Chương 2
Rốt cuộc thì lời khai của hai nhân chứng cuối cùng cũng có thể đem lại chút hy vọng. Trong cảnh tăm tối, một ánh đèn ngủ yếu ớt nhất cũng có vẻ sáng như một chiếc đèn pha.
- Tôi sẽ đi xuống xã Bougival, nếu ngài Thẩm phán thấy có ích. - Gévrol đề xuất.
- Có lẽ tốt hơn là đợi một chút. - Ông Daburon đáp - Gã đàn ông kia đã bị lộ diện vào sáng Chủ nhật. Chúng ta hãy dò hỏi thông tin về cách cư xử của bà quả phụ Lerouge vào ngày hôm đó.
Ba người đàn bà hàng xóm đã được mời đến. Cả ba người đều đồng loạt nói rằng bà Lerouge đã nằm liệt giường suốt cả ngày Chủ nhật tuần trước. Khi một người hàng xóm hỏi thăm về bệnh tình thì bà trả lời, “Ôi! Đêm qua tôi đã gặp một sự cố khủng khiếp!” Khi ấy người ta đã không để ý đến câu nói này.
- Người đàn ông đeo khuyên tai ngày càng trở nên quan trọng. - Ông Thẩm phán nói sau khi mấy người đàn bà đã lui về - Nhất thiết phải tìm được lão. Việc này là của ông, ông Gévrol.
- Trong tám ngày, tôi sẽ tìm được lão, - ông Đội trưởng an ninh nói - khi tôi đã đích thân lục soát tất cả mọi con tàu trên sông Seine, từ thượng nguồn đến cửa sông. Tôi đã biết lão chủ tàu tên là Gervais; văn phòng hàng hải sẽ cung cấp cho tôi vài thông tin…
Ông bị ngắt lời bởi sự xuất hiện của anh chàng Lecoq vừa hổn hển chạy tới.
- Thầy Tabaret đến rồi. - Anh nói - Tôi đã gặp ông ấy đúng lúc ông ấy vừa đi ra. Một con người tuyệt vời! Ông ấy không chịu đợi tàu, mà đã trả cho một người đánh xe ngựa không biết bao nhiêu tiền, để rồi chúng tôi quay về đây trong vòng năm mươi phút. Nhanh hơn cả tàu hỏa!
Gần như ngay tức khắc, một người đàn ông xuất hiện trên ngưỡng cửa, người mà diện mạo không hề phù hợp với ý nghĩ mà người ta có thể hình dung về một viên cảnh sát nghiệp dư.
Ông ở độ tuổi ước chừng khoảng sáu mươi và trông không có vẻ nhanh nhẹn mấy. Người ông thấp bé, mảnh khảnh và hơi gù. Ông chống một cây gậy có đầu nắm bằng ngà voi chạm trổ.
Khuôn mặt tròn của ông có một vẻ ngạc nhiên thường trực, pha lẫn sự lo lắng giống như vẻ mặt của anh hề tại rạp Palais-Royal. Với bộ mặt được cạo râu sạch sẽ, ông có chiếc cằm rất ngắn, đôi môi dày hiền từ và chiếc mũi hếch lên một cách khó chịu như chiếc kèn saxophone. Hai con mắt nhỏ bé của ông có một màu xám xỉn, viền màu hồng điều, chẳng nói nên điều gì, nhưng chúng khiến người ta mệt mỏi bởi một vẻ lanh lợi không thể chịu nổi. Những sợi tóc mỏng thưa hớt về phía sau phủ trên cái trán như của một con chó săn không che được đôi tai dài vểnh ra ngoài.
Ông ăn mặc rất thoải mái, sạch sẽ, phô bày bộ quần áo trắng đến lóa mắt, hai tay đeo găng lụa và dưới chân đi ghệt. Một sợi dây chuyền vàng rất to, được làm với một gu thẩm mỹ thảm hại, quấn ba vòng quanh cổ rồi buông xuống túi áo gi-lê.
Lão Tabaret, biệt danh Tirauclair, uốn cái lưng già thành một hình vòng cung cúi người chào từ cửa. Bằng một giọng nhũn nhặn nhất, ông hỏi:
- Ngài Thẩm phán điều tra đã hạ cố cho mời tôi phải không ạ?
- Vâng! - Daburon đáp.
Rồi ông tự nhủ thầm, Liệu lão này có phải là một người tinh thông không, dù sao lão cũng chẳng có vẻ gì…
- Vậy thì tôi xin sẵn sàng phụng sự tòa án. - Lão Tabaret nói tiếp.
- Vấn đề là, - ông Thẩm phán tiếp lời - chúng tôi muốn xem liệu ông có may mắn hơn chúng tôi mà nắm được một dấu hiệu nào đó có thể cho phép chúng ta lần ra được dấu vết của kẻ giết người không. Người ta sẽ kể cho ông biết…
- Ồ! Tôi nghe đủ rồi. - Lão Tabaret ngắt lời - Dọc đường cậu Lecoq đã kể đại thể cho tôi đúng những gì tôi cần biết.
- Dù sao… - Ông thanh tra cảnh sát định nói.
- Xin ngài Thẩm phán cứ tin ở tôi, tôi thích làm việc mà không cần thông tin chỉ dẫn để có thể làm chủ được ấn tượng của mình hơn. Khi người ta biết được ý kiến của người khác thì dù không muốn người ta vẫn bị ảnh hưởng, đến nỗi… tôi luôn tiến hành việc điều tra cùng với cậu Lecoq.
Trong khi nói, con mắt xám bé nhỏ của ông sáng lên lóng lánh, vẻ mặt ông phản chiếu một niềm vui sướng bên trong, và những nếp nhăn trên mặt như muốn cười. Ông đứng thẳng người lên, rồi với bước đi nhanh nhẹn, ông lao sang căn phòng thứ hai.
Ông ở lại đó khoảng nửa giờ đồng hồ, sau đó ông chạy ra ngoài. Ông quay trở vào, rồi lại đi ra lần nữa, lại xuất hiện và gần như ngay tức khắc biến mất. Ông Thẩm phán không thể không nhận thấy trong con người lão Tabaret có một sự ân cần và hiếu động của một con chó săn đang đánh hơi… Thậm chí cái mũi hếch như kèn của ông còn động đậy như đang ngửi mùi của kẻ sát nhân đang phảng phất đâu đây. Trong khi đi ra đi vào, ông vừa nói to vừa làm điệu bộ, tự nói với mình những câu cộc lốc, những lời chửi rủa, thốt lên những tiếng kêu đắc thắng hoặc những tiếng reo khích lệ. Ông không để cho Lecoq được yên một giây nào. Ông cần anh làm cái này cái kia, hoặc nói chuyện này chuyện khác. Ông bảo anh đem giấy và một cây bút chì đến, rồi ông lại muốn có một cái mai. Ông kêu phải đem ngay cho ông thạch cao, nước và một chai dầu.
Sau hơn một giờ đồng hồ, bắt đầu thấy sốt ruột, ông Thẩm phán điều tra liền hỏi xem người trợ lý tình nguyện của mình như thế nào rồi.
- Ông ấy ở ngoài đường, - viên cai đội trả lời - đang nằm sấp trên vũng bùn và trộn thạch cao trong một cái đĩa. Ông ấy bảo sắp xong rồi và sẽ quay lại ngay.
Quả thực, lão Tabaret quay trở lại gần như ngay tức khắc, trông mặt ông vui vẻ, đắc thắng và trẻ ra đến hai mươi tuổi. Lecoq đi sau ông, tay cẩn thận bê một chiếc giỏ lớn.
- Tôi đã nắm được toàn bộ sự việc rồi. - Ông nói với ông Thẩm phán - Giờ thì manh mối đã được tìm ra và nó vô cùng đơn giản. Lecoq, cậu đặt cái giỏ lên bàn cho ta.
Gévrol cũng không kém hài lòng khi vừa đi làm một cuộc điều tra về. Ông nói:
- Tôi đã lần ra được dấu vết của người đàn ông đeo khuyên tai. Con tàu đó đang đỗ theo hướng xuôi dòng. Tôi đã có được dấu hiệu nhận dạng chính xác của ông chủ tàu Gervais.
- Nói đi, ông Tabaret. - Ông Thẩm phán điều tra lên tiếng.
Ông lão đổ mọi thứ trong giỏ ra bàn, gồm có một cục đất sét to, mấy tờ giấy lớn và ba, bốn mẩu thạch cao nhỏ vẫn còn ẩm. Đứng trước bàn, ông tỏ ra là một người dị hợm, rất giống những người làm trò ảo thuật giữa nơi công cộng để nẫng đồ đạc và tiền của người xem. Quần áo của ông nhàu nát thấy rõ. Người ông lấm bùn be bét đến tận sống lưng.
- Tôi xin bắt đầu. - Cuối cùng ông cất tiếng, bằng giọng khiêm tốn giả tạo - Vụ trộm không có liên quan gì tới án mạng mà chúng ta đang điều tra.
- Không, trái lại! - Gévrol lẩm nhẩm.
- Tôi sẽ chứng minh điều đó, - lão Tabaret nói tiếp - bằng chứng có rõ ràng. Tôi cũng sẽ nói lên ý kiến khiêm nhường của tôi về động cơ giết người, nhưng cái đó để sau. Vậy là, tên sát nhân đã tới đây trước chín giờ rưỡi, tức là trước khi trời mưa. Cũng giống như ông Gévrol, tôi không tìm thấy dấu bùn, mà ở dưới gầm bàn, chỗ kẻ sát nhân đặt chân, tôi đã phát hiện ra những vết bụi. Vậy là chúng ta đã xác định được về mặt thời gian. Bà quả phụ Lerouge đã không hề có hẹn trước với kẻ đến nhà mình. Bà đang chuẩn bị thay quần áo đi ngủ và đang lên dây cót chiếc đồng hồ quả lắc thì người kia gõ cửa.
- Thật là chi tiết! - Viên thanh tra cảnh sát nhận xét.
- Chúng ta dễ dàng nhận ra những điều này. - Ông thám tử tình nguyện nói tiếp - Các vị hãy kiểm tra chiếc đồng hồ quả lắc treo phía trên tủ bàn giấy. Đó là loại đồng hồ chạy được mười bốn, mười lăm tiếng, không hơn, tôi dám chắc điều này. Song, chắc chắn rằng bà quả phụ thường lên dây cót đồng hồ vào buổi tối trước khi đi ngủ. Vậy tại sao lại có chuyện chiếc đồng hồ này ngừng chạy vào lúc năm giờ? Đó là vì bà ấy đã đụng vào nó. Là vì bà ấy đang bắt đầu kéo sợi xích để lên dây cót thì có tiếng gõ cửa. Để chứng minh cho phán đoán của mình, tôi xin chỉ cho các vị xem chiếc ghế đặt bên dưới chiếc đồng hồ quả lắc này, trên lớp vải bọc ghế còn lưu lại rất rõ một dấu chân. Sau đó, các vị hãy nhìn váy áo của nạn nhân. Vạt trên của chiếc váy dài đã được cởi. Để chốc nữa có thể cởi váy được nhanh, bà đã không cài nó lại, mà chỉ quấn vội chiếc khăn quàng cũ kỹ này lên vai để ra mở cửa.
- Chết tiệt! - Viên cai đội thốt lên, rõ ràng là ông đang bị xúc động.
- Bà quả phụ, - ông lão nói tiếp - quen biết người gõ cửa kia. Hành động vội vã ra mở cửa của bà cho phép ta nghĩ như vậy, chuyện tiếp theo sẽ chứng minh điều đó. Vậy là kẻ giết người được phép vào nhà không có trở ngại gì. Đó là một người đàn ông còn trẻ, có tầm vóc cao hơn người bình thường một chút, ăn mặc lịch sự. Tối hôm đó gã đội một chiếc mũ cao, mang theo một chiếc ô và hút một điếu xì gà bằng một chiếc tẩu…
- Chà! - Gévrol kêu lên - Vậy là quá nhiều đấy!
- Quá nhiều, có thể. - Lão Tabaret bác lại - Dù sao thì đó cũng là sự thật. Nếu ông không phải là người tỉ mỉ thì tôi cũng chẳng thể làm được gì, nhưng tôi lại là người tỉ mỉ. Tôi tìm và tôi đã thấy. Quá nhiều, ông đã nói vậy. Thế thì nghe đây! Ông hãy hạ cố liếc qua mấy mẩu thạch cao ẩm ướt này đi. Chúng in hình dấu gót giày của kẻ sát nhân mà tôi đã lấy được mẫu vô cùng rõ ràng ở cạnh cái rãnh, nơi mà chúng ta đã tìm thấy chiếc chìa khóa. Còn trên những tờ giấy này, tôi đã in lại toàn bộ dấu chân mà tôi đã lấy được, bởi vì nó được tìm thấy trên cát. Ông nhìn đây: gót giày cao, có độ cong rõ rệt, đế giày nhỏ và hẹp; rõ ràng đó là một chiếc giày duyên dáng dành cho bàn chân được chăm chút. Ông hãy tìm dấu chân này dọc theo con đường, ông sẽ gặp nó hai lần nữa. Rồi ông sẽ thấy nó năm lần trong vườn, nơi mà chưa có ai bước vào. Xin mở ngoặc, điều này chứng tỏ kẻ sát nhân không gõ cửa chính, mà là gõ cửa sổ, nơi có một tia sáng lọt ra ngoài. Ở cổng vườn, gã đã nhảy qua để tránh một ô đất vuông trồng hoa, mũi giày ấn sâu cho thấy điều đó. Gã nhảy qua gần hai mét một cách dễ dàng; vậy là gã rất lanh lẹ, nghĩa là gã còn trẻ.
Lão Tabaret nói bằng giọng nhỏ nhẹ rõ ràng và quả quyết, ông đưa mắt nhìn từ người này sang người kia để thăm dò ấn tượng của họ.
- Ông ngạc nhiên về cái mũ, thưa ông Gévrol? - Lão Tabaret nói tiếp - Ông hãy quan sát cái vòng tròn hoàn hảo in dấu trên cái mặt đá cẩm thạch của tủ bàn giấy đi, cái mặt bàn hơi phủ bụi đó. Có phải ông ngạc nhiên vì thấy tôi đã xác định được vóc người của gã sát nhân không? Ông hãy quan sát nóc của những chiếc tủ đứng, và ông sẽ nhận ra rằng kẻ sát nhân đã sờ tay lên đó. Như vậy hắn ta phải cao hơn tôi. Và ông đừng nói là hắn đã đứng lên ghế, vì nếu thế thì hắn đã nhìn thấy mọi thứ trên nóc tủ mà không cần phải sờ tay. Ông cũng sửng sốt về chuyện chiếc ô phải không? Cục đất này đã giữ lại một dấu vết tuyệt vời không chỉ của đầu nhọn của chiếc ô, mà còn in dấu cả cái vành khuyên bằng gỗ để giữ cho tấm vải của chiếc ô gắn vào đầu nhọn. Ông cũng ngạc nhiên về điếu xì gà phải không? Đây là đầu mẩu điếu xì gà mà tôi đã thu được trong đám tro. Đầu điếu thuốc có bị cắn giập không, có bị ướt nước bọt không? Không hề. Như vậy là hắn hút bằng một chiếc tẩu.
Anh chàng Lecoq cố giấu vẻ thán phục hào hứng; anh thầm vỗ tay tán thưởng. Viên thanh tra cảnh sát tỏ ra sửng sốt, ông Thẩm phán có vẻ thích thú. Trái lại, bộ mặt ông Gévrol dài thượt ra rõ rệt. Còn viên cai đội thì ngây người ra.
- Bây giờ, - lão Tabaret tiếp tục - xin các vị hãy nghe cho kỹ. Vậy là người đàn ông trẻ tuổi đã bước vào nhà. Hắn giải thích sự có mặt của hắn vào giờ này như thế nào? Điều đó tôi không biết. Điều tôi biết chắc là hắn đã nói với bà quả phụ Lerouge rằng mình chưa ăn tối. Người đàn bà tử tế vui lòng và ngay lập tức chuẩn bị bữa ăn. Bữa ăn này không hề dành cho bà. Trong chiếc tủ đứng kia, tôi đã tìm thấy phần còn lại của bữa tối dành cho bà. Bà đã ăn cá, giải phẫu tử thi sẽ chứng minh điều đó. Phần còn lại, các vị thấy đấy, chỉ có một chiếc cốc và một con dao con trên bàn. Nhưng người đàn ông trẻ tuổi này là người thế nào? Chắc chắn bà quả phụ coi hắn có địa vị hơn mình. Trong tủ hốc tường có một chiếc khăn trải bàn vẫn còn sạch. Bà có dùng đến nó không? Không. Bà đã lấy chiếc khăn trải bàn trắng đẹp nhất của mình để phục vụ người khách. Bà đã dành cho hắn chiếc cốc tuyệt đẹp này, chắc chắn đó là một món quà của bà. Cuối cùng, rõ ràng con dao có cán bằng ngà voi này không phải là thứ bà dùng cho một dịp thông thường.
- Tất cả những điều này đều chính xác, - ông Thẩm phán lẩm nhẩm - rất chính xác.
- Vậy là gã này ngồi vào bàn. Hắn bắt đầu uống rượu vang trong khi bà quả phụ đặt chảo rán lên bếp. Rồi, với thái độ vô tâm, hắn đòi rượu trắng và đã uống một lượng rượu bằng năm chén nhỏ. Sau khoảng mười phút giằng xé nội tâm, lúc chủ nhà rán giăm bông và trứng, gã đàn ông trẻ đứng lên, bước đến chỗ bà quả phụ khi ấy đang ngồi xổm làm bếp, rồi đâm hai nhát dao vào lưng bà. Bà chưa chết ngay. Bà còn ngồi dậy đưa tay bám lấy kẻ sát nhân. Hắn, khi ấy đã lùi lại, thô bạo nhấc bà lên rồi ném bà vào vị trí mà các vị đang thấy. Ta có thể thấy cuộc vật lộn ngắn ngủi này qua tư thế của xác chết. Đang trong tư thế ngồi xổm và bị đâm vào lưng thì bà sẽ phải ngã ngửa. Tên giết người đã sử dụng một thanh kiếm thể thao được tháo đầu ruồi và mài nhọn. Việc hắn lau mũi kiếm bằng váy lót của nạn nhân đã cho thấy điều này. Mặt khác, tên giết người đã không để lại dấu vết trong cuộc vật lộn. Nạn nhân đã bám chắc vào tay hắn, nhưng vì hắn vẫn giữ chặt đôi găng tay màu xám…
- Chuyện cứ như tiểu thuyết ấy! - Gévrol thốt lên.
- Ông đã xem móng tay của bà quả phụ Lerouge chưa, thưa ông Đội trưởng an ninh? Chưa à? Thế thì ông hãy xem đi, rồi ông hãy nói xem tôi có nhầm không. Vậy là người đàn bà đã chết. Tên giết người muốn gì? Tiền hay là đồ vật quý giá? Không, không, trăm lần không. Cái hắn muốn, cái hắn tìm, cái hắn cần, là những giấy tờ mà hắn biết là nạn nhân đang sở hữu. Để tìm những thứ giấy tờ đó, hắn đã lục tung tất cả, lật đổ tủ đứng, xáo tung chăn mền, quần áo, phá tủ bàn giấy vì hắn không có chìa khóa, tháo tung nệm giường. Cuối cùng hắn đã tìm thấy. Và các vị có biết hắn đã làm gì với tập giấy tờ đó không? Hắn đốt, không phải đốt trong bếp lò mà là trong chiếc lò sưởi nhỏ ở căn phòng đầu tiên. Mục đích của hắn đã hoàn thành. Hắn sẽ làm gì? Hắn sẽ bỏ chạy, đem theo tất cả những gì hắn cho là quý giá để đánh lạc hướng điều tra và khiến người ta nghĩ đó là một vụ trộm. Vơ vét xong, hắn gói ghém tất cả vào một chiếc khăn ăn mà chắc hắn đã dùng để ăn tối trước đó, hắn thổi tắt nến rồi bỏ chạy, khóa cửa từ bên ngoài rồi vứt chìa khóa xuống một cái rãnh… Thế đó.
- Ông Tabaret, - ông Thẩm phán lên tiếng - cuộc điều tra của ông thật đáng phục, tôi tin là ông đúng.
- Thế nào? - Lecoq reo lên - Thật là thiên tài, thầy Tirauclair của tôi!
- Khiếp chưa! - Gévrol thốt lên, giọng mỉa mai - Tôi chỉ nghĩ rằng gã đàn ông trẻ tuổi kia hẳn sẽ hơi lúng túng, bởi gói đồ bọc trong chiếc khăn ăn trắng và chắc sẽ bị phát hiện từ rất xa.
- Cầm gói đồ như thế thì gã sẽ không đi xa được một trăm dặm. - Lão Tabaret đáp - Ông sẽ hiểu rằng muốn tới được nhà ga xe lửa thì hắn không dại gì mà đi xe khách. Hắn sẽ đi bộ đến đó, qua con đường ngắn nhất men theo bờ sông. Hơn nữa, khi tới sông Seine, trừ phi hắn không khôn ngoan như tôi tưởng, thì việc đầu tiên hắn nghĩ tới sẽ là ném cái gói đồ lộ liễu đó xuống sông.
- Ông nghĩ thế ư, thầy Tirauclair? - Gévrol hỏi.
- Tôi dám đánh cược điều đó, và bằng chứng là tôi đã cử ba người, dưới sự giám sát của một anh hiến binh, đi rà soát sông Seine ở chỗ gần đây nhất. Tôi đã hứa nếu họ tìm thấy gói đồ thì tôi sẽ thưởng cho họ một món tiền.
- Từ tiền túi của ông ư, ông già đam mê?
- Vâng, thưa ông Gévrol, từ tiền túi của tôi.
- Miễn là họ tìm thấy gói đồ! - Ông Thẩm phán lẩm nhẩm.
Ông vừa nói đến đó thì một người hiến binh bước vào. Anh ta chìa chiếc khăn ăn ẩm ướt gói các thứ đồ vàng bạc cùng đồ trang sức ra và nói:
- Những thứ mấy người kia đã tìm thấy đây. Họ đang đòi 100 franc tiền thưởng đã được hứa.
Lão Tabaret rút trong ví ra một tờ tiền và trao cho anh hiến binh.
- Bây giờ, - ông vừa hỏi vừa nhìn Gévrol một cách đắc thắng - ngài Thẩm phán điều tra nghĩ sao?
- Tôi tin rằng, nhờ sự sáng suốt tài giỏi của ông, chúng ta sẽ đạt được kết quả và…
Ông chưa nói hết câu thì ông bác sĩ được mời đến để giải phẫu tử thi đã xuất hiện. Sau khi kết thúc công việc đầy chán ghét của mình, ông bác sĩ chỉ có thể xác nhận thêm những điều khẳng định và phỏng đoán của lão Tabaret. Ông giải thích tư thế của xác chết cũng giống như ông già kia. Ông cũng cho rằng chắc hẳn đã diễn ra một cuộc vật lộn. Ông còn phát hiện ra một vết tròn màu xanh nhạt khó nhận ra quanh cổ nạn nhân, có vẻ là dấu tay siết cổ của kẻ giết người. Cuối cùng, ông tuyên bố rằng bà quả phụ Lerouge đã ăn tối khoảng ba giờ đồng hồ trước khi bị đâm chết.
Chỉ còn việc tập hợp các tang chứng đã thu thập được để sau này kết tội thủ phạm.
Lão Tabaret soi xét kỹ các móng tay của người chết, rồi hết sức thận trọng, ông đã tách ra được mấy mẩu da bị dính vào đó. Mẩu vụn lớn nhất của chiếc găng tay có kích thước chưa đầy hai mi-li-mét; tuy nhiên có thể nhận ra rất rõ màu sắc của nó. Ông cũng xếp sang một bên mảnh váy lót của nạn nhân mà kẻ giết người đã dùng để lau mũi kiếm. Cùng với gói đồ được tìm thấy ngoài sông Seine và các dấu vết linh tinh khác do ông già thu được, đó là tất cả những gì kẻ sát nhân đã để lại.
Những cái đó chưa là gì, nhưng dưới con mắt của ông Daburon, cái “chưa là gì” này có một ý nghĩa rất to lớn, và ông hoàn toàn có hy vọng. Trở ngại lớn nhất trong việc điều tra các vụ án mạng bí ẩn là nhầm lẫn về động cơ gây án. Nếu cuộc điều tra đi sai hướng thì càng điều tra nó sẽ càng lệch xa sự thật. Nhờ có lão Tabaret, ông Thẩm phán gần như tin chắc rằng mình không hề nhầm lẫn.
Đêm đã xuống; từ lúc này vị quan chức của luật pháp thấy mình không còn gì để làm ở làng La Jonchère nữa. Gévrol, vì đang khát khao muốn bắt được gã đàn ông đeo khuyên tai, nên tuyên bố sẽ ở lại Bougival. Ông hứa tối nay sẽ cố hết sức đảo qua các quán rượu, và nếu có thể sẽ tìm ra thêm các nhân chứng mới.
Đến lúc ra về, khi viên thanh tra và mọi người chia tay, ông Daburon liền đề nghị lão Tabaret đi theo mình.
- Tôi xin nhận niềm vinh hạnh này. - Ông lão đáp.
Cả hai cùng đi ra, và tất nhiên là vụ án mạng vừa được phát hiện và khiến cả hai cùng bận tâm đó đã trở thành chủ đề câu chuyện của họ.
- Liệu chúng ta có biết được tiểu sử của bà cô này không? - Lão Tabaret nhắc lại - Lúc này đó là tất cả những gì ta cần tìm hiểu.
- Chúng ta sẽ biết thôi, - ông Thẩm phán đáp - nếu như bà bán hàng khô đã khai sự thật. Nếu ông chồng của bà quả phụ Lerouge đã đi biển, nếu cậu con trai Jacques của bà ấy đã lên tàu, thì ông Bộ trưởng Bộ Hàng hải sẽ nhanh chóng cung cấp cho chúng ta những thông tin mà chúng ta còn thiếu. Ngay tối nay, tôi sẽ viết thư cho ông ấy.
Họ đến ga Rueil và lên tàu. Họ lại gặp may. Chỉ có mình họ trong một khoang hạng nhất.
Nhưng lão Tabaret không nói chuyện nữa. Ông đang suy nghĩ, ông tìm kiếm, ông ráp nối các sự kiện, và trên mặt ông, ta có thể theo dõi được dòng suy tư của ông. Ông Thẩm phán tò mò quan sát; ông đang bị kích thích trước tính cách của ông lão lập dị này, một ông lão mà niềm đam mê độc nhất vô nhị đã khiến ông làm việc cho cảnh sát.
- Ông Tabaret này, - ông bất ngờ hỏi - hãy cho tôi biết ông choi trò cảnh sát này đã lâu chưa?
- Chín năm rồi, thưa ngài Thẩm phán, chín năm đã qua, và xin phép ngài cho tôi được nói thật, rằng tôi khá ngạc nhiên khi ngài chưa hề nghe nói đến tôi.
- Tôi đã biết đến tiếng tăm của ông, - Daburon đáp - và chính bởi vậy nên tôi mới nghĩ ngay đến việc cho mời ông. Tôi chỉ thắc mắc là điều gì đã thúc đẩy ông đi theo con đường này?
- Sự buồn rầu, nỗi cô đơn, nỗi phiền muộn. Ôi! không phải lúc nào tôi cũng hạnh phúc, mà thôi…!
- Người ta bảo tôi rằng ông giàu có.
Ông lão cất một tiếng thở dài, thể hiện nỗi thất vọng cùng cực.
- Quả thực là tôi sống thoải mái, - ông đáp - nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Từ năm bốn mươi lăm tuổi trở về trước, tôi đã phải trải qua những sự hy sinh, thiếu thốn phi lý và vô ích. Tôi có một người cha đã làm hỏng tuổi xuân của tôi, làm hỏng đời tôi, biến tôi thành một kẻ đáng thương nhất.
Có những nghề nghiệp mà đặc tính của chúng tỏ ra bền vững đến mức người ta không bao giờ gột bỏ được nó hoàn toàn. Ông Daburon, bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu, cũng vẫn là một ông Thẩm phán điều tra.
- Sao cơ, thưa ông Tabaret? - Ông hỏi - Cha ông là nguyên nhân cho mọi nỗi bất hạnh của ông ư?
- Than ôi, vâng, thưa ngài. Lâu dần tôi cũng đã tha thứ, chứ trước kia thì tôi đã nguyền rủa ông ấy. Ngày xưa, cứ nghĩ đến là tôi trút cho ông ấy mọi lời nguyền rủa xuất phát từ nỗi căm hờn dữ dội nhất, cho đến khi tôi biết… Tôi sẵn lòng thổ lộ với ngài điều này. Năm hai mươi lăm tuổi, khi tôi đang kiếm được 2.000 franc mỗi năm tại hiệu cầm đồ, thì một buổi sáng cha tôi vào phòng tôi và đột ngột thông báo rằng ông ấy đã sạt nghiệp, rằng ông ấy chẳng còn gì để ăn. Ông ấy tỏ ra tuyệt vọng và nói đến chuyện kết liễu cuộc đời. Tôi thì tôi yêu quý cha mình. Dĩ nhiên tôi đã trấn an ông ấy, tôi tô vẽ tình cảnh của tôi cho ông ấy nghe, tôi giải thích dông dài rằng chừng nào tôi còn kiếm được đủ sống thì ông ấy sẽ không phải thiếu thốn gì cả, và để bắt đầu, tôi đã tuyên bố rằng chúng tôi sẽ ở chung với nhau. Nói là làm, và trong suốt hai mươi năm tôi đã cưu mang ông ấy, ông già đó…
- Sao! Ông đang hối hận về cách cư xử đáng kính của mình ư, thưa ông Tabaret?
- Tôi chẳng thèm hối hận! Ông ấy xứng đáng bị đầu độc bằng ổ bánh mì tôi đưa cho!
Ông Daburon để lộ một cử chỉ bất ngờ không thoát được ánh mắt của ông lão.
- Hãy khoan kết tội tôi. - Ông nói tiếp - Vậy là tôi đây, ở tuổi hai mươi lăm, tôi đã phải chịu cảnh thiếu thốn khó khăn nhất vì cha mình. Tôi không còn bạn bè, không còn những mối tình chốc lát, không còn gì cả. Buổi tối, để kiếm thêm thu nhập, tôi đã phải sao chép sổ sách thuê cho một ông thư lại. Tôi đã phải bỏ cả thuốc lá. Tôi làm bao nhiêu cũng không đủ, ông già cứ than khóc mãi không thôi, ông ấy đang tiếc cái thời sung túc đã qua, ông ấy cần tiền túi cho việc này việc nọ; tôi nỗ lực hết sức cũng không đủ khiến ông ấy vừa lòng. Có trời mới biết tôi đã đau khổ thế nào! Tôi sinh ra không phải để sống đơn độc rồi già đi như một con chó. Tôi ước muốn một cuộc sống gia đình. Ước mơ của tôi là lấy vợ, được yêu tha thiết một người đàn bà tử tế, được nàng yêu lại một chút và được nhìn thấy con cái hay ăn chóng lớn đầy đàn vây quanh. Nhưng mà thôi… khi những ý nghĩ này giày xéo trái tim làm tôi nghẹn ngào rơi nước mắt, thì tôi lại nổi loạn chống lại chính mình. Tôi tự nhủ, Này, anh bạn, khi mà anh chỉ kiếm được 3.000 franc mỗi năm, và khi anh có một ông bố già yêu dấu, thì anh hãy dập tắt tình cảm của mình mà sống độc thân. Thế nhưng tôi đã gặp một người con gái! Thật đấy, chuyện đó cách đây ba mươi năm rồi, vậy mà, nhìn tôi đi, hẳn mặt tôi giờ phải đỏ như một quả cà chua… Cô ấy tên là Hortense. Ai mà biết được cô ấy bây giờ ra sao? Cô ấy đẹp và nghèo. Cuối cùng, đến khi cha tôi mất thì tôi đã trở thành một ông già! Thật là một ông bố khốn nạn, một…
- Ông Tabaret! - Ông Thẩm phán ngắt lời - Ôi, ông Tabaret!
- Nhưng như tôi vừa nói với ngài, tôi đã tha thứ cho ông ấy, thưa ngài Thẩm phán! Dù sao thì, ngài cũng sẽ hiểu cho nỗi tức giận của tôi. Vào cái ngày ông già mất, tôi tìm thấy trong tủ bàn giấy của ông ấy một tờ ngân phiếu 20.000 franc lợi tức…!
- Sao cơ? Ông ấy giàu có à?
- Vâng, rất giàu, và đó không phải là tất cả. Ông ấy sở hữu một mảnh đất cho lĩnh canh 6.000 franc mỗi năm. Ngoài ra ông ấy còn có một ngôi nhà, chính là ngôi nhà mà bây giờ tôi đang sống. Khi đó chúng tôi ở cùng nhau, và tôi, một kẻ ngốc nghếch, ngớ ngẩn, ngu xuẩn như một con vật, cứ ba tháng tôi lại trả tiền nhà ở chỗ ông gác cổng.
- Thật quá đáng! - Ông Daburon không kìm được phải thốt lên.
- Có đúng thế không, thưa ngài? Đó là ông ấy ăn cắp tiền trong túi của tôi. Đáng cười hơn nữa là ông ấy để lại một bản di chúc, trong đó nhân danh Đức Thánh Cha và Đức Thánh Con tuyên bố rằng ông ấy hành động như vậy chỉ là vì quyền lợi của tôi thôi. Ông ấy viết là ông ấy muốn tôi quen với sự ngăn nắp trật tự, với cuộc sống tằn tiện và ngăn không cho tôi làm những chuyện điên rồ. Và lúc ấy tôi đã bốn mươi lăm tuổi, thế mà từ hai mươi năm qua tôi cứ phải trách mình về chuyện đã tiêu vô ích một đồng xu! Ông ấy đã lợi dụng tình thương của tôi, ông ấy đã… Ôi! Lòng hiếu thảo thật đáng ghét, thật đấy!
Cơn giận rất chính đáng của lão Tabaret thật khôi hài, đến nỗi phải cố gắng lắm ông Thẩm phán mới nhịn được cười, bất chấp cái bản chất thực sự đau lòng của câu chuyện.
- Ít nhất, - ông hỏi - món tài sản đó chắc đã khiến ông vui sướng chứ?
- Không hề, thưa ngài, nó đã đến quá muộn. Có được miếng thịt thì chẳng còn răng, thật vô ích! Tuổi lấy vợ đã qua. Tuy nhiên, tôi đã xin nghỉ việc để nhường chỗ cho người nghèo khổ hơn mình. Sau một tháng, tôi buồn phiền muốn chết đi được; chính lúc đó, để thay thế những tình cảm trìu mến mà tôi đang thiếu, tôi đã quyết định dành cho mình một nỗi đam mê, một tật xấu, một thói gàn dở. Tôi bắt đầu sưu tập sách. Thưa ngài, có thể ngài nghĩ rằng để làm được việc đó thì cần phải có một số kiến thức, một số nghiên cứu…
- Tôi biết, thưa ông Tabaret thân mến, rằng nhất là cần phải có tiền. Tôi biết có một người mê sách nổi tiếng chắc là biết đọc, nhưng chắc chắn ông ta không có khả năng ký tên mình.
- Rất có thể như thế. Tôi cũng thế, tôi biết đọc, và tôi đọc tất cả các cuốn sách mình đã mua. Tôi có thể nói với ngài rằng tôi chỉ sưu tập những gì liên quan gần hoặc xa với trinh thám. Hồi ký, báo cáo, bài chỉ trích, diễn văn, thư từ, tiểu thuyết… tất cả đều có ích với tôi, tôi nghiến ngấu hết; đến nỗi dần dần tôi cảm thấy bị lôi cuốn vào cái sức mạnh bí ẩn mà từ sâu trong phố Jérusalem[*] nó giám sát và bảo vệ xã hội, nó thâm nhập khắp nơi, vén những bức màn dày nhất, xem xét mặt trái của mọi tấm vải, đoán được những gì người ta không tiết lộ, biết chính xác giá trị của con người, giá trị của lương tâm, và nhốt chặt vào các hộp hồ sơ màu xanh những bí mật đáng sợ nhất cũng như đáng xấu hổ nhất.
[*]Phố Jérusalem là nơi đặt trụ sở của Sở Cảnh sát Paris (ND).
Khi đọc những dòng hồi ký của các nhà trinh thám nổi tiếng - hấp dẫn ngang với những truyện hư cấu hay nhất - tôi thấy phấn khởi trước những con người có khả năng nhạy bén tinh tế hơn cả tơ lụa, mềm dẻo như lưỡi thép, sắc sảo và lắm mưu mẹo, đầy khả năng bất ngờ, nắm chắc luật pháp trong tay, biết lách qua bụi rậm pháp lý giống như những nhân vật hoang dã của Cooper[*] đuổi theo kẻ thù giữa núi rừng châu Mỹ. Tôi khát khao muốn trở thành một thành viên của bộ máy tuyệt diệu đó, tôi cũng muốn trở thành một người bảo trợ nhỏ bé để góp phần trừng phạt tội ác và bảo vệ người vô tội. Tôi đã thử, và kết quả là tôi không đến nỗi quá kém cỏi trong nghề này.
[*]James Fenimore Cooper (1789-1851): Nhà văn người Mỹ, tác giả của tiểu thuyết Người cuối cùng của bộ tộc Mohican (ND).
- Và ông thích nó chứ?
- Thưa ngài, nó đã đem lại cho tôi những niềm vui sướng hoan hỉ nhất. Vĩnh biệt những nỗi muộn phiền, từ khi tôi từ bỏ việc truy lùng những cuốn sách cũ để quay sang truy đuổi những kẻ đồng loại…! Ôi, thật là tuyệt vời! Tôi nhún vai khinh bỉ khi thấy một kẻ khờ khạo trả 25 franc để được quyền bắn một con thỏ rừng. Thật là một chiến lợi phẩm đáng xấu hổ! Chuyện săn người mới đáng nói chứ! Ít nhất, việc đó mới thử thách mọi năng lực, và thắng lợi không phải là không vẻ vang. Ở đây, con mồi ngang bằng với người đi săn; hắn cũng có trí thông minh như người đi săn, có sức mạnh và mưu mẹo; vũ khí của cả hai thì gần như nhau. Ôi! Nếu người ta biết được cảm xúc của những cuộc chơi trốn tìm giữa kẻ tội phạm và nhân viên an ninh như thế nào thì tất cả sẽ đến phố Jérusalem để xin việc. Đáng tiếc là nghệ thuật điều tra đang dần mất đi và bị giảm giá trị. Những vụ án đẹp đang trở nên khan hiếm. Dòng giống gian ác oai hùng không biết sợ trước đây đã nhường chỗ cho lũ bất lương tầm thường. Mấy kẻ vô lại mà thỉnh thoảng vẫn khiến người ta nói đến cũng chỉ là những kẻ ngốc nghếch và hèn nhát. Chúng ký tên mình vào tội ác xong lại còn để cho người ta lần được cả danh thiếp. Bắt bọn này chẳng có vinh hạnh gì. Khi xác định được vụ án rồi thì chỉ việc đưa tay ra mà bắt chúng thôi…
- Dù sao tôi cũng cảm thấy, - Daburon mỉm cười nói - tên giết người của chúng ta đây cũng không đến nỗi quá vụng về.
- Tên này là một ngoại lệ, thưa ngài, thế nên tôi mới có hứng thú điều tra hắn. Tôi sẽ làm tất cả để tìm ra hắn; nếu phải chịu liên lụy đến bản thân thì tôi cũng chấp nhận. Bởi vì, tôi phải thú thật với ngài Thẩm phán, - ông nói thêm với vẻ lúng túng - tôi không khoe khoang chiến tích của mình với bạn bè. Thậm chí tôi còn cố giấu kỹ chúng. Nếu biết Tirauclair và Tabaret chỉ là một thì biết đâu họ lại chẳng muốn chơi với tôi nữa?
Câu chuyện lại dần quay trở về vụ án mạng. Thế là hai người thỏa thuận rằng ngay hôm sau lão Tabaret sẽ về ở tại Bougival. Ông tự cho là mình có thể thẩm vấn tất cả mọi người ở xã này trong vòng tám ngày, về phần mình, ông Thẩm phán sẽ giữ liên lạc để biết được những thông tin chi tiết mà ông có thể thu thập được, và sẽ mời ông về ngay khi nắm được hồ sơ chi tiết về bà Lerouge.
- Đối với ông, thưa ông Tabaret, - ông Thẩm phán kết thúc câu chuyện - tôi sẽ luôn sẵn sàng tiếp ông. Nếu có điều gì cần nói với tôi, ông đừng ngại đến gặp tôi bất kể đêm hay ngày. Tôi ít khi ra ngoài. Chắc chắn ông sẽ tìm thấy tôi, hoặc là ở nhà tôi trên phố Jacob, hoặc là tại văn phòng của tôi ở tòa án. Ngay khi ông có mặt ở cổng thì sẽ có lệnh dẫn ông vào.
Lúc này, tàu đã vào đến ga, và họ bước xuống. Ông Daburon đã đặt trước một chiếc xe và mời lão Tabaret lên xe cùng mình. Nhưng ông lão từ chối, nói:
- Không cần đâu; như tôi đã có vinh dự được thông báo với ngài rồi, tôi ở ngay phố Saint-Lazare cách đây vài bước thôi.
- Vậy thì hẹn ông ngày mai! - Daburon nói.
- Hẹn ngày mai! - Lão Tabaret nhắc lại và nói thêm - Chúng ta sẽ gặp nhau.