← Quay lại trang sách

HỎI & ĐÁP CÙNG NGÀI LUANG POR LIEM

Phần này được tổng hợp từ một số cuộc hội thoại với cư sĩ Phật tử, tăng ni và sa - di trong thời gian ngài Luang Por Liem viếng thăm Úc, tại tu viện Bodhivana.

Thưa Sư, khi ta sử dụng từ ngữ để niệm khi hành thiền (parikamma), thông thường ta có nên đọc lớn lên không?

Không thành vấn đề. Nếu ở một mình, ta có thể niệm lớn tiếng. Nhưng nếu có người khác bên cạnh, không cần phải làm như thế.

Khi thở vào, ta niệm “Bud - ” và khi thở ra niệm “ - dho”. Thuật ngữ Pali mà ta niệm ở đây là tên gọi người ta kính trọng. “Buddho” có nghĩa là người biết và tỉnh thức. Nó gợi đến sự tỉnh thức, giống như sau khi đã ngủ, ta tỉnh giấc và bắt đầu biết mọi thứ quanh ta. Cái mà ta sử dụng lúc đó là cái biết và sự tỉnh giác.

Một phương cách khác là chú tâm tỉnh giác, chú ý đến các trạng thái tâm, quán sát chúng để có được một số hiểu biết về các trải nghiệm của tâm. Quán sát tâm, Đức Phật dạy, đưa ta đến sự an toàn. Ta quán sát để thoát khỏi bẫy của ma vương. Ở đây ma vương ám chỉ đến một số cảm giác mà ta trải nghiệm trong tâm, gọi là trạng thái tâm lý. Đức Phật nói:

Ai biết quán sát tâm sẽ thoát khỏi sự buộc ràng của ma vương (Pháp Cú 37)

Thưa, con được biết Sư có viếng các đám hỏa thiêu ở lò thiêu tại Melbourne. Về đề tài này, ta có thể quán tưởng thế nào để được lợi ích ạ?

Ta có thể xem những gì thấy được ở lò thiêu như một đề tài để tự quán chiếu. Thí dụ: hôm nay họ thiêu người này, nhưng ngày mai biết ai là người sẽ bị hỏa thiêu… có thể là tôi chăng?

Đây là những câu hỏi khôn ngoan vì chúng giúp ta trở nên thiện xảo trong việc đối mặt với thực tại trong cuộc sống. Khi các biến cố không thể tránh do quy luật thiên nhiên mang tới, ta sẽ không bị xáo trộn, bấn loạn.

Đức Phật khuyên ta tìm đến các lò thiêu để ta không đắm chìm trong dục lạc cho đến khi các cảm giác cuồng loạn chiếm hữu ta. Quán sát những thứ đó sẽ giúp ta giảm bớt tham và sân. Ta chứng kiến các cuộc hỏa thiêu để giảm bớt ảo tưởng của ngã mạn, “cái tôi” và “của tôi”. Tự vấn bản thân theo cách này có thể, ở một chừng mực nào đó, mang đến bình an cho tâm.

Nếu quán tưởng về cái chết giống như thế, có khiến ta trở nên trầm cảm không thưa Sư? Ta có cần thầy hướng dẫn, hoặc phải làm thế nào để trầm cảm không xảy ra?

Lúc mới bắt đầu thực hành, có thể có một số triệu chứng giống như trầm cảm phát sinh, nhưng khi ta đã quen thuộc với cách quán chiếu này một thời gian, thì sẽ có sự thay đổi.

Sư nhớ lúc còn trẻ có bạn bè. Ai cũng nghĩ tuổi trẻ cần vui chơi, hưởng thụ, nhưng khi sư bắt đầu nhắc đến cái chết, thì dường như ai cũng lảng ra, không ai muốn nói đến đề tài đó.

Người ta không muốn đối mặt với cái chết. Họ không muốn quan tâm. Họ coi đó là một điều cấm kỵ. Nhưng sư gợi lên đề tài này là để nhắc nhở họ, khiến họ quan tâm đến cái chết. Ở vùng Isahn, các nghi lễ dành cho người chết được gọi là “Good - house - festivals” (tạm dịch “Nghi Lễ An Cư”). Các nghi lễ này giúp ta trải nghiệm thực tại cuộc sống.

Thưa, con nhìn thấy sư ngồi đó, mỉm cười, thư thái, tự tại, trạng thái tươi vui, nhưng khi quay nhìn lại bản thân, con thấy mình vẫn còn đau khổ, không thể mỉm cười nhiều. Đó có phải vì con chưa thực hành Pháp đúng cách không, thưa sư?

Có lẽ con biết điều đó rõ hơn ai hết…. Tuy nhiên, có thể sự thực hành của con cần một số yếu tố hỗ trợ, để nó được mạnh mẽ hơn. Nếu có thêm sức mạnh, mọi thứ sẽ tốt đẹp hơn.

Thưa sư, có phải việc thực hành nhiều khi giống như leo núi, dĩ nhiên là phải mệt nhọc, nhưng khi đã leo được lên đỉnh, mọi mệt nhọc sẽ qua đi?

Có thể là thế. Ngài Luang Pu Chah đã dùng một câu triết lý địa phương để nói về điều đó:

Nếu leo cây, bạn đừng nên chậm chạp, lưỡng lự hay tụt xuống. Nhưng nếu leo núi, bạn nên leo từ từ, chậm rãi.

Thưa sư, có cách gì để trong khi thực hành ta luôn được hạnh phúc hay cũng phải có khổ đau?

Nếu ta ăn cơm, mục đích là để no. Nhưng nếu ăn không ngừng, không với mục đích gì, chắc chắn ta cũng sẽ no. Trong khi ăn, ta có ước muốn giải tỏa cơn đói, nhưng nếu cứ tiếp tục ăn, cơn đói cũng sẽ biến mất (dù ta có muốn hay không).

Thưa sư, dầu ta vẫn phải trải nghiệm khổ đau trong khi thực hành, nhưng có thể ta cũng tạo được một số điều thiện. Vậy chúng con nên phát triển thiện lành ở đâu, xin sư cho một lời khuyên?

Sự thiện lành có nhiều hình thức, nhưng dưới bất cứ hình thức nào, nó chỉ có một mục đích: để giúp ta khỏi trải nghiệm khổ đau. Đức Phật gọi sự thiện lành đó là puñña[1].

Vậy puñña bao gồm những gì? Nó bao gồm sự hỗ trợ, giúp đỡ người khác. Thí dụ, khi nhìn thấy một tai nạn xảy ra trên đường đi, chúng ta có thể giúp đỡ. Khi giúp đỡ người khác là ta đang xây đắp tâm từ.

Ta cũng có thể tặng phẩm vật cho người khác. Nhưng ở Thái Lan, người ta sợ phải giúp đỡ kẻ bị tai nạn trên đường. Ngày xưa, con người chân thật và đáng tin cậy. Ngày nay, người ta không còn thân thiện mấy.

Ngày nay, nếu ta giúp đỡ mà không suy xét, rủi như không có người làm chứng, ta có thể bị kết tội là kẻ gây tai nạn. Đó là lý do tại sao ngày nay người ta hay nghi ngờ và cẩn trọng trong việc giúp đỡ người khác. Đây là dấu hiệu của một xã hội đang chuyển đổi nơi con người không còn tin cậy lẫn nhau nữa. Dầu vậy, giúp đỡ người cũng là một cách để tạo dựng thiện lành và sự hỗ trợ lẫn nhau.

Để thực hành tránh làm điều ác, tránh khỏi con đường đưa đến “các thảm họa địa ngục”, ta chọn con đường làm phát khởi các tình cảm thiện lành. Thực ra, tất cả những gì con người sáng tạo ra đều để mang lại lợi ích cho chúng sanh, nhưng nếu chúng được dùng sai mục đích thì bất lợi và nguy hại. Thí dụ, các loại thuốc như morphine hay cà - phê, được sử dụng khắp nơi. Nhưng nếu dùng sai mục đích, người tiêu thụ sẽ trở nên điên loạn, lờ mờ và hệ thống thần kinh của họ sẽ bị mất thăng bằng. Chúng ta cần biết điều gì tốt, điều gì không. Chắc chắn là Đức Phật phải có lý do khi Ngài dạy ta phải tránh những thứ đưa đến bạo động hay xung đột, nhưng quyết tâm làm điều lành. Đây là vấn đề của sự chú tâm.

Ngay bước đầu tiên trong việc tu tập là thực hành giữ giới. Sau đó ta mới phát triển việc hành thiền, duy trì chánh niệm - thí dụ, chánh niệm về các oai nghi của thân. Xa hơn nữa, ta cần sống một cuộc đời với sự suy nghĩ thấu đáo, thiện xảo.

Lần trước, sư đã nói về việc trong cuộc sống, ta phải phụ thuộc vào việc sử dụng năng lượng điện. Khi sử dụng bóng đèn điện, chúng ta phải chú ý, chánh niệm (vì điện có thể nguy hiểm). Nếu được sử dụng với sự cẩn trọng, chánh niệm thì năng lượng điện rất tiện ích cho ta. Nhờ có điện, ta có thể được hạnh phúc, thoải mái, nhưng điều đó tùy thuộc vào việc sử dụng đúng cách.

Thưa sư, con muốn hỏi về việc phát triển mettā (tâm từ) như là một phương pháp hành thiền đặc biệt. Theo con biết thì phương pháp đó không được các ngài thiền sư ở Thái Lan nhắc đến nhiều, nhưng nó lại rất phổ biến ở Tây phương. Thưa quan điểm của sư là như thế nào ạ?

Lý do mà các bậc đại sư ở Thái Lan không coi việc hành tâm từ là một phương cách hành thiền đặc biệt là do họ quan niệm rằng khi giới được giữ một cách vẹn toàn, trong sạch thì tâm từ sẽ tự nhiên phát khởi. Tâm từ thường đi với giới vì khi ta đã biết giữ giới là ta đang đi trên con đường của hòa bình, không xung đột.

Tâm từ cũng cần đi với tâm xả (upekkhā). Nếu thiếu tâm xả thì tâm từ đó chưa hoàn hảo, nó có thể không đưa đến sự tiến bộ nào trên đường thực hành.

Lòng từ cũng chính là tình thương yêu, có phải không? Và tình thương yêu cũng đi đôi với tâm từ. Quý vị có nhớ chuyện một vị tăng sĩ người Tây phương đã vì “lòng từ” đối với cô bạn gái khuyết tật, mà cởi áo tu để cưới cô. Nhưng rồi họ lại chia tay nhau, phải không?

Thưa, sư có thể chỉ cho con phương cách để giảm thiểu các dục vọng?

Nói một cách đơn giản thì thực phẩm, thứ ta ăn là cái kích thích dục vọng. Nếu ta có thể giảm thiểu yếu tố này, thì ham muốn sẽ giảm cường độ, chứ chưa thể hoàn toàn biến mất. Nhưng ít nhất là nó đã giảm xuống tới mức độ mà ta có thể quán sát nó một chút. Nếu sư tiếp tục nói theo hướng này, chắc sẽ gây xung đột với các công ty thực phẩm lớn mất… (Luang Por cười…)

Thưa sư, có phải đồ ăn Thái Lan đặc biệt nguy hại?

Đồ ăn nào cũng thế, nếu ta ăn nhiều cũng nguy hại. Nguyên tắc Đức Phật đưa ra cho chúng ta là biết đủ, với số lượng vừa phải. Đây được gọi là bhojane mattaññutā (biết đủ trong ăn uống).

Thưa sư, có phải việc quán chiếu về vô thường, khổ, vô ngã để đạt được trí tuệ khác với sự hiểu biết thông thường của ta về chúng?

Rất khác. Nếu sự quán tưởng đủ sâu sắc, mọi thứ sẽ dừng lại. Nếu chưa được sâu sắc, sự thực hành đó cũng là một phương cách ích lợi để thúc đẩy, kích hoạt trí nhớ (saññā) của ta. Phương cách đó thích hợp (cho trí tuệ thực sự hay paññā).

…nếu ta chỉ biết do nghĩ tưởng, thực sự thì…

Điều đó cũng ích lợi, giống như khi ta biết rõ bản đồ trên đường đi. Biết được bản đồ cũng ích lợi.

Thưa sư, con muốn hỏi về các hành phát khởi và hoại diệt trong tâm, thí dụ như sân hận. Như khi nhìn thấy một người nào đó, con phát khởi tâm sân. Khi người đó đi khỏi, tâm sân biến mất. Nhưng sau này, dầu sau nhiều năm, nếu con lại gặp người đó, sân hận lại trỗi lên. Rồi nó lại qua đi. Như thế con phải ứng xử như thế nào trong những trường hợp đó khi sân hận cứ tiếp tục sinh khởi? Suy cho cùng, có vẻ như sân vẫn có mặt trong tâm…

Thực sự ta không cần phải đối phó hay cố gắng ngăn cản việc gì đó đừng xảy ra. Chúng ta chỉ cần ý thức về bản thân một cách cẩn thận, không dừng dứt.

Các trạng thái tình cảm đó giống như các vị khách. Chúng chỉ ghé qua, thăm viếng ta. Tuy nhiên, chúng có thể nguy hiểm, nên ta cần phải cẩn thận một chút. Vì theo lời Đức Phật dạy, mọi thứ ở đời, sinh rồi cũng phải diệt.

Thưa sư, như thế ta không cần quán xét xem tại sao ta nổi sân, hay suy nghĩ nhiều về nó? Hay ta chỉ cần quán sát tâm sân, một khi phát sinh, sẽ lại diệt…?

… À, chúng ta vẫn cần thực hành thiền định một chút chứ!

Giống như khi làm việc, thỉnh thoảng ta cũng cần nghỉ tay. Nếu công việc đi kèm với nghỉ ngơi, thì có sự cân bằng. Ta không nên bất chấp trong các hoạt động của mình. Ta cần tập thỉnh thoảng để tâm được an ổn, như thế ta mới có thể thư giãn nhiều hơn. Nhưng chớ có hành thiền dựa trên ước muốn được điều này, điều kia. Chỉ cần tiếp tục hành thiền cho đến khi nó trở thành một thói quen của mình.

Thưa sư, thỉnh thoảng con có những giấc mơ về một số sự việc trong tương lai, như tai nạn hay tin xấu về một điều gì đó. Con có cần quan tâm đến chúng, đi báo tin cho người khác về chúng, hay con chỉ giữ kín cho riêng mình?

Những việc như thế con nên giữ kín. Nếu nó có liên quan đến người khác, cũng không nên nói với họ, một phần vì đôi khi điều con thấy có thể rất rõ ràng, nhưng cũng có khi chúng mập mờ.

Các giấc mơ thuộc về hành uẩn (cittasaṅkhāras). Chúng có thể về chuyện tương lai. Đôi khi đúng, đôi khi sai. Ta có thể coi chúng như là một cái biết để quán sát chúng, nhưng không nên bám víu vào chúng.

Thưa sư, con thường nghe người khác nói về các thiền tưởng (nimittas) của chư thiên và nhiều thứ khác khi họ hành thiền. Đối với người mới hành thiền, không có nhiều trải nghiệm trong thiền định, việc tin vào các hình tướng này có quan trọng không ạ?

Chúng là chướng ngại cho sự phát triển thiền định. Con cần biết rõ điều đó.

Dĩ nhiên, phương cách thực hành đúng đắn là thực hành thiền chỉ ở bất cứ nơi nào có thể, nhưng đừng quá đà. Ta cũng cần tiếp nhận một số cảnh trần và thực hành để tạo thói quen thu thúc các căn.

Sự thực hành cần được hỗ trợ bởi nhiều yếu tố. Đức Phật gọi chúng là các phẩm trợ đạo (guṇasamāpatti).

Yếu tố hỗ trợ thứ nhất là giữ giới và thứ hai là sự chủ tâm hay động lực.

Sự chủ tâm hay động lực trong ý nghĩa là sở hữu tâm trong sạch, chân thành với nguyện vọng, quyết tâm không lay chuyển.

Yếu tố thứ nhất, thu thúc trong giới, liên quan đến các căn. Các căn là nơi ái dục phát khởi - và cũng là nơi chúng tan hoại. Ái dục phát khởi do những thứ mang đến khoái lạc, thích thú qua mắt thấy vật, tai nghe tiếng, lưỡi nếm vị và thân xúc chạm. Chúng ta thực hành kiềm chế các trạng thái tâm lý phát khởi trong tâm để không cho phép các tình cảm ưa, ghét làm chủ tâm ta.

Trong lãnh vực này ta cần thêm nhiều quyết tâm vì một khi sự ưa, ghét đã phát khởi trong tâm thì chúng đã có mặt, ta khó thể ngăn chúng lại. Chúng có quyền đó vì chúng là các trạng thái tâm. Nếu chúng đã phát khởi, ta cần quán sát sự tàn phai của chúng. Cảm giác ưa thích điều gì đó là một hình thức của kāmataṇhā (ái dục) và sự không ưa thích là một hình thức của sự không muốn có (vibhavataṇhā). Chúng ta phải quán sát quá trình khi các tình cảm này chế ngự ta. Những điều ta ưa thích chỉ là ảo tưởng, có tính cách dối gạt, nhưng ta bị chúng dẫn dắt do các trải nghiệm về sự vui thích mà chúng mang đến. Chúng kích thích ham muốn, ước ao, nhưng ta có thể chế ngự chúng khi ta có thể kiềm chế, thu thúc các thân hành. Ta có thể gạt chúng qua một bên.

Yếu tố thứ hai cũng có một số bất lợi. Động lực và sự quyết tâm thực hành có thể trở nên khá chướng ngại. Đầu tiên tất cả chúng ta đều muốn thực hành với tín tâm và với cảm giác rằng sự mong đợi của ta sẽ được thành tựu. Nhưng với thời gian, sự thỏa mãn ngày càng ít đi và cảm giác thất vọng tất nhiên sẽ tăng thêm. Dần dần ta trở nên thất vọng, mệt mỏi và chán nản. Thực ra trong khi thực hành đôi khi ta có thất vọng, cũng là điều bình thường. Những khi thực hành tốt, ta nghĩ mình có thể làm bất cứ chuyện gì, nhưng những khi không được như ý thì ta nghĩ mình không thể chịu đựng nữa. Đó là chuyện tự nhiên thôi.

Chúng ta phải luôn tỉnh thức, luôn quán sát và tự vấn trong khi thực hành: “Tại sao các trạng thái tâm này phát sinh?” Có thể chúng ta không cản trở được việc chúng phát sinh, nhưng ta có thể giữ cho tâm tập trung. Ít nhất ta biết cẩn trọng với các yếu tố đưa đến ảo tưởng và nguy hại. Làm như thế, cảm giác bị áp lực, cạn kiệt hay gò bó vào một số những thước đo giới hạn khiến ta không còn có tự do sẽ trở nên ít nghiêm trọng và ta sẽ buông thư, thu thúc.

Yếu tố hỗ trợ thứ ba trong pháp hành là sự biết đủ trong ăn uống (bhojane mattaññutā). Trong cuộc sống, ta luôn cần có khả năng biết đủ. Nếu trước đây ta sống trong những hoàn cảnh mà ta luôn có thể thỏa mãn mọi ước muốn, thì giờ trong hoàn cảnh tu tập ta sẽ thấy khá bị hạn chế. Ta sẽ trải nghiệm nhiều trạng thái tâm khó chịu kể cả đói, khát. Khi trải nghiệm những điều như thế, ta cần phải biết và hiểu chúng. Trong một số trường hợp, có thể điều ta trải nghiệm rất đỗi bình thường đối với cơ thể sinh học của ta. Thân ta có những hoạt động sinh lý như tiểu tiện, nên nó cũng phải phản ứng theo các cảm giác đói khát của ta. Không có gì phải lo lắng về điều đó. Tuy nhiên, đối với bất cứ thứ gì ta chưa quen thuộc, ta cần điều chỉnh chúng. Dĩ nhiên, điều đó phải cần thời gian, nhưng có thể thực hiện. Khi dần dần về mặt vật lý, ta đã trở nên quen thuộc với các điều kiện sống mới, thì ta không còn phải lo lắng về cách sống của mình nữa.

Dầu vậy, những sự lo lắng, hoài nghi về các điều kiện sống thường là vấn đề lớn đối với các vị mới xuất gia. Đó là lý do tại sao trong “bốn hiểm nguy đối với một vị mới xuất gia”, Đức Phật đã khuyên ta không nên là người bị choáng ngợp khi chỉ nghĩ đến cái bụng của mình, cũng không nên là người không thể chịu đựng được những khó khăn.

Yếu tố hỗ trợ thứ tư trong pháp hành là sự dốc lòng tỉnh thức (jāgariyānuyoga). Yếu tố này liên quan đến việc giữ tâm tỉnh thức, theo dõi tâm và giữ cho tâm sáng suốt. Có nghĩa là ta phải cẩn trọng, không được để các khuynh hướng xấu ác phát khởi trong tâm. Từ ngữ “xấu ác” (evil) ám chỉ các uế nhiễm, các tì vết của bản tánh mà tất cả chúng ta đều biết quá rõ. Đức Phật dạy về quy cách luôn dốc lòng tỉnh thức để ta có thể nhận biết các đặc tính bất thiện của tâm. Tức là cũng dốc lòng hỗ trợ các đặc tính thiện lành của tâm. Điều gì là “thiện lành” chắc ai cũng phải rõ.

Các đặc tính thiện lành của tâm cần được hỗ trợ bằng nhiều cách để cảm giác mệt mỏi, nản lòng và buông bỏ không phát sinh. Tuy nhiên, điều đó cũng vẫn có thể phát sinh. Khi ta thiếu động lực và sự nản chí phát sinh, ta cần phải đối mặt, quán sát và để nó qua đi. Ta phải bảo vệ bản thân khỏi điều này. Không chỉ các thiền sinh - chính sư cũng từng trải qua các kinh nghiệm như thế. Nói gọn là sư cũng xém buông tay. Nhưng, biết rằng mình đang ở trong thời kỳ tu tập, vẫn còn cần nhiều thực hành, ta cần nhắc nhở bản thân rằng quá trình này dài lâu. Không phải chỉ trong vài phút giây là ta có thể điều chỉnh được theo môi trường mới lạ. Mọi thứ đều cần có thời gian.

Hai yếu tố cuối cùng của “bốn điều nguy hại đối với người mới xuất gia” là: đắm chìm trong ái dục hay muốn trải nghiệm hạnh phúc ngày càng nhiều, và, cuối cùng là mối nguy hại mà tất cả chúng ta, những người cùng thuộc một nhóm giới tính phải nắm rõ: đó là sự nguy hiểm của mối liên hệ giữa nam và nữ.

Thưa sư, có lần sư nói về các dục lạc và so sánh chúng với lửa bên trong ta. Nếu quán sát với chánh niệm ta có thể thấy sự tai hại, sự vô thường của chúng, do không có gì là bền vững, là thực trong các dục lạc. Nếu ta thường quán chiếu dựa trên các chân lý này, có phải là ta có thể thấy được sự nguy hiểm ngay giây phút một điều gì đó vừa ý, khả ái (iṭṭhārammaṇā dhammā) phát sinh?

Nếu có đủ chánh niệm, ta có thể thấy được chúng. Điều vừa ý, khả ái là một phần của cái mà Đức Phật gọi là pháp thế gian (lokadhammā). Các pháp đó chế ngự thế gian. Những điều vừa ý được coi là hạnh phúc theo thế gian, trong khi những gì nghịch ý được coi là khổ. Nhưng đối với người trí, thấy được mối nguy hại trong các pháp thế gian, thì không có gì ngoài khổ xuất hiện. Không có gì được coi là hạnh phúc. Không có gì ngoài khổ phát sinh, không có gì ngoài khổ hoại diệt. Ai thấy được điều này, có thể hiểu thế gian theo cách khiến các sự thật của hiện hữu trở nên rõ ràng. Người này luôn nhận thức được sự vô thường của hiện hữu và phát triển trạng thái tâm nhàm chán với thế gian. “Nhàm chán” ở đây có ý chỉ việc không có gì là thường hằng, bền vững, đáng tin cậy trên thế gian.

Tám ngọn gió đời, được nhắc tới trong kinh điển Phật giáo, bao gồm những gì? Quý vị chắc ai cũng rõ. Chúng nói về tài sản và sở hữu, mà khi ta có, gọi là “được”. Cái “được” đó sẽ thành “mất” khi ta không còn sở hữu chúng. Trong xã hội, khi ta làm vừa lòng người khác ta được họ khen ngợi, ngược lại ta sẽ bị họ oán trách. Như thế tám pháp thế gian đó là: được và mất tài sản, có chức tước, địa vị hay danh tiếng và sự mất chúng đi, lời khen hay tiếng chê, hạnh phúc và khổ đau.

Thực ra, ta có thể rút gọn tất cả tám pháp thế gian đó vào hai thứ: khổ và lạc. Nhưng vị dự lưu, sống dựa trên các chân lý của hiện hữu, và có sở kiến dựa theo đó, sẽ nói rằng: Không có gì ngoài khổ phát sinh, và cũng không có gì ngoài khổ hoại diệt. Không có gì bền vững, thường hằng, chắc chắn hay đáng tin cậy trên thế gian này. Do đó, vị dự lưu sẽ trải nghiệm cảm giác nhàm chán với mọi thứ. Chỉ có thế, đó là cách phải sống ở đời.

Thưa sư, vậy nếu ta thực hành cho đến bước cuối của giác ngộ, có phải là tâm xả (upekkhā) sẽ phát sinh - dầu ta có trong hoàn cảnh nào, như ý hay bất toại?

Nếu ta đã đến cuối con đường đạo, sẽ không còn có cảm giác thích hay không thích nữa, dầu là về các căn trần hay việc chung sống với người. Nam và nữ - chỉ là các khía cạnh của thực tại chế định, sẽ không còn các tình cảm đưa đến đối tượng của ái dục. Kết quả là, tất cả những thứ ta ưa, ghét không còn hiện hữu nữa.

Có rất nhiều sự việc khác nhau có thể xảy đến cho ta. Thí dụ, hệ thần kinh trên não cảm thấy mát mẻ. Sự trải nghiệm của các căn thức không khiến tâm ta thay đổi. Rồi sẽ xuất hiện một đặc tính có thể được gọi là không ưa thích mà cũng không không ưa thích (phi hữu ái).

Đó là thực tại của một bản chất rất thuần khiết. Có nghĩa là, dầu chính mắt ta nhìn thấy cái được gọi là “vẻ đẹp”, không có gì đẹp ở đó. Ở đây ta không nói với ý nghĩa tiêu cực - chỉ là không có gì cả.

Đó là sự trải nghiệm của tánh không - tất cả trống rỗng. Hay một thứ gì giống như thế. Nó trỗng không theo cách khiến ta có cảm giác không bị ảnh hưởng, không liên quan. Giống như không còn gì mà ta phải đáp ứng hay ngăn cản nó khỏi xảy ra. Những gì còn lại chỉ là cảm giác tột cùng của trống rỗng.

Nhưng đó không phải là sự bàng quan, lãnh đạm trong ý nghĩa là ta hoàn toàn mù tịt, không biết việc gì đang xảy ra. Đó là sự lãng đạm trong ý nghĩa rằng mọi thứ đã đủ. Ta đã vừa lòng. Ta đã có đủ. Không còn có thể thêm thứ gì.

Điều còn lại chỉ là việc xoay chuyển thân hay các uy nghi, thí dụ, như khi ta tạm nghỉ. Ta không nghỉ do bất cứ tham ái nào. Nghỉ ngơi chỉ là một cách để thư giãn các căng thẳng sinh lý nơi thân. Khi đến lúc nghỉ ngơi, ta nghỉ mà không phải trải nghiệm nīvaraṇas ( chướng ngại nào trong năm chướng ngại ).

Đến lúc ta tỉnh thức cũng thế. Khi đến lúc tỉnh thức, ta thực sự biết phải tỉnh thức. Khi ngủ ta biết rằng mình đang ngủ. Ngủ là một phương cách mà thân sử dụng, nhưng (đối với tâm) sự tỉnh thức vẫn có mặt. Giống như câu nói “ngủ khi đang thức (và thức khi đang ngủ)”. (Luang Por cười nhẹ).

Thưa sư, trong lúc ta đang trải nghiệm một cảm giác dễ chịu qua các căn như thế nào đó, thì phải có sự phát sinh của ký ức hay tưởng (saññā) để báo cho tâm biết cảm giác dễ chịu này là cái ta muốn có được. Không thể khác cho đến khi ta đã phát triển khả năng nhìn sự vật một cách chánh niệm đúng lúc của tâm.

Thưa có phải chính saññā đã làm nhiệm vụ báo cho ta “cảm giác này là cái chúng ta muốn có?”

Ta cần phải đặt mình ở vị thế không bị ảnh hưởng của ái lực. Ta thực hành chỉ vì mục đích thực hành, không vì muốn bất cứ thứ gì.

Hãy thử quán sát những thứ liên quan đến sự thực hành mà ta có thể thấy trực tiếp. Việc này có thể khiến ta phải quay nhìn về quá khứ, nhưng không sao, vì nó có thể cho ta những lời hướng dẫn trong việc thực hành. Thí dụ như ngài Ananda, vị thị giả của Đức Phật. Chúng ta đã biết theo kinh sách điều gì đã xảy ra sau khi Đức Phật nhập diệt. Đại đức Ananda khởi tưởng hay nhớ lại trong tâm điều Đức Phật đã nói với đại đức rằng ông sẽ có thể thành tựu việc tu hành trong kiếp sống này.

Đến khi cuộc kết tập lần thứ nhất sắp diễn ra, đại đức Ananda nhớ lại điều này rất rõ, nên ngài tăng tốc nỗ lực thực hành miên mật, thiền hành không mỏi mệt. Đại đức khiến thân mệt nhoài do chạy theo lòng ham muốn (trở thành bậc hoàn toàn giác ngộ) cho đến khi cuối cùng ngài buông mọi hy vọng có thể đạt được điều mình mong muốn, nghĩ rằng lời Đức Phật có thể chỉ là để khuyến khích ngài một cách bình thường. Nhưng ngay khi đại đức Ananda thư giãn và buông mọi ái luyến, ngài rơi vào trạng thái tự nhiên không có ước muốn gì. Cảm giác bình an, tự tại phát khởi, và cuối cùng ngài dứt được mọi uế nhiễm trong tâm.

Bất cứ việc gì ta làm do ảnh hưởng của dục tham sẽ không đầy đủ trong một số khía cạnh nào đó. Trong việc ta làm, ta chỉ nên dựa vào chính việc đó theo lời chỉ dẫn. Giống như khi ta trồng cây. Bổn phận ta chỉ là đào lỗ, xuống giống, đắp đất, bón phân và tưới nước. Còn việc phát triển của cây, nó lớn lên như thế nào, đó là việc của cây. Chúng ta không thể can thiệp vào. Bổn phận của chúng ta ở đây có giới hạn.

Vì thế, nói là “buông tất cả” trong việc thực hành có nghĩa là hãy để sự việc diễn ra theo cách của chúng. Ta không mong muốn nó phải là hay không phải là thế này, thế kia. Việc thực hành là nghiêng theo dòng chảy tự nhiên của sự vật. Sự tiến bộ hay thành quả trong tu tập - những thứ này sẽ tự diễn ra. Nghĩ rằng mình là vĩ đại, tuyệt vời, hay là nhất, hoặc có những suy tưởng khác về bản thân có nghĩa là có điều gì không ổn trong việc thực hành của ta.

Nên nhớ rằng chính Đức Phật có luật cấm các tỷ kheo tuyên bố rằng mình có thần thông, dầu cho đó là sự thật. Tại sao như thế? Vì Đức Phật không muốn hướng dẫn người ta đi sai đường. Những tuyên bố này tạo cơ hội cho người ta nghe theo những điều không chính đáng.

Để thay đổi, tại sao quý vị không quán như thế này: Ở đâu có bụi bặm, ở đó cũng có sự sạch sẽ. Ở đâu có khổ, ở đó cũng có không khổ.

Ở ngay nơi ta đắm chìm trong ái thì phi hữu ái cũng có mặt. Chỉ cần ta quán sát cẩn thận.

Năm 1971 (Phật lịch 2514), sư trải qua mùa an cư với đại đức Tan Ajahn Sumedho. Vào những ngày được giặt giũ, khi quý sư giặt y dùng nước nấu sôi từ vỏ cây mít, Tan Ajahn Sumedho lúc đó chưa biết giặt y theo cách đó. Khi đại đức giặt y của mình, ngài nói, “Chất bẩn đi đâu? Chất bẩn còn nguyên ở đây”16. (Luang Por cười). Dầu chiếc y vẫn còn bẩn, nhưng màu y trở nên đẹp tuyệt.

Thưa sư, có phải đó là điều mà Đức Phật nói rằng tất cả chúng sanh đều có đầy đủ những thứ họ cần để tu tập, để thấy rằng Pháp đã sẵn có trong tâm? Nên ta chỉ cần nỗ lực, cố gắng thực hành thì ta sẽ thấy được điều đó.

Sự phát triển cần xảy ra theo quy định mà Đức Phật đề ra để hướng dẫn ta, mà Ngài thấy là phù hợp để thấy được chân lý - định luật “ariyavaṃsa”17, truyền thống của các bậc Thánh. Đức Phật đã định

Cách giặt y theo truyền thống là dùng nước màu nâu nấu ra từ vỏ cây mít, thực ra là cách nhuộm lại y. Y được ngâm trong thau với ít nước nhuộm mà người ta cố giữ lại trong y áo. Không có việc xả hay vắt nước dơ ra khỏi áo. Nên chất bẩn bám vào áo, lâu dần làm đậm thêm màu áo. Bốn truyền thống bậc thánh (Ariyavaṃsa):

Tri túc với y phục (Cīvarasantosa)

Tri túc với vật thực (Piṇḍapātasantosa)

Tri túc với sàng tọa (Senāsanasantosa) Vui thích tu tập thiện pháp và đoạn trừ ác pháp (Bhāvanāpahānārāmatā).

nghĩa các vị thánh là những người bằng lòng với những gì họ có hay được tặng. Họ rất dễ thấy đủ và bằng lòng.

Tất cả chúng ta đều biết thấy đủ có nghĩa là: không thấy cần phải có thêm. Dễ bằng lòng, vui thích có nghĩa là chấp nhận những gì đang có hay những gì sẽ có bằng các phương tiện chân chánh. Vị thánh sống thu thúc và tự tại, vì đó là giới luật căn bản của một sa môn. Thí dụ điển hình là Đại đức Assaji[2] trong thời Đức Phật còn tại thế. Ngài có thể được coi là một vị thầy và hình mẫu cho giới luật thu thúc. Bản thân sư cũng áp dụng giới luật này. Sư nghĩ rằng nó rất ích lợi và giúp ta thiết lập các thói quen mới để tránh các hành động sai trái và các thiếu sót không phát sinh. Hơn nữa, giới luật thu thúc này cũng tránh cho ta không ham muốn điều gì có thể khiến ta bị trói buộc, gò bó.

Thu thúc thân tâm và tự tại là những điều rất tuyệt vời. Nó giúp ta có những hành vi khiến người khác dễ chấp nhận. Ví như Đức Phật khi sinh ra trong hoàng tộc, thuộc hàng vua chúa, thì các cách hành xử, các uy nghi rất được chú trọng. Hành động của một vị vua hay vị tướng quân được coi là phải không có lỗi, không tỳ vết.

Thực ra tất cả là sự chánh niệm, tỉnh giác, và khả năng nhận biết sự vật xảy ra trong đời một cách đúng đắn. Phàm phu thì thường phán đoán sự việc một cách chung chung. Điều gì có vẻ chấp nhận được thì họ cho là “tốt”, ngược lại là “xấu”. Tất cả mọi người đều có cảm giác thích hay chấp nhận một số việc. Đôi khi chúng ta còn đồng ý làm điều sai trái hay gây nhiễu hại cho người. Đó có phải là cách hành xử tốt không? Ta phải quán xét về điều đó.

Hành vi của ta thực sự tùy thuộc vào các trạng thái tâm, vào cảm tính của ta. Trong một số trường hợp ta có thể thấy điều đó dễ dàng, thí dụ, khi ta trải nghiệm sự ham muốn, tình yêu, hay lòng ghen tỵ, thù địch, xung đột. Chính các cảm tính mà ta có thể thấy rõ ràng này thật phù hợp để ta quán sát, mổ xẻ và tìm hiểu chúng. Nếu bị các tình cảm này lôi kéo, ta sẽ sử dụng thứ gì để đoạn trừ chúng, để ngăn chặn, cản trở chúng phát sinh? Chúng ta cần sử dụng một số phương cách để đối phó với các tình cảm này, thực ra tựu trung là các phương pháp hành thiền truyền thống mà ta gọi là “kammaṭṭhāna”, pháp hành để phát triển bản thân và các trạng thái tâm. Khi ta sử dụng phương pháp này, các cảm tính bất thiện không phát khởi. Trong pháp hành thiền quán bất tịnh (asubha kammaṭṭhāna), ta sử dụng tính chất thô kệch, nhơ nhuốc của sự vật làm phương tiện. Đây có thể là một phương cách ta không thấy thích, không thấy phù hợp. Nhưng sau một thời gian thực hành, phương cách này rất hữu ích trong việc tạo nên một nền tảng căn bản để giải tỏa các cảm giác về tính dục, lòng ham muốn, nhục dục. Đây là một quy trình chuyển hóa, sửa đổi, giống như khi ta giặt một miếng vải dơ với bột giặt, để biến đổi nó thành sạch. Chúng ta cần các phương pháp thiền quán bất tịnh là vì lẽ đó.

Ta có thể thực hành phương cách này trong mọi oai nghi, đi, đứng, nằm và ngồi. Bất cứ khi nào một cảm tính phát khởi, ta dùng đối tượng thiền quán bất tịnh để quán sát, tìm hiểu nó. Giống như khi có thứ gì đó không bằng phẳng, thẳng hàng - thì ta cần chỉnh sửa để làm cho nó bằng phẳng, như khi ta sử dụng các vật liệu xây dựng để làm nhà ở. Vật liệu thô chưa thể dùng được ngay, ta cần chỉnh sửa chúng một chút.

Chỉnh sửa và kiềm chế việc thực hành theo cách này cho đến khi ta đạt được mục đích, đôi khi khó khăn và phiền nhiễu. Nhưng nó không vượt quá khả năng của ta. Nếu nó quá sức ta, chắc chắn là Đức Phật đã không truyền dạy điều đó cho ta.

Pháp là giáo lý mà chúng sanh có thể thấy, có thể hiểu. Ai là người đã đạt giác ngộ? Chúng sanh. Ai là người đã diệt được khổ? Chúng sanh. Đó là cách ta phải suy nghĩ.

Ở đâu có hạnh phúc, ở đó có khổ đau, ở đâu có khổ đau, ở đó có bình an. Đó là chuyện tự nhiên. Ta cần phải quán sát một thời gian dài và nỗ lực để hiểu được vấn đề. Thực ra, sư nghĩ chỉ cần biết quán sát là đủ.

Nếu ta chỉ lướt nhìn, thì không có gì để thấy. Nếu ta quán sát nó, thì nó sẽ hiển hiện. Bất cứ thứ gì phát sinh cũng tạo cơ hội cho ta phát triển sự hiểu biết.

Chúng ta cần quán sát sự vật theo cách người ta quán sát thú hoang trong rừng, để biết chúng sống như thế nào, bản tính chúng ra sao. Vì thú rừng rất nhát và dễ sợ hãi, nên chúng thường tìm cách trốn đi. Chúng không muốn con người biết cách chúng sinh sống, hoạt động ra sao. Nên khi bước vào rừng, ta cần rất cẩn thận để không khiến các con thú này nghi ngại hay sợ hãi điều chi. Chúng ta không được khuấy động chúng. Nếu ta biết cách hành xử trong hoàn cảnh đó, dần dà các loài thú sẽ biểu hiện bản tánh và thói quen của chúng. Quy trình hành thiền quán bất tịnh cũng tương tự. Ta phải tiếp tục quán sát, và điều ta thấy được sẽ tự hiển bày bản tánh của nó. Chúng ta sẽ dần có thể thấy được những yếu kém của mình.

Rồi chúng ta sẽ có thể buông bỏ những gì cần buông bỏ như Đức Phật đã dạy. Khổ là cái ta cần chú tâm và khám phá.

Thưa Luang Por, cô gái trẻ này bị ung thư não. Bác sĩ bảo ung thư sẽ khỏi, nhưng nó vẫn còn đó. Cô ấy phải làm gì trong hoàn cảnh này?

Tất cả chúng sanh đều bị “ung thư” - tất cả mọi người… (Luang Por cười). Mọi người đều bị “ung thư” - căn bệnh không thuốc chữa - đó là: Chết. Dầu con có chữa được ‘ung thư” này, ung thư kia cũng không hết. Con hiểu không?

Chúng ta không thể nghĩ là mình sẽ vượt qua mà không có vấn đề gì. Thân này là ổ bệnh. Đó chính là bản chất của thân vật lý này. Chớ lo âu… chỉ có thế. Hãy chấp nhận những gì ta có được và tận dụng chúng. Quá lo lắng, bức xúc chỉ đem lại lắm ưu phiền, và điều đó sẽ khiến cho các cơ quan trong thân không hoạt động tốt.

Sư, cũng vậy, sư cũng bị “ung thư”. Sư đi bác sĩ và ông khám thấy nhịp tim sư đập không bình thường. Nhưng sư nói, “Không, vậy là bình thường rồi. Trái tim tôi sử dụng quá lâu rồi, nên nó hao mòn đi”.

Suốt khoảng đời của một con người, cũng có lúc sự vật đổ vỡ. Tất cả mọi thứ cần theo định luật thiên nhiên - chớ lo âu. Khi đủ duyên, mọi thứ sẽ tự động làm những gì chúng cần phải làm (Luang Por cười…). Bình tĩnh. Nếu tâm ta thư thái, ta sẽ có thể cảm nhận hạnh phúc.

Dầu ta phải đối mặt với vấn đề gì, Đức Phật muốn ta phải là “người biết”, và hãy để mọi thứ ở đời đến rồi đi. Nếu ta có thể buông, thì không có gì nặng nhọc. Chỉ khi ta gánh vác nhiều việc thì chúng sẽ nặng nề. Gánh vác sự việc có nghĩa là bám chặt vào chúng như thể chúng là của ta, nhưng, thực ra, trên thế giới này, không có gì là của ta, thuộc về ta.

Có một thế giới ở bên ngoài, bề mặt của hành tinh Trái đất, và có một thế giới nội tại. Trong thế giới nội tại có các khía cạnh của thân, và các thành phần, kết hợp của một con người mà ta gọi là bản ngã. Nhưng chúng ta không thể gọi các thứ đồ được kết nối lại như là “của ta”. Tất cả mọi thứ rồi sẽ rã tan. Tất cả những hiện hữu sẽ hoại diệt. Dần dần mọi thứ chuyển đổi thành một trạng thái không có gì thuộc vào ta nữa.

Vì thế Đức Phật không muốn chúng ta nhìn cuộc đời theo quan điểm lầm lạc. Khi ta nhìn sự vật sai, ta bắt đầu nắm giữ chúng. Ta phát sinh nhiều mối ưu tư khiến ta cảm thấy như bị cầm tù, bị trói cột bằng mọi thứ phiền não, không có chút tự do gì.

Dầu ta có bị các bệnh thông thường gì - đừng nghĩ tới nó như một vấn đề quan trọng. Tất cả là chuyện tự nhiên. Mọi thứ, một khi đã phát sinh, phải luôn chuyển đổi. Đó là bình thường.

Bệnh hoạn là chuyện hoàn toàn bình thường và tự nhiên. Do đó Đức Phật đã dạy ta nên coi đó là đối tượng tu tập, quán xét và tìm phương cách để hiểu nó. Như thế ta có thể hướng các cảm tính của mình đến một đạo pháp giúp ta giải thoát khỏi mọi trói buộc của uế nhiễm. Quán chiếu về thân bệnh có thể giúp ta được bình an, nhẹ nhỏm.

Nhưng nếu ta bám víu vào sự vật, các yếu tố khác sẽ chế ngự ta: thí dụ sân, tham hay si. Ba thứ này là căn nguyên chánh của mọi vấn đề chế ngự ta. Đó là lý do tại sao Đức Phật dạy ta phải tu tập và quán xét để các trạng thái bất thiện không phát khởi.

Tất cả giáo lý của Đức Phật đều là về khổ và phương cách diệt khổ. Đức Phật chỉ dạy có thế, nếu ta muốn nói gọn về giáo lý của Ngài.

Khổ có mặt vì có ái. Ái trở nên mạnh mẽ khi ta để cho nó phát khởi. Nhưng nó sẽ giảm nếu ta biết cách ngăn chặn, chống đỡ nó. Ta sẽ không có khổ nếu ta biết cách buông bỏ.

Vì thế ta cần phải biết các phương cách buông bỏ và để sự vật như chúng là. Ta phát triển các phương cách chú tâm đến điều có thể làm giảm ngã tưởng, sự bám víu mà Đức Phật gọi là “attavādupādāna”, sự bám víu vào cái ngã.

Giáo lý mà Đức Phật dạy để làm giảm thiểu sự bám víu và các cảm giác của ngã chấp, đơn giản là trước tiên ta phải dừng lại, phải vun trồng một trạng thái tâm gọi là ekaggatā (nhất tâm), hay, nói cách khác, đó là pháp hiện - tại. Để trụ vững trong pháp của giây phút hiện tại, ta cần không chỉ sự quyết tâm cơ bản mà ta còn phải phát triển một sự hiểu biết bản thân.

Các phương cách Đức Phật dạy ta không phải là khó thực hành. Ta chỉ cần thu hẹp sự chú tâm và quán sát với tâm không lo âu, nghi hoặc, hay có bất cứ sự bất ổn nào.

Chú tâm vào tính chất của các thành phần vật lý, các uẩn và các trạng thái của thân. Bắt đầu bằng cách tự vấn về thân và thế giới quanh ta, quán xét xem có gì thuộc về ta không. Thân có thể được chia thành nhiều phần. Trên đầu có tóc, rồi lông tóc trên thân, móng, răng, da để bao bọc, che phủ toàn thân.

Đức Phật khuyên chúng ta quán sát, phân tích các thành phần của thân để thấy rằng chúng luôn ở trong trạng thái chuyển đổi, không lâu dài. Cuối cùng chúng sẽ tan rã thành nhiều yếu tố. Thấy được vậy, ta không thể xác lập sở hữu. Không có quyền cho rằng chúng vĩnh cửu. Chúng ta chỉ có sự liên hệ tạm thời đối với thân.

Ta có thể so sánh thân với một chỗ trọ qua đêm. Thí dụ, ta có thời hạn được ở đó một đêm. Khi đến hạn, chủ nhà sẽ bảo ta ra đi. Đối với cuộc đời ta cũng thế.

Đức Phật xem các quy trình này như là tính chất tự nhiên và là thực tại có mặt trong tất cả mọi thứ. Nếu có phát sinh, sẽ có lúc dừng, và cuối cùng chấm dứt. Quán chiếu như thế sẽ khiến ta sinh nhàm chán. Nó giúp ta không bám víu vật chất hay ngã mạn. Ta không phải lo lắng nếu bác sĩ bảo ta có bệnh này hay bệnh kia.

Ai cũng có bệnh. Ít nhất cũng là bệnh đói khổ mà ta cố gắng chữa hằng ngày bằng việc ăn uống - đó là cảm giác khổ đau khi đói. Khi ta đã đáp ứng nó bằng việc cho thân thực phẩm, nó lại xuất hiện qua các nhu cầu tiểu tiện, lại tạo ra các thứ khổ khác. Tất cả những thứ này là bệnh.

Bệnh là thứ ta cần nhận biết, cần quán chiếu về nó. Đức Phật dạy rằng ta không nên quá lo âu về nó. Ngài muốn ta tu tập theo trung đạo, vừa đúng, giống như hơi thở. Ta không gò ép hơi thở vào và hơi thở ra.

Tính chất của các thành phần và các uẩn trong thân sẽ tự điều hành. Đó là cách ta nên nhìn các hiện tượng này để ta không phát sinh sự bám víu, nắm níu sự vật. Ta đặt mình vào vị trí của buông xả.

Chính ta là người phải biết ngay các đặc tính phổ quát của sự hiện hữu của ta. Đó là ba đặc tính: vô thường, khổ và vô ngã. Nhờ thế tâm bình an sẽ phát sinh. Không có gì bền vững và lâu dài. Ta quan sát và suy tư về các sự thật này để buông sự bám víu, để chấp nhận rằng thực tại là như thế. Đó là cách nhìn sự vật để có thể phát sinh chánh kiến:

“Bất cứ điều gì phát sinh cũng sẽ giúp ta phát triển

trí tuệ”.

Diệu Liên Lý Thu Linh 2019

TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Thư Viện Hoa Sen, CA USA

- WWW.BUDSAS.ORG

- Hoa Ưu Đàm

Chú thich:

[1]. Thường được dịch là công đức, hay nghiệp thiện.

[2] Đại đức Assaji là một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Cách ngài đi khất thực tại Rajagaha lặng lẽ, tự tại đã khiến ngài Xá Lợi Phất cảm kích để trở thành đệ tử của Đức Phật sau này