← Quay lại trang sách

Những Năm Tháng Ở Wat Pah Pong -

Trong những năm đầu ở Wat Pah Pong, có nhiều lần Luang Por được Luang Pu Chah nhờ chăm lo một số các tu viện chi nhánh của Wat Pah Pong, kể cả Wat Tamm Saeng Phet, Wat Pu Din Daeng (nơi ngài trải qua mùa mưa năm 1970/2513) và Wat Suan Gluay (nơi ngài trải qua mùa mưa năm 1971/2514)

Đối với nghi lễ dâng y hằng năm, tất cả tăng sĩ từ các tu viện chi nhánh đều tụ về ở Wat Pah Pong. Vào những ngày đó, không dễ xếp đặt việc đi lại, nên cuối cùng Luang Por Liem phải hướng dẫn các vị tăng sĩ ở Wat Suan Gluay đi bộ đến Wat Pah Pong (khoảng 70 kilo - mét). Khởi hành ngay sau bữa ăn sáng, họ đến nơi sáng hôm sau. Luang Por đã kể về trải nghiệm này như sau:

“Tôi mệt nhoài, các thân hành uẩn đau đớn khủng khiếp. Cả thân đều đau đớn, nhưng tôi không thực sự lo lắng hay quan tâm nhiều, vì tâm không đau đớn chút nào, chỉ có cái khổ của các hành uẩn, là điều bình thường nếu ta đày đọa chúng quá mức. Các sư và sa - di đi theo tôi đều than thở suốt chuyến đi vì chúng tôi di chuyển liên tục hầu như không có nghỉ ngơi, nhưng chúng tôi đến vừa kịp lúc để tham gia vào nghi lễ dâng y ở Wat Pah Pong”.

Sau đó, Luang Por trở về Wat Suan Gluay để giúp trông coi, tu sửa tu viện cho đến khi Luang Pu Chah gọi ngài về khẩn cấp để tổ chức ngày rằm tháng Giêng (Māgha Pūjā 1971/2514). Trong dịp lễ này, Luang Por phải thuyết pháp trước một đám đông tăng ni, các sa - di, và cư sĩ. Ngài đã nói về kinh nghiệm đó như sau:

“Khi cần nói pháp, tôi không chuẩn bị trước thứ gì. Tôi không quá quan tâm đến việc bài pháp phải thật hay. Khi bắt đầu giảng, tôi không biết ý tứ, ngôn từ từ đâu tuôn đến. Chúng cứ thong thả đến, điều này sau điều kia, một cách mạch lạc. Tôi cảm thấy tự tại, chứ không lo lắng khi phải thuyết pháp hay dạy học”.

Trong ngày Māgha Pūjā (Rằm tháng Giêng), ngài nói, ngài có cảm giác là Luang Pu Chah quán sát ngài rất kỹ, trong cả lời nói hay hành vi.

“Có thể Luang Pu Chah nghĩ, tôi hơi quá đà - tôi không rõ. Dầu ngài nghĩ gì, tôi cũng chẳng bận tâm làm gì”.

Vào mùa mưa năm 1972/2515, Luang Por được yêu cầu hỗ trợ Tan Ajahn Sumedho rèn luyện một nhóm tu sĩ người Tây phương (kể cả Tan Pabhākaro, Tan Santacitto, Tan Ānando và Tan Thiradhammo), đang an cư mùa mưa tại Wat Tamm Saeng Phet, cùng với các tăng sĩ Thái khác. Sau lễ dâng y, Luang Por lại trở về Wat Pah Pong. An cư năm sau, ngài lại đến Wat Pah Khantithamm ở tỉnh Sri Saket. Sau mùa mưa năm 1973/2516, ngài hành hạnh khất thực cùng với Ajahn Sumedho qua các ngọn đồi ở Na Chaluay tại tỉnh Ubon. Vào ngày 5, tháng Mười Hai, khi Luang Pu Chah được trao tặng danh hiệu “Đại Trưởng Lão Bodhinyana”, ngài và Ajahn Sumedho vẫn còn lang thang đi tìm những nơi vắng vẻ để thực hành và không thể tham gia vào các nghi lễ tại Wat Pah Pong.

“Vào những ngày đó, các con đường ở thôn quê rất nhỏ hẹp, chỉ vừa bàn chân người đi. Ajahn Sumedho không quen đi trên những con đường này. Chúng tôi đã đi được ít ngày, nhưng chân của sư cứ vấp các gốc cây bên đường, nên chúng sưng to lên. Nhưng sư không than phiền gì cả. Sư không nói bị đau. Lần đó chúng tôi đang đi qua một khu rừng, lúc đó vẫn còn rất rậm rạp. Gần cuối năm rồi, khoảng tháng Mười Hai, và thời tiết rất lạnh”.

Khi họ đang cố gắng tìm một nơi thích hợp để qua những đêm lạnh lẽo, thì dân làng đã mau mắn đem đến cho Ajahn Sumedho một tấm phản gỗ để ngủ. Họ khiêng từ nhà đến, để sư được ngủ thoải mái hơn, không phải ngủ trên sàn đất. Còn Luang Por Liem, ngài chọn ngủ trên sàn đất, ở dưới thấp, khuất gió, được lót lá với chiếc túi ngủ mà Ajahn Sumedho đã tặng ngài, giúp ngài không bị ướt. Ngài khá dễ chịu, và ấm áp trong chiếc chòi nhỏ của mình, trong khi sư Ajahn Sumedho phải chịu đựng đêm lạnh trên tấm phản vì gió vẫn có thể thổi qua chỗ sư nằm. Vào những ngày ấy khi ta đi về vùng quê cùng với các vị sư người ngoại quốc là chuyện rất đặc biệt, nên dân làng rất sốt sắng giúp đỡ. Rất đông người ùa ra cúng dường, nhưng vì một lý do nào đó, ở đây họ nghĩ rằng các vị sư đi khất thực chỉ ăn xôi với mè.

Vì chân của Ajahn Sumedho không đỡ hơn, nên cuối cùng Luang Por và sư Ajahn Sumedho đón xe trở về Wat Pah Pong để bác sĩ khám. Kết quả là sư phải bị rút móng chân. Luang Por luôn ấn tượng với sự kiên nhẫn chịu đựng của sư Sumedho. Ông chẳng hề than vãn tiếng nào suốt chuyến đi.

Một năm sau, Luang Por Liem cùng với hai vị tăng khác xin phép được đi học về các cách điều hành một tu viện và phương cách tu hành tại một số tu viện trong rừng nổi tiếng, kể cả một số theo hệ phải Dhammayut[1]. Ngài đi bộ đến tận Chiang Mai, Nong Khai và cuối cùng vào Lào, ở thành phố Vientiane khoảng một tuần. Sau đó ngài lại đi bộ xuống Bangkok, ngủ dưới một gầm cầu. Gần cuối thời gian hành hạnh đầu đà, ngài đã đi qua các nơi như Chachoengsao, Chonburi và Chantaburi, thăm viếng một số vị trưởng lão tăng, trước khi quay về lại Ubon và Wat Pah Pong.

Ở Ubon có một số cư sĩ người Lào đã xin các tăng sĩ tại Wat Pah Pong lập ra một tu viện lâm tể theo truyền thống của Luang Pu Chah tại Vientiane. Vấn đề đã được các vị cao hạ trong tăng đoàn bàn thảo và cuối cùng họ đã chấp nhận lời thỉnh cầu. Luang Por được chọn làm trụ trì cho tu viện chi nhánh này. Vào ngày thứ 13, tháng Năm, một phái đoàn gồm 16 tăng sĩ, một sa - di và 21 cư sĩ Phật tử rời Ubon để đi đến Vientiane. Luang Por và một số tăng sĩ đã trải qua mùa an cư năm 1973/2516 tại Vientiane, nhưng sau đó họ bắt buộc phải trở về Ubon vì vấn đề chính trị căng thẳng ở Lào lúc đó.

Từ năm 1973/2516 trở về sau, Luang Por luôn an cư mùa mưa tại Wat Pah Pong. Ngài Luang Pu Chah đã chuyển giao nhiều trách nhiệm tại tu viện cho Luang Por, nhất là việc dạy bảo, huấn luyện các tăng sĩ và sa - di. Sau chuyến xuất ngoại đầu tiên vào năm 1977/2520, sức khỏe của Luang Pu Chah giảm sút nhiều, nên Luang Por được giao nhiệm vụ làm phó trụ trì, cùng chia sẻ trách nhiệm với Luang Por Chu Ṭhitaguṇo, nhưng Luang Por cho rằng mình chưa sẵn sàng, dầu trên thực tế ngài đã chăm coi tu viện và sắp xếp việc chữa trị cho Luang Pu Chah. Sức khỏe của ngài Luang Pu Chah giảm sút nghiêm trọng sau phẫu thuật não vào năm 1981/2524. Sau năm tháng nắm viện, Luang Pu Chah trở về Wat Pah Pong. Luang Por và tăng đoàn đã xây dựng thất dưỡng bệnh cho Luang Pu Chah với sự hỗ trợ của Nhà vua và Hoàng hậu Thái Lan. Tháng 11 năm đó, Luang Por chính thức làm nhiệm vụ của trụ trì tại Wat Pah Pong, do Luang Pu Chah chỉ định.

Luang Por đã ghi nhận sự kiện đó như sau:

“Sau khi trở về từ Vientiane tôi luôn ở tại Wat Pah Pong. Vì ngài Luang Pu Chah dạy tôi chăm sóc Wat Pah Pong, nên tôi không dám đi đâu cả. Tôi không muốn làm gì khác hơn việc này vì tôi cảm thấy mình chỉ là một vị tăng còn non nớt. Hơn nữa, tôi không phải là người ở Ubon, nên tôi cảm thấy việc nhận trách nhiệm làm trụ trì ở Wat Pah Pong (tu viện lâm tế lớn nhất ở vùng đó) là không phù hợp. Nhưng nếu đó là việc hữu ích, tôi sẽ làm. Vì tôi thực sự rất kính trọng Luang Pu Chah, nên tôi sẽ ở lại, tiếp sức với ngài. Ngài đã muốn tôi ở lại đây. Nhưng khi ngài yêu cầu tôi làm phó trụ trì, tôi đã trả lời là tôi chưa muốn lãnh trách nhiệm đó. Tôi không cảm thấy thoải mái vì có nhiều tăng sĩ đến Wat Pah Pong trước tôi và họ cũng có khả năng trong nhiều lãnh vực. Nhung Luang Pu Chah trả lời bằng cách nói rằng chúng ta cần làm bổn phận của mình - bằng cách giúp đỡ nhau trong việc giảng dạy, ta cũng làm lợi ích cho Phật giáo nói chung. Nên tôi cũng đã cố gắng, bằng nhiều cách, nhưng không bao giờ với cảm giác bất thiện.

Tôi làm bổn phận của mình với tâm trong sáng, với tâm yêu thương và tận tụy dành cho - Giới - Pháp, và cũng cho tha nhân. Bất cứ điều gì mang lại lợi ích cho công đồng, tôi cũng cố gắng hỗ trợ, dầu khó khăn đến mấy. Tôi không thụ hưởng bất cứ lợi ích cá nhân nào trong công việc. Những gì lợi ích cho cộng đồng đều là việc phải làm.

Để duy trì và sửa sang lại tu viện không khó đối với tôi. Tôi có thể dễ dàng thực hiện điều đó, nhưng có một số việc vượt quá giới hạn của tôi. Đôi khi các cư sĩ lên chùa mong tìm được một lời khuyên nào đó, có thể không hài lòng với người tư vấn cho họ. Tôi không có thói quen làm thân với cư sĩ hay xu nịnh họ. Bản tánh tôi không có ưa mà cũng không có ghét. Tôi không quen làm thân với người, hay mong mỏi người ưa thích tôi. Tôi thích giữ thái độ bàn quang, xa cách; không tỏ ra thân thích với bất cứ ai. Tôi nghĩ không cần thiết phải tiếp khách thập phương, hướng dẫn họ đi quanh chùa, nói này nói nọ, mà chỉ cần có tấm biển chỉ đâu là toilet, đâu là nơi uông nước, vậy cũng đủ rồi. Chuẩn bị đủ nước sạch để uống hay sử dụng trong các toilet là đủ rồi. Chúng tôi không phải tư vấn để hòa hợp với đám đông như cách các nơi khác thường làm. Làm thân với cư sĩ Phật tử có thể là nguyên nhân đưa đến những sự việc không tốt đối với Giới - Pháp.

Đức Phật đã dạy rằng yêu cầu thứ này, thứ kia với cư sĩ Phật tử, khen ngợi họ để được các thứ nhu yếu phẩm, có những cử chỉ gợi ý, dầu qua thân - tất cả những thứ này đều không phù hợp với vị sa - môn, nên tôi cố gắng không làm những điều này. Chúng tôi cố gắng sống như một sa - môn, là những người sống độc cư và bình yên. Chúng tôi không chống đối ai, không làm hại ai, nhưng hỗ trợ chúng sanh bằng nhiều cách trong khả năng của chúng tôi, khi có thể. Tuy nhiên, việc người ta có thích như thế hay không, cũng tùy họ. Chúng tôi không thể ép ai, theo như cung cách của người thế gian. Không để tâm. Chúng tôi coi như họ không hiểu. Nếu người ta thực sự hiểu các điều luật của Giới - Pháp, họ sẽ coi những việc chúng tôi làm là hết sức tự nhiên.

Tu tập tại Wat Pah Pong cảm giác thực sự dễ chịu, vì các cảm giác thuộc thế tục không có mặt tại đây. Không ai khiến ai phải bận lòng. Tâm uế nhiễm, thành kiến, thiên kiến không phát sinh vì chúng tôi không bè phái, không khiến người ta phải mến mộ mình.

Đức Phật cũng sống như thế. Nếu ai thực sự cần tư vấn, người đó sẽ tiếp cận chúng tôi để hỏi, và chúng tôi sẽ tùy theo đó mà trả lời. Chúng tôi chỉ làm thế, vì sự chính xác, vì lợi ích của Giới - Pháp và để không gây hiểu lầm cho cả chúng tôi và các cư sĩ. Tu viện của chúng tôi là tu viện nghiêng về thực hành. Chúng tôi sử dụng các quy luật của Đức Phật làm chuẩn, làm thành các quy tắc thực hành, vì lợi ích của Phật giáo, của xã hội. Nếu điều này được thực hành đúng, nó sẽ tạo ra tiếng vang nơi người. Tiếng vang này không phải âm thanh, nhưng nó rung động lòng những ai đã “thâm nhập Pháp”. Họ sẽ trải nghiệm được cảm giác sâu lắng trong tâm, một trạng thái vững chãi, nhưng không thô ráp, mà là trí tuệ, sự hiểu biết có thể áp dụng dễ dàng trong đời sống.

Đây là những nguyên tắc chúng tôi thực hành tại Wat Pah Pong, và dầu tôi luôn làm mọi thứ theo lời dạy của Luang Pu Chah, đôi khi tôi vẫn thấy mình còn nhiều thiếu sót. Có những điều tôi không để ý tới, nếu có để ý, tôi đã thực hành ngay lập tức - nếu nó đúng theo tinh thần của Giới - Pháp. Trái lại, tôi sẽ không thực hành, vì tôi đã nguyện sẽ sống suốt cuộc đời trong sự thanh tịnh hoàn toàn. Tôi không biết mọi thứ có xảy ra theo ý nguyện này không, nhưng đó là cách tôi quyết sống trọn đời.

Luang Pu Chah đã có ước vọng xây dựng một nơi - Wat Pah Pong - tu hành hoàn toàn thanh tịnh. Thí dụ, ở Wat Pah Pong, chúng tôi không đòi hỏi, gợi ý hay kêu gọi sự đóng góp, cúng dường. Chúng tôi lặng lẽ làm mọi thứ, không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nếu ta có ý nguyện trong sạch, có lòng tin kính Giới - Pháp sâu xa, cộng với duyên lành và ba - la - mật đã tích lũy trong tiền kiếp, thì sự hỗ trợ, giúp đỡ dường như lúc nào cũng phát sinh, để ta có thể tạo ra những gì ích lợi.

Nếu ta có thể duy trì các nguyên tắc này, thì âm thanh vang vọng sẽ còn dội lại trong một thời gian dài, có thể trong nhiều kiếp sống, hàng trăm hay ngàn năm. Nếu ta không coi trọng các nguyên tắc này, thì sự hỗ trợ sẽ không dài lâu. Giữ được chúng chỉ trong một kiếp sống đã là khó. Đây là những điều tôi nghĩ về Wat Pah Pong, và tôi sẽ cố gắng để sống đúng theo các lý tưởng này”.

Trong thời gian mười năm cho đến khi Luang Pu Chah cuối cùng rời bỏ năm uẩn, ra đi, Luang Por đã chăm lo cho tu viện trong nhiều phương diện, cả trong việc dạy dỗ, rèn luyện các tăng sĩ và duy trì, gìn giữ các phòng ốc của tu viện. Khoảng thời gian đó, ngài đã lắp một hệ thống nước đủ cung cấp cho số lượng lớn khách đến viếng Luang Pu Chah. Ngài cũng xây dựng được một bảo tàng để trưng bày các di vật của Luang Pu Chah và xây dựng lại khu sālā lớn hơn, cùng với một phòng ăn mới. Khu sālā và phòng ăn đặc biệt cần thiết để phục vụ số đệ tử ngày càng đông của Luang Pu Chah đến viếng Wat Pah Pong hằng ngày và vào những ngày lễ lớn, hay có các khóa tu. Công trình xây dựng hoàn thành vào đêm 15 tháng Giêng, 1992/2535. Ngày hôm sau, 16 tháng Giêng, lúc 5:30 sáng Luang Pu Chah viên tịch và quan tài của ngài được đặt trong phòng sālā mới để khách đến viếng.

Luang Por đã nói về thái độ đúng đắn trong việc làm các công trình lớn, nặng nề, trong việc xây dựng và gìn giữ, duy trì các phòng xá của tu viện:

“Nếu ta vẫn còn theo cách nghĩ hẹp hòi hay ích kỷ cá nhân, thì công việc ta làm trở nên rất mỏi mệt. Tương tự, nếu ta quá nôn nóng, vội vã lúc làm việc, ta sẽ dễ lo lắng, bực bội. Thực ra, bắt tay vào việc, ta nên nghĩ đó cũng là thiền, chỉ là thiền trong tư thế với thân chuyển động. Chỉ là cách tập luyện cơ thể. Công việc ta làm với tâm “trống rỗng”, và tiếp tục như thể không có gì khó khăn, nặng nhọc trong công việc đó”.

Vào năm 1992/2535, tăng đoàn Wat Pah Pong và Luang Por đã hoàn thành đại công trình chuẩn bị nghi lễ hỏa táng hoàng gia, bao gồm việc xây khu hỏa táng, tháp thờ Luang Pu Chah. Tổng kết có hơn cả triệu người đến viếng đám tang, với hơn nửa triệu người, kể cả Nhà vua và Hoàng hậu Thái Lan, và Thủ tướng Thái Lan, đến viếng vào ngày cuối cùng.

Dầu từ chối không muốn nhận, Luang Por vẫn được giao chức vụ trụ trì Wat Pah Pong một cách chính thức vào năm 1994/2537. Năm 1996/2539, ngài được ban tôn giáo Thái trao danh hiệu Hòa thượng. Từ đó, ngài thường làm lễ xuất gia, và thọ tỳ kheo giới cho các tăng sĩ tại Wat Pah Pong, cũng như tại hơn 200 tu viện chi nhánh khác, kể cả Wat Pah Nanachat, nơi tu học của các tăng sĩ người nước ngoài. Hằng năm vào tuần lễ thứ hai của tháng Chín, Luang Por cho mời tất cả các đệ tử tụ hội lại để tu thiền cũng như học tập cách hành xử trong chùa trong một tuần, vì ngài cảm thấy đó là bổn phận của một vị hòa thượng. Các đệ tử của ngài đã nhân dịp này viếng thăm Luang Por, thay vì vào ngày sinh nhật của ngài, 5 tháng Mười Một.

Đối với tăng đoàn tại Wat Pah Nanachat, Luang Por luôn thăm hỏi, sách tấn họ, nhưng những năm gần đây, ngài còn hỗ trợ các sư người nước ngoài ở mười lăm tu viện chi nhánh bằng cách đến thăm viếng họ. Vào năm 1997/2540, ngài được mời đến thăm tu viện Bodhinyana ở tại Perth, Úc và 1998/2541, ngài lại nhận lời đến Bodhinyanarama, tại New Zealand. Năm 1999/2542, sư Tan Ajahn Sumedho mời ngài đến dự lễ khánh thành tu viện mới Amaravati, gần Hemel Hempstead, Anh quốc. Năm 2000/2543 và 2004/2547, ngài viếng thăm tu viện chi nhánh mới Abhayagiri, tại California, Mỹ, và Melbourne, Úc với tư cách là khách mời của tu viện Bodhivana. Cũng trong năm 2004/2547, Luang Por có dịp hành hương đến các thánh địa Phật giáo tại Ấn Độ.

Mỗi lần nhận lời mời đi nước ngoài, khi trở về Luang Por luôn thích chia sẻ các trải nghiệm thú vị và trí tuệ rút ra từ cuộc sống trong những nền văn hóa khác biệt, với tăng ni, cư sĩ ở Wat Pah Pong. Những sự khác biệt về khí hậu, hoa quả, thú vật ở những nơi ngài đã viếng thăm. Ngài nói về tình hình Phật giáo, các tu sĩ và cư sĩ Phật giáo ở nước ngoài, nhưng trên hết ngài tóm tắt về các đặc tính của giáo lý Phật giáo nổi bật mà ngài nhận thấy. Thí dụ, sau khi viếng thăm Úc năm 2004, Luang Por đã chia sẻ các cảm nghĩ như sau:

“Ra nước ngoài, ta luôn thấy nhiều thứ không giống như ở quê nhà, dầu vậy, bất cứ ta đi đâu, thân và hành uẩn của mọi người đều tương tự nhau. Người Úc cũng hướng đến các đặc tính có thể đưa họ đến các trải nghiệm hữu ích và đầy ý nghĩa trong cuộc đời. Đó là lý do tại sao họ quý trọng những lời Phật dạy. Như thế chúng ta có thể trao đổi ý tưởng, bàn thảo nhiều về Phật Pháp. Tôi đã cố gắng giảng làm sao để họ hiểu rằng Pháp Phật là những giáo lý có thể áp dụng trong cuộc sống của mọi người, và của từng người. Dầu ta xuất thân từ đâu, sống trong hoàn cảnh nào, bao giờ cũng có những lời dạy mà ta có thể áp dụng. Vì tất cả chúng ta đều không khác nhau mấy. Tất cả mọi người đều giống nhau, ngoại trừ các khía cạnh thuộc về tưởng, được tạo nên bởi ngã chấp. Các quan điểm dựa trên ngã chấp, kiêu mạn chỉ là ngoại lệ. Nhưng những người không ngã mạn, kiêu căng chắc chắn là họ có khả năng hiểu sự thật về bản thân. Dầu ta có thể sống trong môi trường, khí hậu khác nhau, chân lý này thực sự giống nhau. Nếu nhân loại cởi bỏ mọi lớp áo, mọi tô điểm khỏi thân, thì tất cả chúng ta đều giống nhau. Do đó không nên phân biệt đối xử với người dựa trên các chuẩn mực đó. Ai cũng biết rằng mọi người đều muốn điều tốt lành, hạnh phúc cho riêng mình. Không ai muốn trải nghiệm đau khổ, bất an”.

Mỗi năm vào sinh nhật của Nhà vua Thái Lan, một số tăng sĩ trên khắp đất nước được ban danh hiệu này nọ dựa trên các đức hạnh cá nhân nổi bật và những công đức đóng góp cho lợi ích của Phật giáo nói riêng và xã hội nói chung. Vào ngày 5, tháng Mười Hai năm 2001/2544, Luang Por Liem được Nhà vua trao danh hiệu tôn giáo cao quý, “Tan Chao Khun Visuddhi - saṁvara Thera”. Tất cả các đệ tử của Luang Por đều hạnh phúc và hãnh diện vì sự công nhận này, nên Luang Por nhân dịp này nhắn nhủ với họ rằng, “Trao tặng danh hiệu là cách để tán thán các đức hạnh trong cách sống của con người trong cuộc đời”.

Còn Luang Por vẫn là Luang Por.

Chú thích:

[1] Hệ phái Dhammayut do Vua Mongkut thành lập khoảng 100 năm trước. Dầu nhiều tăng sĩ Thái Lan (kể cả tăng đoàn tại Wat Pah Pong theo phái Mahanikaya, nhiều tu viện theo phương cách tu trong rừng thuộc hệ phái Dhammayut.