PHẦN MỘT NHỮNG CHIẾC TÀU ĐEN CẬP BẾN
8 tháng Bảy 1853
Vào năm 1853, chuỗi đảo xanh tươi và nhiều núi non trông như hình một chuỗi hạt mà ngày nay được biết dưới cái tên Nhật Bản là đất nước rộng lớn và bí ẩn nhất thế giới. Một đất nước biệt lập với dân số khoảng ba mươi triệu dân, những con người tin rằng bản thân họ cũng như Hoàng đế của họ là dòng dõi của trời, đã cố tâm tách biệt mình ra khỏi tất cả các nước khác suốt hai trăm năm trời. Cách biệt khỏi lục địa châu Á qua hàng trăm hải lý biển cả, Lịch sử Nhật Bản luôn là những cuộc chiến đấu dữ dội để bảo vệ độc lập của đất nước và để thanh lọc các bộ tộc. Từ thời trung cổ họ đã có những buôn bán với các nước láng giềng như Ấn Độ, Trung Hoa và các nước vùng Đông Nam Á, nhưng mặt khác họ vẫn luôn luôn tự tách biệt mình. Những cuộc lui tới buôn bán của các thương gia châu Âu đọc bờ biển Nhật Bản vào thế kỷ mười sáu đã rung lên hồi chuông báo động trong óc các Shogun, những lãnh chúa quân sự cha truyền con nối và đang điều khiển đất nước. Những nhà truyền giáo nhiệt thành của đạo Ki tô nhanh chóng đi theo các thương gia Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và đã lôi kéo được hàng trăm ngàn người Nhật Bản cải giáo. Cảm thấy quyền thống trị của mình bị đe dọa, các Shogun đã thực hiện một chính sách tàn bạo đối với các tu sĩ và dẫn tới chiến dịch khủng bố đẫm máu kéo dài bốn mươi năm, cuối cùng ba mươi ngàn người đã bị tàn sát trong những thành trì cố thủ của họ. Những luật lệ hà khắc ngay lập tức được ban bố và áp dụng, cấm tất cả mọi người dân Nhật Bản ra khỏi đất nước, thậm chí cả những ý định đóng những cái thuyền cỡ lớn cũng được coi là phạm trọng tội. Đồng thời mọi người ngoại quốc đều bị xua đuổi khỏi đất nước và một đạo luật được ban ra: "Từ nay và mãi mãi về sau, một khi mặt trời còn chiếu sáng trên trái đất này, không một chiếc thuyền buồm ngoại quốc nào được phép tiến về phía Nhật Bản, kể cả sứ giả của nó" - đạo luật nói thêm, thậm chí còn hung hiểm hơn - "Đạo luật này sẽ không bao giờ được đem ra xem xét lại, và sẽ được giữ mãi cho đến ngày tận thế". Trong giai đoạn đó những thuỷ thủ nước ngoài không may giạt vào bờ biển Nhật Bản đôi khi bị nhốt trong cũi cho mọi người xem giống như một con vật.
Đạo luật tàn bạo đó đã biến Nhật Bản thành một đất nước cô lập nhất thế giới và giữ nguyên xã hội trung cổ trong đất nước cho đến tận giữa thế kỷ thứ mười chín. Kể từ năm 1192, các Shogun đã giành cho Hoàng đế của họ một vai trò lãnh đạo tối cao một cách thuần tuý lý thuyết. Họ cai trị các lãnh địa nhờ sự ủng hộ của những lãnh chúa phong kiến địa phương gọi là các daimyo, những kẻ hùng cứ những thành trì hùng mạnh và trong những thành trì biệt lập này, các daimyo duy trì sự thông trị đối với toàn bộ cuộc sống của các nông nô ở đó. Những daimyo này duy trì một quân đội thường trực rất lớn gồm những chiến binh samurai trung kiên để chiến đấu chống lại bất cứ kẻ thù nào của họ, và trong suốt những năm từ 1638 đến 1853 những biến đổi đảo lộn thế giới đã không hề động đến Nhật Bản. Trong thế kỷ mười tám và mười chín, cách mạng Pháp đã rung lên hồi chuông báo tử đối với chế độ phong kiến tập quyền ở Châu Ầu, George Washington đưa người Mỹ vào một kỷ nguyên dân chủ kiểu mới ở Hoa Kỳ, và những nhà phát minh và các kỹ sư Anh đã dấy lên phong trào muốn biến đổi cả thế giới từ cổ điển sang hiện đại - đó là cuộc Cách mạng Công nghiệp. Với những con tàu chạy bằng hơi nước, với đường sắt, với điện thoại và những vũ khí tiên tiến trong chiến tranh, những nhà buôn tham lam ở Châu Âu và với một mức độ ít hơn, những người Mỹ bắt đầu thèm muốn một ảnh hưởng càng ngày càng rộng lớn sẽ đưa đến sự đô hộ kiểu thực dân đối với các nước yếu hơn: Các hải cảng quốc tế và các nhượng địa được Mỹ và các nước Châu Âu cắt ra từ Trung Hoa - riêng Anh đã chiếm Hồng Kông từ Chiến tranh Thuốc phiện lần thứ nhất - quan hệ buôn bán và những lãnh thổ bành trướng được chuyển nhượng trao tay ở khắp Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Ấn Độ và nhiều nước còn lại ở Châu Á.
Tin tức về những làn sóng cách mạng này không hề lan tới Nhật Bản lúc này vẫn còn tồn tại với chế độ đóng cửa chặt chẽ và loại trừ tất cả mọi người ngoại quốc. Mặc dầu các thương gia Anh, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha cuối cùng chiếu theo luật bài ngoại đã bị trục xuất ra khỏi Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ mười bảy, một vài thương gia Hà Lan vẫn bám ở lại mặc dù có thể bị treo cổ chỉ sau cái búng tay. Bởi vì người Nhật Bản tin rằng mảnh đất của họ là vô cùng thiêng liêng đối với họ - Nippon, hay Nihon , tên cổ xưa của nước này, có nghĩa là "Mảnh đất bắt nguồn từ mặt trời", nên những người Hà Lan đó đã bị đối xử một cách nhục nhã trong một hòn đảo nhân tạo ở vùng cực nam Nagasaki. Họ bị giám sát rất chặt chẽ, người ta chỉ cho họ ra ngoài mỗi năm một lần, luôn có người đi cùng để đến trình diện với Shogun ở Yedo, thủ đô của Nhật - (nay gọi là Tokyo) trong một buổi trình diễn lớn do Shogun tổ chức. Trong suốt hành trình của họ, những tấm màn lớn được căng dọc những con đường trong các thành phố cũng như làng mạc để ngăn không cho những con mắt ngoại quốc nhìn thấy bất cứ mảy may nào cuộc sống của người Nhật. Để sống sót được với địa vị nhục nhã ấy, những người Hà Lan đó, lẫn lộn trong những tù nhân khác, phải nhảy nhót như những con gấu trong rạp xiếc trước mặt Shogun để trình diễn các điệu nhảy của Châu Âu mua vui cho ông ta.
Nhưng những thành tựu trong buôn bán của những thương gia Hà Lan này cũng rất đáng kể, và mỗi khi trở lại họ lại đóng vai trò như một kênh thông tin từ thế giới bên ngoài. Theo yêu cầu của Shogun họ làm những báo cáo đều đặn miêu tả những phát triển về chính trị ở Châu Âu, Châu Mỹ và những vùng khác ở Viễn đông. Những thông tin này khiến cho giới cầm quyền ở Nhật Bản lo ngại - và càng làm tăng thêm trong họ mong muốn giữ cho đất nước khỏi bạo động. Suốt nửa đầu của thế kỷ mười chín có một vài con tàu nước ngoài lẻ loi đã thất bại trong những cố gắng cập vào các hải cảng của Nhật Bản. Một cuộc viếng thăm dự định của Hải Quân Mỹ vào vịnh Yedo vào năm 1846 đã chấm dứt đột ngột do bị những chiến binh samurai tấn công vào hai thuyên buồm và bắt buộc họ phải lùi ra biển khơi. Một số tàu ngoại quốc khác dự định đổ bộ cũng đã bị xoá bỏ chỉ đơn giản vì những lời cảnh cáo và đe doạ, cho tới tận năm 1853, một Hải đội của Hải Quân Mỹ do Thiếu tướng Hải quân Matthew Calbraith Perry chỉ huy xuất hiện. Vì những gì đã xảy ra đối với các thuyền buồm của họ bảy năm về trước, lần này người Mỹ mang theo nhiều tàu chạy bằng hơi nước được vũ trang rất mạnh mẽ. Họ cũng mang theo những đại bác kiểu mới nhất và một hải đội mạnh để đặt lại yêu cầu khôi phục lại thương mại và những hải cảng cho tàu bè của Mỹ trú ẩn. Suốt bao thế kỷ đóng kín và làm ngơ trước thế giới bên ngoài, người dân Nhật Bản, được cổ vũ bởi những luật lệ của họ, luôn coi tất cả những giống người khác trên thế giới là những bọn "mọi rợ ghê tởm” .Vì thế trong đầu óc thiếu thông tin của họ mang rất nhiều hình ảnh đáng sợ về những người ngoại quốc. Trên đường tới Nhật Bản, hạm đội Hải Quân Mỹ đã ghé lại Ryukyus, một nhánh sông dài hàng trăm dặm xuôi về phía Tây nam của một vùng đảo, trong đó đảolớn nhất là Okinawa. Ngay lập tức những chiếc "khinh chu" đưa tin đã đi nhanh về các lãnh địa phía nam để cảnh báo về việc bọn rợ ngoại quốc sắp tới trên những con tàu đáng sợ, với những cỗ máy phun khói xưa nay chưa từng thấy xuất hiện trên mặt biển Nhật Bản. Những tin đồn rùng rợn về bọn rợ sắp xuất hiện lan nhanh lên phía bắc đến với cái thành phố ngày nay có tên là Tokyo, và những người dân Nhật Bản tầm thường ở đây nhợt nhạt trong cơn sợ hãi. Trong tâm trí nóng bỏng của họ, họ tin rằng đất nước sắp bị xâm lược bởi bọn người khổng lồ trông như lũ quái vật đến từ hành tinh khác.