhìn Hậu, nhìn Luận, muốn mang chuyện của mình ra tâm sự. Nhưng chàng lại e ngại rằng xác Tâm nóng hổi còn nằm đó, nói chuyện về mình mà có dính líu tới gia đình Tâm, thật có lỗi với bạn. Tay chàng cầm ly bia sủi bọt run run như chiếc lá khi gặp gió. Rồi chàng uống hết...

Trong phút đau buồn nhất đời này, Dương chợt nhớ tới thầy Mẫn Tử của truyện Nhị thập tứ hiếu. ” Nếu cha đuổi dì con đi, thì ba anh em đều khổ. Nếu đừng đuổi dì đi, thì chỉ có một mình con khổ mà thôi ” Chàng muốn đổi câu ấy đi, để cho hợp tình hợp cảnh của chàng lúc nầy. Nếu chàng bỏ Thư Hương?… Thì chỉ một người sung sướng hưởng hạnh phúc, đó là Phượng. Còn thì những người khác đều khổ.

Thư Hương, với bao nhiêu đau khổ chồng chất, với thân xác yếu đuối dường ấy, lại làm một cái nghề bạc bẽo nhất thiên hạ là nghề dạy học sợ rằng Thư Hương sẽ quỵ ngã giữa đường. Còn bà Phủ nữa. Vừa mất một đứa con yêu bà quí còn hơn vàng, hơn bạc, lại mất thêm một chàng rể, cộng thêm sự sầu đau của con gái. Tuổi già, tưởng rằng như thế là quá với sức chịu đựng rồi. Lại còn bố Tâm, một bậc khoa bảng khả kính, mà mỗi lần nói chuyện, chàng có cảm tưởng như một đứa trẻ, đứng dưới chân tượng khổng lồ. Chắc ông cũng sẽ buồn, sẽ khổ.

Trong lòng chàng, thoáng một chút bâng khuâng. Nỗi đau khổ của Phượng, dù cho có to lớn, vĩ đại tới đâu, cũng không thể so sánh được với cái đau khổ của cả ba người. Bốn người mới phải chứ. Chàng quên, chưa tính đến thằng bé Hoàng. Rồi đây, khi lớn lên, nó đâu có biết những chuyện gì đã xảy ra cho mẹ nó. Chỉ biết rằng trong giấy khai sinh, có tên chàng là cha nó, để cho nó oán hận. Nếu chàng ở lại với Thư Hương, thằng Hoàng sẽ có cả cha lẫn mẹ, rồi nối tiếp theo chắc cũng có một lũ em để vui đùa. Nghĩ tới đấy, chàng thở dài…

Một bàn tay đặt lên vai chàng. Dương ngước mặt nhìn lên, rồi vội đứng dậy:

– Thiếu Tá!.. Xin mời Thiếu Tá ngồi đây…

Một giọng nói dịu dàng, bên tai Dương:

– Dương cứ ngồi xuống đi. Uống hết chai này rồi về với Tâm. Hình như vợ Dương và bà cụ mới lên rồi đấy

Dương ngạc nhiên:

– Ai báo tin mà ở nhà biết sớm quá vậy, Thiếu Tá?

– Người đi báo tin là An… Rồi An đưa bà cụ và vợ Dương lên thẳng đây. Tôi chờ bà cụ nhìn mặt Tâm lần cuối, rồi mới cho khâm liệm. Dương nên về để coi chừng bà cụ…

Hai tay Dương ôm lấy đầu. Chàng muốn bứt từ đầu chàng ra từng sợi tóc để cái đau ấy làm cho chàng tỉnh táo. Anh Tư vẫn đặt hai bàn tay lên vai Dương đứng đằng sau lưng ghế bất động. Một lúc sau, Dương ngẩng đầu lên:

– Xin cám ơn anh!…

Bàn tay vỗ nhè nhẹ trên vai Dương:

– Hình như những tiếng cám ơn và xin lỗi, chúng mình đã đồng ý với nhau là xóa bỏ nó đi trong tự điển. Dương đưa linh cửu của Tâm về Saigon. Rồi Dương ở lại lo việc nhà, an ủi bà cụ và chị. Lúc nào thấy công việc gia đình có vẻ êm xuôi thì lên…. Tôi bằng lòng để Dương muốn nghỉ bao nhiêu ngày cũng được.

Bàn tay rời khỏi vai Dương. Nhưng hình như anh Tư chưa rời khỏi lưng ghế. Tiếng nói của anh vẫn trầm trầm:

– Dương hỏi dùm bà cụ về chuyện đất. Ý kiến của cụ là lấy đất ở Mạc Đĩnh Chi hay Bắc Việt Nghĩa Trang?… Tôi sẽ đi lo ngay bây giờ…

Dương ngập ngừng:

– Xin anh cho ở Bắc Việt Nghĩa Trang, ở đó, Tâm có nhiều bạn…

– Nếu ở đấy thì xong ngay.

Dương nghe thấy bước chân đi ra khỏi Câu Lạc Bộ. Rồi tiếng động cơ xe jeep, và tiếng bánh xe lăn đi trên con đường đầy đá dăm lạo xạo… Hậu và Hằng vẫn còn ngồi trước mặt Tâm, mặt hằn lên những chán chường, mệt mỏi. Chàng hỏi:

– Chúng mầy ngồi đây?…

– Không, chúng tao cùng đi với mầy!..

Dương gõ chiếc ly vào chai, rồi chỉ vào chiếc bàn đầy vỏ chai, rồi chỉ vào mình. Người con gái ngồi trong quày hàng uể oải gật đầu. Những bước chân đi ra ngoài nắng. Một cơn gió thổi, lá cây cao su reo lên ào ào. Vài chiếc lá bay là đà. Ba người đi tắt, băng về nơi mà Tâm đang nằm yên nghỉ. Lòng ba người thật tê tái, đến phải cúi đầu mà đi…

Khi trở về tói cổng bệnh xá, Dương đã thấy những tiếng khóc vang lên từ nhà xác. Chàng muốn bước nhanh tới nơi, và cũng muốn đi chậm lại, để không phải sớm chứng kiến những cảnh não lòng. Nhưng dù chậm, dù nhanh, thì cái màu trắng toát cũng đã trùm lên chàng, để cho chàng ngộp trong tiếng động thê lương.

– Mẹ khổ quá, Dương ơi!

Bà Phủ ngã vào Dương. Chàng quài tay đỡ lấy bà mà thấy cái thân thể già nua ấy, như không còn sức lực. Qua đôi mắt đẫm nước mắt, chàng nhìn thấy Thư Hương và cô gái, người yêu của An, đang sụt sùi ở một góc nhà. Chàng gọi:

– Thư Hương, đi kiếm cho mẹ chiếc ghế…

Tiếng “mẹ” từ miệng chàng thốt ra thật tự nhiên, thật ấm. Bao nhiêu năm nay rồi chàng mới được gọi một tiếng mẹ.

Chàng dìu bà Phủ ngồi lên ghế, rồi bảo Thư Hương và cô gái ngồi hai bên để đỡ cho bà Phủ. Lúc này thì Tâm đã được khâm liệm. Chiếc quan tài, bên trên phủ lá cờ, có hình của Tâm đang cười…

Chàng thì thầm:

– Tao sẽ đưa mày đi…

Bà Phủ ngồi rũ xuống, khóc nức nở… Dương biết rằng, những tiếng khóc ấy là những tiếng khóc đau đớn nhất. Chàng thấy những người đàn bà khóc kể lể, khóc gào lên, tuy rằng cũng đau đớn nhiều đấy nhưng không bằng được những tiếng nức nở âm thầm. Tiếng khóc như bóp nghẹt tim Dương. Chàng hít vào và thở ra những hơi thật dài. Hàm răng cắn vào môi gần bật máu.

Tiếng động cơ xe hơi ngừng trước cửa. Tiếng chân người nhảy từ trên xe xuống và tiếng hô vang dội. Người chỉ huy toán dàn chào, cũng là bạn của Tâm và Dương, đứng nghiêm chào trước quan tài Tâm. Điệu kèn bi ai, não nuột nổi lên làm cho Dương bật khóc… Chàng đứng lặng đi như một người chết sững. Mấy người lính khiêng quan tài của Tâm đặt lên xe. Bà Phủ, Dương, Thư Hương, An, Hậu, Luận và người con gái tên Chi đi theo sau.

Chưa có lấy một vành khăn tang, Tâm ơi, tuy rằng theo sau mầy, không có một người con gái nào là người yêu của mầy tới tiễn đưa mầy, nhưng cần gì những cái đó. Mẹ đó, em gái đó, bạn hữu đó… Thế là đủ quá rồi còn gì. Dương vịn tay vào quan tài, khiêng phụ với mấy người lính. Cả An, Hậu và Luận cũng đưa tay vào để cho Tâm được nằm yên trong một khoảng không gian chật hẹp mà cũng bao la, rộng lớn, vô cùng…

Hai người con gái đỡ hai bên bà Phủ. Đôi chân già như không còn đủ sức đứng vững. Chiếc lá vàng kia như dính lắt lẻo trên cành, chỉ cần một cơn gió nhẹ là rụng. Không có cảnh nào thê thảm bằng chiếc lá vàng phải khóc những chiếc lá còn xanh. Nước mắt Dương nhỏ xuống lá cờ phủ trên quan tài. Một giọt rồi một giọt rơi xuống như những vì sao lạc hiện lên bầu trời ảm đạm màu vàng. Ôi cuộc đời sao mà ngắn ngủi? Mới buổi sáng nay tiếng cười của Tâm còn vẳng lên trong nắng sớm, mà bây giờ đã nằm im bất động. Biết đâu, trong lúc này, Tâm vẫn đứng ở quanh quất đâu đây, buông ra những tràng cười ngạo nghễ, sang sảng như mảnh thủy tinh vụn cứa vào da thịt. Chiếc quan tài đi qua hai hàng người đứng dàn chào. Dương nhìn thấy những khuôn mặt bùi ngùi của những người lính. Ở đây, mọi người đều quen biết nhau, đối đãi với nhau bằng thứ tình ruột thịt.

Nắng đã gần ngã sang màu vàng. Cơn gió lốc thổi tung cát bụi, mịt mù ngoài sân bệnh viện.

Dương thấy nhiều người đứng dưới nắng. Những khuôn mặt quen thuộc nặng chĩu ưu tư và sầu muộn… Tâm ơi, mầy chưa chết đâu! Mày chỉ đi trước chúng tao thôi. Nơi phương trời ấy, chắc mầy đã gặp nhiều bạn bè?…

Toán dàn chào bước lên xe theo hàng một, ngồi hai bên thành xe, mũi súng ngước lên trời và chiếc xe lăn bánh chầm chậm đi ra phía cổng bệnh viện.

Dương đưa bà Phủ về xe của An, chạy dẫn đầu đi ra ngoài thành phố. Một đoàn xe nối đuôi đưa tiễn Tâm về nơi thanh thản. Chỉ nghe thấy tiếng động cơ xe và tiếng bánh xe lăn đi chầm chậm.

Tâm được đưa về một ngôi chùa, khi tiếng chuông thu không vừa điểm, rền rĩ từng tiếng ngân đài. Ông Phủ đã ngồi đó chờ, lặng đi không nói một lời. Dương thấy ông tháo kiếng trắng xuống lau hai ba lần.

Ông đứng dậy, thắp vài nén hương, cắm lên bàn thờ Phật, và cắm lên chiếc quan tài của Tâm. Khuôn mặt quắc thước ấy như phảng phất một lớp sương mù, mỗi lần có tiếng thở dài, thì lại lung linh mờ nhạt…

Dương ngồi xuống cạnh ông:

– Con đã đưa Tâm về…

– Ừ!…Bố định lên trên đó, nhìn mặt nó, nhưng bố lại không có can đảm. Nếu mà bố lên đó, không chừng bố sẽ mắng cho nó vài câu… Cái thằng tệ quá. Đáng lẽ nó phải chờ bố đi trước. Ấy thế mà nó lại đi…

Câu nói của ông thật bình thản, nhưng thấm thía gấp ngàn lần những lời giảng về triết lý sắc, Dương không ngờ ông đã bình thản tới mức đó. Đứa con trai duy nhứt của ông chết đi, vèo như một chiếc lá rụng.

Tiếng khánh, tiếng mõ của vị sư già nổi lên trong khói hương trầm thơm ngát. Hoàng hôn bắt đầu phủ lên ngọn tháp chuông và những hàng cây mọc theo hai bên đưòng đất đầy sỏi đá.

Dương và An rủ nhau ra ngoài hiên, đứng nhìn ra không gian đang đổi sang màu tím, trùm lên phía trước mặt ngôi chùa, đầy những ngôi mộ chập chùng. Đứng ở đây, chàng thấy suốt một dọc nghĩa trang. Ngay lối vào kia là nơi yên nghỉ của Long. Và vào sâu trong kia là Mai Lâm, là Khánh… Một chiếc phi cơ bay ngang, ánh đèn lập lòe chớp tắt và xa xa có tiếng súng nổ vu vơ. Dương hỏi An:

– Câu nói cuối cùng của Tâm là câu gì?

– Chỉ là những câu “in” và “out” thông thường. Không có điềm gì báo trước. Tao chỉ thấy tàu bay của nó chợt đảo dữ đội rồi cố lết lên, bò trên những ngọn cây. Tao nhào xuống cố theo nhưng rồi đầu nó cúi xuống, và bụi cát tung mù. Phút cuối của khúc phim từ biệt chỉ có vậy…

Hai người im lặng, nghe tiếng tụng kinh và tiếng mõ vang ra từ trong chùa, hòa với tiếng côn trùng rên rỉ, bắt đầu tấu lên những khúc nhạc đêm. Vùng thành phố rực ánh đèn. An ngồi tựa lưng vào một chiếc cột, vẫn còn hừng hực hơi nóng ban ngày. Khuôn mặt chỉ sáng lên mỗi lần ánh đỏ thuốc lá lập lòe. Bạn bè ở chung quanh, cứ dần dần ra đi gần hết.

Bao giờ tới lượt tao, tới lượt mày hả Dương? Những lúc như thế này đây, là những lúc chán nản tới quá sức rồi… Viên đạn bay đi thật ngọt, thật êm. Giòng máu nóng hổi chảy ra thấm qua lần áo, thấm xuống đất để cho khoảng đất ấy nở hoa. Những bông hoa ấy mọc lên, sẽ thành những bông hoa dại không được đặt tên, nhưng bao giờ cũng là những bông hoa đẹp nhưng mong manh. Sớm nở đấy mà tối tàn ngay đấy… An nói như với chính mình:

– Không thể cưới vợ đựợc.

– Tại sao vậy?...

– Không thể làm khổ lây tới người khác. Mày cứ thấy trường hợp thằng Tâm. Những giọt nước mắt già đã làm tao đau đớn. Cũng may là theo sau lưng nó, không có một người thiếu phụ góa bụa, và vài ba đứa trẻ đầu chít khăn tang. Mày thì không hiểu sao, chứ tao nhìn người góa phụ trẻ, lòng tao thật xót xa…

– Ai mà không như thế….

– Chiến tranh thật là phi lý.

Dương trầm ngâm:

– Trước mầy, đã có nhiều người nói tới cái phi lý của chiến tranh. Mày kém tao và thằng Tâm năm tuổi, nhưng coi chừng, mầy già trước chúng tao. Cái đáng suy nghĩ để mà sống là đừng suy nghĩ gì cả…

An ném mẩu thuốc lá đi thật xa. Cánh tay vung lên với những uất ức, phẫn nộ. Từ lúc sinh ra đời cho tới bây giờ, chẳng bao giờ được hưởng lấy một ngày, một tháng, một năm hòa bình.

Sinh ra trong chiến tranh. Lớn lên trong chiến tranh. Rồi trưởng thành nhờ chiến tranh. An rút một điếu thuốc khác, và ánh lửa bùng lên, soi rõ một khuôn mặt khắc khổ, đầy nét tượng đá. Sương đã bắt đầu xuống, nhưng vẫn chưa làm ướt đất. Trời đầy những vì sao. Mặt trăng không biết đã mọc lên bao giờ treo lơ lửng trên nền trời, in hình ngôi tháp chuông, đè lên những luống hoa, luống cỏ.

Tiếng tụng kinh vẫn đều đặn. Chỉ một hai ngày nữa, xác Tâm sẽ vùi xuống khoảng đất trước mặt kia. Chỉ có vài bước chân để mà xa cách ngàn trùng. Chất cay lại tràn lên mắt Dương.

– Anh cho em về!

– Anh sẽ đi bộ với em hết con đường kia. Ra khỏi con đường đất này, đã là thành phố. Em sẽ đi tắc-xi về nhà. Còn anh và anh Dương ở lại đây với Tâm suốt đêm nay.

Những câu đối thoại ấy thoảng qua tai Dương, như vọng từ một thế giới nào khác. Chàng lơ đãng nhìn ra những cây ngô đồng trơ trụi lá. Chàng không để ý đến cả câu chào từ biệt của người con gái trẻ. Rồi khi hai bóng người ấy bước ra ngoài ánh trăng, chàng mới giật mình, chợt thấy rằng mình có lỗi. Chàng nói theo:

– Mai nhớ trở lại…

– Dạ, mai em trở lại…

Người con gái và An đi ra khỏi cổng chùa, lẫn vào những bóng cây tối thầm. Dương ngồi vào chỗ của An hồi nãy, tựa lưng vào tường, hút thuốc lá liên miên. Hồi nãy, trước khi tới đây, biết rằng đêm nay sẽ không ngủ được, chàng đã mua thêm hai gói thuốc lá. Chàng muốn thay khói hương trầm tỏa ngát trong kia, bằng khói thuốc lá, để cho Tâm cùng hưởng với mình.

Chàng ngắm gói thuốc Lucky, để rồi nhớ tới Tâm. Mày vẫn cho rằng, bỏ gói thuốc mang tên Lucky vào túi,, là đã mang được vào trong người cái may mắn, mà mầy chẳng may mắn một chút nào. Dương thì thầm nói vào bóng đêm. Một tiếng hỏi sát cạnh Dương:

– Anh An về rồi sao anh?

Chàng giật mình nhìn lên thì thấy Thư Hương. Chàng thu gọn đôi chân lại:

– Nó sẽ trở lại ngay. Nó chỉ đưa cô Chi tới đầu đường, rồi lại về đây, ở đây suốt đêm nay…

Thư Hương lúng túng như muốn tìm một chỗ ngồi. Thấy vậy, Dương đi vào trong chùa, lấy ra hai chiếc ghế. Chàng mang hai chiếc ghế ra phía đầu nhà, nơi bờ tường thấp, có nhiều ánh trăng nhất, rồi mời Thư Hương:

– Thư Hương ngồi đây…

Hai người ngồi song song với nhau, đối điện với mặt trăng sáng vằng vặc đã lên tới xế đỉnh trời. Khuôn mặt Thư Hương đẫm ánh trăng, như nhuộm lên làn da một màu trắng xanh, huyền ảo. Đôi mắt như mỏi mệt lắm, sụp xuống để cho đôi mi chĩu nặng, che khuất cả một quầng tối. Dương hỏi:

– Thư Hương để con ở nhà một mình sao?

– Có chị người làm ở nhà rồi. Mấy lúc về sau này, em đã giao cho chị ấy trông con. Em thấy chị ấy có vẻ yêu thằng bé lắm, nên cũng yên chí.

Ngừng một chút, Thư Hương kể lể:

– Lúc được anh An về báo tin, mẹ và em như chết sửng. Mẹ không khóc lên được, làm cho em sợ quá. Em cứ phải dục mẹ khóc đi. Em lại càng nóng ruột, khi anh An dục em là phải lên ngay, vì anh An nói là chính tình trạng của anh mới đáng lo ngại.

Nói tới đây, nàng ngập ngừng…

Tuy rằng nàng là vợ Dương nhưng nàng đâu có quyền gì lo ngại cho Dương, nhưng nàng nghe thấy tiếng Dương nói thật nồng ấm:

– Anh cảm em, Thư Hương …

Một đôi vợ chồng trẻ ngồi dưới ánh trăng, ở một nơi yên tĩnh như thế này, tưởng rằng thơ mộng lắm. Nhưng cả hai đều ngượng ngùng. Dương và Thư Hương đều cùng có một ý nghĩ, là mặc kệ cho câu chuyện của mình qua đi, rồi lâu lâu, sẽ quen đi. Nhưng cả hai đều muốn dứt khoát. Thư Hương hỏi trước:

– Hình như anh có nhờ anh Tâm nói với em về câu chuyện của chúng mình?

Dương tự nhủ thầm là cô bé đã bắt đầu vào chuyện rồi đây. Cái khôn khéo của cô bé là kéo Tâm vào câu chuyện. Chàng lơ đãng gật đầu.:

– Quả là có thật. Nhưng bây giờ Tâm nó chết rồi, thì câu chuyện của chúng mình không cần nói nữa.

Thư Hương quay mặt sang, đăm đăm nhìn Dương. Nàng muốn hỏi lại, để cho Dương nói rõ ràng câu nói vừa rồi, nhưng rồi nàng sợ cái hạnh phúc chợt đến ấy, nó mong manh dễ vỡ. Nàng hỏi trong tiếng tim đập:

– Thế còn chị Phượng?

Dương nói trong cơn mê:

– Ừ, còn Phượng. Rồi Phượng sẽ nghĩ sao? Nhưng tại sao chỉ hỏi rằng còn Phượng, mà không hỏi còn em, còn con, còn mẹ, còn gia đình chúng mình? Đành phải chịu lỗi với Phượng vậy.

Dương nhìn thẳng vào mắt Thư Hương, giọng tha thiết:

– Ở đây, anh không cha mẹ. Nhờ em và Tâm, anh lại có cha, có mẹ. Anh lại có cả vợ, có cả con. Như vậy thì làm sao anh rời bỏ được, nhất là bây giờ. Tâm, người bạn của anh, một thằng bạn mà anh quí như một phần thân thể của anh, lại mất rồi. Anh không dám nói là anh có bổn phận, nhưng anh yêu… gia đình chúng ta.

Dương có cảm tưởng rằng Tâm, người bạn chàng, linh hồn vẫn còn phảng phất đâu đây. Những người chết còn trẻ, tâm tư còn chưa thanh thản, còn thắc mắc về một chuyện gì nơi nhân thế, thì linh hồn còn nặng, chưa thể bay về được tới nơi siêu thoát. Dương biết rằng Tâm lúc nào cũng nghĩ đến mẹ, đến em gái. Nhưng cũng không quên bạn bè như Dưong, như Phượng. Câu nói mà chàng vừa nói với Thư Hương, cũng là để nói với Tâm. Tâm ơi, mầy có nghe những lời tao nói không? Nhờ mầy, mà nay tao có cha, có mẹ, có vợ, có con.

Có được cha, mẹ thương con hết lòng, có một người vợ yêu chồng, có đứa con ngoan, thì còn muốn gì hơn nữa? Chỉ còn một sự vướng mắc là Phượng đó. Nhưng rồi chắc Phượng sẽ quên. Phượng còn trẻ còn đẹp, không thể khư khư ôm giữ mãi lấy nỗi buồn. Thời gian, vốn là một liều thuốc giải buồn thần diệu. Một ngày, một tháng, một năm, Phượng sẽ quên. Nếu chưa quên được thì hai, ba năm, mà hai ba năm chưa phải là một đời người… Dương nghĩ vậy để tự an ủ nhưng không hiểu sao, vẫn canh cánh bên lòng một sự xót thương Phượng.

Hai người ngồi cho tới lúc mặt trăng lên cao, không còn chiếu vào phía đầu nhà. Bà Phủ cũng đã một lần đi ra ngoài, nhìn thấy hai đứa ngồi sát bên nhau, lại lặng lẽ trở vào. Tuy rằng trong lúc buồn như vậy, mà bà cũng thấy len lén nhẹ xen vào một chút vui.

Một bóng người đội trăng đi vào cổng, dưới bóng những lá ngô đồng lấp loáng. An đã trở về, Dương đứng lên đi về phía An:

– Mày đi hơi lâu đấy!

– Tao đi bộ cùng với em, vừa đi vừa nói chuyện. Ấy thế mà đi bộ được từ đây về tới nhà em. Từ ngày từ bỏ quân trường, có lẽ đây là một phát đi bộ dài nhất. Lúc về đây, tao không có can đảm đi bộ nên phải leo lên một chiếc xe tắc-xi.

Nhìn thấy Thư Hương ngồi ở đầu nhà, An nói tiếp:

– Tụi mầy ngồi đây sao? Chờ tao một chút. Tao vào trong chùa lấy một chiếc ghế, rồi cùng ngồi đây với chúng mầy. Lâu lâu làm một đêm không ngủ, ngồi nói chuyện với nhau, cũng là một điều hay.

An mang ghế ra ngồi cạnh Thư Hương. Trời đã về khuya. Những ngôi mộ nơi nghĩa trang trước mặt chỉ còn nhấp nhô mờ khuất. Dương hỏi An:

– Chúng mầy nói với nhau những chuyện gì?

An thở dài:

– Về chuyện hoãn ngày cưới lại. Đáng lẽ thì chúng tao cưới nhau trong năm nay. Nhưng sau cái chết của Tâm, tao bỗng dưng thấy chán nản đến tột cùng. Hoãn lại một năm, là tao muốn đ