Chương 7
Sau khi ra khỏi dinh thự nhà Arlange, ông Daburon đã không về nhà. Suốt đêm ông đi lang thang vô định, tìm một nơi thoáng mát cho cái đầu đang cháy bỏng, muốn một chút yên bình cho sự mệt mỏi quá sức.
Mình điên thật! - Ông tự nhủ - Nghìn lần điên vì đã hy vọng, đã nghĩ rằng một ngày nào đó nàng sẽ yêu mình. Thật vớ vẩn! Làm sao mình dám mơ được sở hữu cái vẻ duyên dáng, quý phái và đẹp đẽ như thế! Tối nay nàng mới đẹp làm sao, một khuôn mặt ngập trong nước mắt! Ánh mắt nàng thăng hoa biết bao khi nàng nói về anh ta! Đó là vì nàng yêu anh ta! Còn mình, nàng chỉ quý mình như quý một người cha; nàng đã nói với mình rồi, như một người cha! Liệu có thể khác được không? Như thế có công bằng không? Liệu nàng có nhìn thấy một người tình trong gã Thẩm phán rầu rĩ và nghiêm khắc này, một kẻ lúc nào cũng buồn rầu như bộ quần áo màu đen của gã? Liệu mình có đáng xấu hổ khi dám nghĩ đến chuyện kết duyên sự trong trắng tinh khôi với cái cái nghề đáng ghét của mình không? Đối với nàng, tương lai vẫn còn là những ảo mộng tươi tắn, còn từ lâu, kinh nghiệm đã làm tiêu tan mọi ảo mộng của mình. Nàng trẻ như sự ngây thơ trong trắng, còn mình thì già như tật xấu thói hư.
Vị quan tòa bất hạnh thực sự đang tự thấy ghê tởm bản thân. Ông hiểu Claire và thông cảm với nàng. Ông tự oán giận mình vì đã tỏ ra quá đau khổ trước mặt nàng. Ông tự trách mình đã làm xáo trộn cuộc sống của nàng. Ông không tha thứ cho mình vì đã thổ lộ tình yêu…
Đáng ra ông phải lường trước được những gì sẽ xảy ra, rằng nàng sẽ khước từ ông, và vì thế ông sẽ tự tước bỏ niềm hạnh phúc tuyệt vời là được gặp nàng, được nghe nàng nói, được thầm yêu nàng.
Người đàn ông bất hạnh tiếp tục dòng suy nghĩ điên dại khi đi dọc theo kè sông hoang vắng. Ông cứ bước đi, đầu trần, hai mắt nhìn nhớn nhác. Để hít thở được dễ dàng, ông giật bỏ chiếc cà vạt rồi quăng cho gió cuốn đi.
Một cơn giận dữ, cơn giận ghê gớm, đã thế chỗ thái độ cam chịu ban đầu. Trong thâm tâm ông, một sự căm ghét đang dâng lên mạnh mẽ hơn cả tình yêu dành cho Claire.
Kẻ kia, kẻ được lựa chọn đó, gã Tử tước quý phái không biết vượt qua rào cản, ước gì ông có thể bắt anh ta phải quỳ gối trước mặt mình!
Lúc này, người đàn ông cao thượng và kiêu hãnh, vị quan tòa quá nghiêm khắc với chính mình, bắt đầu bày tỏ những ham muốn không thể cưỡng lại của việc trả thù. Giờ ông đã hiểu rõ chuyện gì sẽ xảy ra khi lòng hận thù được trang bị một con dao găm, khi nó hèn nhát phục kích ở những chỗ xó xỉnh tối tăm, rồi nó đâm chém, bất kể đằng trước hay đằng sau, nó cứ giết, nó muốn máu phải đổ để thỏa mãn cơn hận thù.
Lúc này, chính lúc này đây, ông đang được giao nhiệm vụ thụ lý vụ án về một cô gái điếm tội nghiệp, bị tố cáo là đã dùng dao đâm một người bạn gái hẩm hiu của mình. Cô ta đã ghen với người đàn bà này, người đã tìm cách nẫng tay trên người tình của cô ta, một anh lính cục súc thường xuyên say bét nhè.
Ông Daburon cảm thấy thương con người khốn khổ mà ông vừa bắt đầu hỏi cung ngày hôm qua. Cô ta rất xấu và thật sự đáng ghê tởm, nhưng ánh mắt cô ta, khi nói về anh lính của mình, đang hiện ra trong trí nhớ của ông Thẩm phán.
Cô ta yêu gã thật sự. - Ông nghĩ - Nếu như tất cả bồi thẩm viên đều từng phải chịu đau khổ như mình đang chịu thì cô ta sẽ được trắng án. Nhưng có bao nhiêu người từng một lần đam mê trong đời? Có lẽ không đến một trên hai mươi!
Ông tự nhủ mình sẽ giao phó cô gái kia cho lòng bao dung của tòa án, và sẽ cố gắng giảm tội cho cô.
Chính ông là người vừa quyết định gây ra một tội ác.
Chính ông đã quyết định sẽ giết anh chàng Albert de Commarin.
Trong suốt phần còn lại của đêm, ông chỉ càng trở nên quyết tâm hơn, tự thuyết phục bản thân bằng hàng nghìn lý lẽ điên rồ mà ông cho là vững chắc không cần phải bàn cãi để cho thấy sự cần thiết và hợp pháp của sự trả thù này.
Đến bảy giờ sáng, ông thấy mình đang bước đi trên lối đi nhỏ của công viên Boulogne, cách hồ nước không xa. Ông đi ra cổng Maillot, gọi một cỗ xe ngựa để về nhà.
Cơn mê sảng của đêm qua vẫn tiếp diễn, nhưng ông không còn đau khổ nữa. Ông không còn cảm thấy mệt mỏi chút nào. Bình tĩnh và lạnh lùng, ông hành động dưới sự sai khiến của ảo giác như một kẻ mộng du.
Ông ngẫm nghĩ và suy luận, nhưng là giống như một người không có lý trí.
Về đến nhà, ông cẩn thận thay quần áo, giống như mọi ngày ông vẫn làm mỗi khi phải đến nhà bà Hầu tước Arlange. Rồi ông bước ra cửa.
Trước tiên, ông đến nhà một người bán vũ khí, mua một khẩu súng lục và bảo người bán hàng cẩn thận nạp đạn trước mặt mình, rồi ông đút súng vào túi áo. Sau đó, ông đến nhà mấy người mà ông nghĩ rằng họ có thể cho ông biết gã Tử tước thường lui tới hội quán nào. Đi đến đâu ông cũng không thấy tinh thần mình có gì khác lạ cả, khi mà ông vẫn chuyện trò và đối xử với mọi người rất tự nhiên.
Đến chiều, một anh bạn trẻ mới nói cho ông biết tên hội quán của Commarin và đề nghị được đích thân dẫn ông đến đó.
Daburon sốt sắng nhận lời rồi đi theo anh ta.
Dọc đường, ông cuồng nhiệt nắm chặt báng súng giấu trong túi áo. Ông chỉ nghĩ tới vụ giết người mà mình đang muốn thực hiện, và nghĩ cách làm sao để không bắn trượt.
Điều này, - ông lạnh lùng tự nhủ - sẽ gây ra một vụ tai tiếng khủng khiếp, nhất là nếu mình không tự bắn vào đầu ngay lập tức. Người ta sẽ bắt mình, sẽ nhốt vào ngục, mình sẽ phải ra Tòa đại hình. Thế là tên tuổi mình sẽ bị ô danh. Mặc kệ! Mình cóc cần! Mình đã không được Claire yêu thì những chuyện còn lại cũng có ý nghĩa gì! Có thể cha mình sẽ chết vì đau khổ, nhưng mình phải trả thù!
Đến hội quán, bạn ông chỉ cho ông một chàng trai có mái tóc nâu sẫm, có vẻ mặt kiêu kỳ theo như ông cảm nhận, đang ngồi tì tay lên bàn đọc báo.
Đó chính là anh chàng Tử tước.
Daburon bước tới chỗ anh ta, nhưng khi chỉ còn cách hai bước thì ông mất hết can đảm. Ông đột ngột quay gót bỏ chạy, để lại người kia sửng sốt trước một cảnh tượng mà anh ta không tài nào hiểu nổi.
Anh chàng Albert de Commarin sẽ chỉ được nhìn thấy cái chết gần mình như thế một lần thôi.
Ra đến ngoài đường, ông Daburon cảm thấy như đất đang xoay chuyển dưới chân mình. Mọi thứ quay quanh ông như chong chóng. Ông muốn kêu lên mà không thể. Ông khua tay trong không khí, lảo đảo một lát rồi ngã lăn ra vỉa hè như một khối thịt.
Những người đi đường chạy vội đến giúp các cảnh sát dựng ông dậy. Họ tìm thấy địa chỉ của ông trong túi áo; thế là họ đưa ông về nhà.
Khi tỉnh lại, ông thấy mình đang nằm trên giường, cha ông đang đứng cuối giường nhìn ông.
Chuyện gì đã xảy ra vậy?
Người ta khéo léo cho ông biết rằng trong sáu tuần qua ông đã lơ lửng giữa sự sống và cái chết. Các bác sĩ tuyên bố là ông đã qua khỏi; giờ ông đã bình phục, ông sẽ khỏe.
Năm phút nói chuyện đã khiến ông kiệt sức. Ông nhắm mắt và cố hồi tưởng lại dòng suy nghĩ đang bị phân tán như những chiếc lá mùa thu trong cơn dông bão của mình. Quá khứ có vẻ như đang chìm đắm trong một đám sương mù dày đặc; nhưng giữa đám sương mù tăm tối này, tất cả những gì liên quan đến tiểu thư Arlange lại hiện lên rõ nét và sáng ngời. Ông nhìn thấy tất cả những hành động của mình, từ lúc ông ôm Claire, như một bức tranh vô cùng sáng rõ. Ông rùng mình, và có một lúc mái tóc ông ướt đẫm mồ hôi.
Suýt nữa ông đã trở thành kẻ giết người!
Và bằng chứng cho thấy ông đã bình phục và hoàn toàn minh mẫn là ông đã thoáng nghĩ đến một vấn đề về luật hình sự.
Nếu tội ác được thực hiện, - ông tự nhủ - thì liệu mình có bị kết án không? Có. Mình có phải chịu trách nhiệm không? Không. Tội ác này có phải là một kiểu bệnh tâm thần không? Liệu mình có bị điên, có bị rơi vào một trạng thái đặc biệt trước khi gây án không? Ai có thể trả lời cho mình? Tại sao các quan tòa không ai phải trả qua một cơn thần kinh khó hiểu như của mình? Nhưng ai sẽ tin mình, nếu mình kể lại những gì đã xảy ra?
Mấy ngày sau, khi sức khỏe đã khá lên, ông đem chuyện này ra kể cho cha mình nghe. Cha ông chỉ nhún vai và đảm bảo với ông rằng đó chỉ là một hồi ức khó chịu của cơn mê sảng.
Cha ông là một người tốt bụng, ông xúc động trước chuyện tình đáng buồn của con trai mình, nhưng ông không coi đó là một nỗi bất hạnh không thể sửa chữa. Ông khuyên con trai hãy vui chơi giải trí, cho con trai sử dụng tất cả của cải của ông, khuyên con trai hãy cưới một cô gái tốt bụng, vui tính và khỏe mạnh ở Poitou, người sẽ sinh cho anh những đứa con tuyệt vời. Sau đó, như thể đất đai đang đau khổ vì sự vắng mặt của ông, ông vội vã quay về tỉnh nhà.
Hai tháng sau, ông Thẩm phán điều tra đã trở lại với cuộc sống và công việc thường ngày. Nhưng mọi cố gắng của ông đều vô ích; ông hành động như một cái xác không hồn, trong lòng ông như có gì đó đã đổ vỡ.
Thế là ông trốn vào công việc như trốn vào một thánh đường. Ông tự kết án mình những công việc nặng nhọc, cố không nghĩ đến Claire, giống như người bị ho lao không dám nghĩ đến căn bệnh của mình. Tinh thần say mê và hăng hái với công việc đã đem lại cho ông danh tiếng của một người có tham vọng và còn tiến xa. Nhưng ông chẳng còn quan tâm đến điều gì trên đời nữa.
Cuối cùng, ông đã không tìm thấy sự thanh thản, mà bị tê liệt đến mức mất hết cảm giác đau đớn giống như phần tiếp theo của những cơn đại họa. Sự lãng quên bắt đầu quay trở lại với ông.
Đó là những sự kiện mà cái tên Commarin do lão Tabaret thốt ra đã khiến Daburon nhớ lại. Ông cứ tưởng mình đã chôn vùi được chúng dưới đống tro tàn của thời gian, thế mà giờ đây chúng lại xuất hiện, giống như những dòng chữ viết bằng mực bí mật bị lộ ra khi ta hơ tờ giấy gần ngọn lửa. Trong chốc lát, chúng diễn ra trước mặt ông với một sự đồng hiện lạ kỳ của ý nghĩ vượt lên cả thời gian và không gian.
Trong mấy phút, nhờ có hiện tượng phân thân tuyệt diệu mà ông, có thể nói, đã được chứng kiến màn biểu diễn của chính cuộc đời mình. Vừa là diễn viên, vừa là khán giả, ông ở đó, ngồi trên ghế bành, đồng thời ông cũng như đang trên sân khấu, vừa diễn xuất vừa tự phán xét mình.
Phải thừa nhận rằng, ý nghĩ đầu tiên của ông là sự căm hận, tiếp theo là cảm giác thỏa mãn đáng ghét. Số phận ngẫu nhiên đã trao cho ông người đàn ông mà Claire đã lựa chọn. Giờ thì anh ta không còn là một chàng quân tử kiêu kỳ nổi tiếng vì dòng dõi và tài sản, mà anh ta chỉ là một đứa con hoang, con trai của một người phụ nữ làng chơi. Để giữ cho mình cái tên ăn cắp được, anh ta đã phạm một tội sát nhân hèn hạ nhất. Và ông, một quan tòa, ông sắp được hưởng niềm khoái lạc vô bờ là chém chết kẻ thù của mình bằng thanh gươm của pháp luật.
Nhưng ý nghĩ này chỉ thoáng qua như một ánh chớp. Lương tâm của người lương thiện đang nổi loạn và bắt ông phải nghe theo.
Liệu có gì ghê tởm hơn sự gán ghép hai ý nghĩ ấy với nhau, lòng căm hận và công lý! Không cần coi thường mình hơn so với những kẻ xấu xa mà mình kết án, liệu một quan tòa có thể được phép nhớ rằng một kẻ tội nhân mà số phận đang nằm trong tay mình đã từng là kẻ thù của ông? Một Thẩm phán điều tra liệu có được phép sử dụng những quyền lực thái quá của mình để chống lại một bị can, khi mà sâu trong tâm can ông ta vẫn còn một giọt mật đắng?
Ông Daburon đang nhớ lại điều mà từ một năm nay đã bao lần ông tự nhủ khi bắt đầu điều tra một vụ án: Cả ta nữa, ta đã suýt làm ô uế mình bằng một vụ giết người gớm ghiếc.
Như vậy, chính xác là ông sắp sửa phải cho bắt giam, hỏi cung và giao cho Tòa đại hình người mà ông đã rất muốn giết.
Tất nhiên, thiên hạ không hề biết về tội ác vẫn còn trong ý nghĩ và dự định đó, nhưng ông, liệu ông có thể quên được nó? Liệu đây có phải là lúc ông nên từ nhiệm? Liệu ông có nên về hưu, rửa hai bàn tay vấy máu, để cho người khác làm nhiệm vụ trả thù cho ông nhân danh xã hội?
- Không! - Ông tuyên bố - Đó sẽ là một sự hèn nhát không xứng đáng với ta.
Một dự định hào hiệp điên rồ xuất hiện trong ông.
- Nếu mình cứu anh ta thì sao? - Ông thì thầm - Nếu như, vì Claire, mình để cho anh ta giữ được danh dự và mạng sống? Nhưng cứu anh ta bằng cách nào? Nếu thế thì ta sẽ không được quan tâm đến những điều phát hiện của lão Tabaret và bắt ông ấy cũng phải im lặng. Ông ấy sẽ phải tự đánh lạc hướng, cùng với Gévrol chạy theo một kẻ giết người tưởng tượng. Điều này có khả thi không? Vả lại, nếu tha cho Albert thì sẽ giống như là xé rách các phẩm giá, là đảm bảo cho những tội ác xấu xa nhất không bị trừng phạt. Cuối cùng, nó còn là hy sinh công lý vì nỗi đam mê của ta!
Vị quan tòa cảm thấy đau khổ.
Làm sao có thể đưa ra được quyết định trong mớ bối rối, phân vân giữa các lợi ích khác nhau như thế này?
Ông đang chơi vơi giữa những quyết định trái ngược nhau, tinh thần ông dao động từ cực này sang cực khác.
Phải làm gì bây giờ? Lý trí của ông, sau một cú sốc quá bất ngờ, đang vô vọng tìm lại thế cân bằng. Rút lui ư? - Ông tự nhủ - Vậy lòng dũng cảm của ta ở đâu? Chẳng phải ta là đại diện cho pháp luật mà không gì có thể lay chuyển? Phải chăng ta yếu đuối đến nỗi dù đã khoác tấm áo Thẩm phán vào vẫn không thể lột bỏ được nhân cách của mình? Liệu ta có thể, vào lúc này, bỏ qua quá khứ được không? Nhiệm vụ của ta là theo đuổi cuộc điều tra. Chính Claire đã ra lệnh cho ta phải hành động như vậy. Liệu nàng có muốn một người bị vấy bẩn vì sự nghi ngờ không? Không bao giờ. Nếu anh ta vô tội, anh ta sẽ được cứu thoát; nếu có tội, anh ta sẽ tiêu đời!
Chỉ đến lúc đó, ông Daburon mới mơ hồ nhận ra thời gian đã trôi qua.
Lúc đó đã gần ba giờ sáng.
- Ôi, lạy Chúa! Lại còn lão Tabaret đang đợi ta! Chắc là lão đang ngủ thiếp đi rồi…
Nhưng lão Tabaret không ngủ, và chẳng hơn gì ngài Thẩm phán, ông cũng không hề nhận ra rằng thời gian đang trôi qua.
Mười phút là đủ để cho ông kiểm kê văn phòng của ông Daburon, một căn phòng rộng lớn và được trang hoàng với một vẻ tráng lệ nghiêm trang, hoàn toàn phù hợp với địa vị của một quan tòa. Ông cầm ngọn đèn, bước đến gần sáu bức tranh tuyệt tác nổi bật trên nền ván lát tường, trầm trồ thán phục. Ông quan sát kỹ mấy bức tượng đồng quý hiếm đặt trên bệ lò sưởi và trên một chiếc bàn chân quỳ, rồi ông liếc qua giá sách với con mắt của một người sành sỏi.
Sau đó, cầm một tờ báo buổi chiều trên bàn, ông bước tới bên lò sưởi rồi buông mình lên một chiếc ghế bành.
Chưa đọc hết một phần ba của bài chính luận thì ông đã buông tờ báo xuống rồi chìm vào suy tư. Định kiến, vốn mạnh hơn ý chí, là điều mà với ông thường đáng quan tâm hơn so với chính trị, đã khiến ông không thể cưỡng lại để quay trở về với ngôi làng La Jonchère, bên cạnh thi thể của bà quả phụ Lerouge. Giống như một đứa trẻ xới tung rồi lại sắp xếp lại trật tự cái trò chơi rèn luyện lòng kiên nhẫn của mình đến cả nghìn lần, ông cũng đang pha trộn rồi tìm lại mạch suy luận và lý lẽ của ông.
Tất nhiên, đối với ông, chẳng còn gì phải nghi ngờ trong cái vụ án buồn thảm này. Từ A đến Z, ông tin là mình đã hiểu rõ tất cả. Ông biết phải bám vào đâu, còn Daburon, ông đã thấy rõ là ông ấy sẽ chia sẻ ý kiến với mình. Tuy nhiên, biết bao khó khăn vẫn còn đang ở phía trước.
Giữa ngài Thẩm phán điều tra với bị can là một tòa án tối cao, một tổ chức đáng kính phục sẽ đảm bảo cho tất cả chúng ta, là quyền lực chủ yếu có vai trò dung hòa: đó là bồi thẩm đoàn.
Và bồi thẩm đoàn này, may thay, sẽ không hài lòng với một niềm tin tầm thường. Những điều đáng nghi ngờ nhất có thể khiến họ xúc động và lung lay, chúng sẽ không để cho họ đưa ra một phán quyết chủ quan. Đứng ở một địa vị trung lập, giữa bên luận tội theo lý lẽ suy luận và bên biện hộ theo cảm tính, họ đòi hỏi phải có các vật chứng và yêu cầu phải được sờ tận tay. Có vụ án mà các quan tòa chắc chắn sẽ kết tội, thì vì lương tâm, và hơn nữa là vì sự chính xác, bồi thẩm đoàn lại xử trắng án, bởi vì họ không có bằng chứng.
Vì thế, ủy viên công tố khi ra trước bồi thẩm đoàn phải được trang bị tất cả các loại vũ khí và nắm trong tay tất cả các bằng chứng. Và chính vị Thẩm phán điều tra là người phải rèn cho ông ta các thứ vũ khí này và tập hợp các bằng chứng. Đây là một nhiệm vụ tinh tế, đầy khó khăn và rất mất thời gian. Có trường hợp, bị can là một kẻ máu lạnh đến mức hắn tin chắc là mình không để lại dấu vết; khi đó, ẩn mình sâu trong ngục tối, hắn sẽ thách thức mọi đòn tấn công của tòa án. Đó sẽ là một cuộc đấu khủng khiếp và sẽ làm rung chuyển tòa án, nếu ta nghĩ rằng, rốt cuộc, kẻ bị giam giữ không được tư vấn và không được bào chữa này có thể là người vô tội. Liệu quan tòa có cưỡng lại được sự lôi cuốn của niềm tin trong thâm tâm không?
Rất nhiều lần tòa án đã phải đi đến chỗ thừa nhận thất bại. Tòa tin rằng mình đã tìm được thủ phạm, logic đã chỉ ra hắn, lương tri đã vạch mặt hắn, thế mà họ đã phải đình chỉ truy cứu vì không có đủ bằng chứng.
Thật đáng tiếc là có những tội ác không bị trừng phạt. Một cựu Trưởng công tố có lần đã thú nhận rằng ông biết có tới ba kẻ sát nhân là người giàu có, hạnh phúc, được kính trọng, nhưng vì những tình tiết không chắc chắn, chúng đã kết thúc vụ án bằng việc được ngủ trên giường êm nệm ấm, sống giữa gia đình, và chắc hẳn cuộc đời sẽ kết thúc tốt đẹp với một tấm bia tuyệt vời trên mộ.
Cứ nghĩ đến việc một kẻ giết người có thể trốn tránh được công lý, có thể thoát được Tòa đại hình, là máu của lão Tabaret lại sôi lên trong huyết mạch, giống như khi ông nghĩ đến một sự xúc phạm ghê gớm đối với cá nhân ông.
Theo ông, một điều kinh khủng như vậy chỉ có thể là do sự ngu dốt của những quan tòa làm nhiệm vụ điều tra sơ bộ, do sự vụng về của các cảnh sát hoặc do sự yếu kém và nhu nhược của các Thẩm phán điều tra.
- Chẳng phải là, - ông lẩm nhẩm với vẻ hài lòng kiêu hãnh vì thành công - ta sẽ chẳng bao giờ buông tha con mồi. Không có một tội ác nào được phát hiện mà thủ phạm lại không thể bị bắt, trừ phi kẻ đó là một thằng điên mà động cơ gây án không nằm trong sự kiểm soát của lý trí. Ta sẵn sàng mất cả đời để tìm ra thủ phạm, ta thà chết trước khi phải chịu thừa nhận thất bại, không như chuyện đã xảy ra nhiều lần với lão Gévrol.
Lần này nữa, được trợ giúp của sự ngẫu nhiên, lão Tabaret đã thành công, ông cứ nhắc đi nhắc lại điều đó. Nhưng ông lấy đâu ra bằng chứng để cung cấp cho bên công tố, cho bồi thẩm đoàn chết tiệt kia, một bồi thẩm đoàn quá tỉ mẩn, quá hình thức và quá nhút nhát? Làm thế nào để buộc một kẻ mạnh mẽ hoàn toàn cảnh giác, có địa vị và chắc chắn là đã có sự đề phòng, phải lộ diện? Sẽ phải chuẩn bị một cái bẫy nào, phải cầu viện đến những mưu mẹo mới mẻ và chắc chắn nào?
Ông đang quá miệt mài suy luận, lúc thì tài tình, lúc thì thô thiển, nên không nghe thấy cửa văn phòng mở ra và không hề nhận ra sự có mặt của ông Thẩm phán điều tra. Ông Daburon đã phải lên tiếng để kéo ông ra khỏi luồng suy nghĩ.
- Thưa ông Tabaret, - Daburon nói với giọng vẫn còn xúc động - xin lỗi vì đã để ông một mình quá lâu…
Ông lão đứng dậy kính cẩn phác một cử chỉ cúi gập người để chào.
- Thú thực, thưa ngài, - ông đáp - tôi cũng chẳng có thời gian rỗi để nhận ra sự cô đơn của mình.
Daburon bước thẳng tới ngồi đối diện với ông nhân viên tình nguyện của mình, trước mặt họ là chiếc bàn một chân chất đầy những giấy tờ và tài liệu liên quan đến vụ án. Ông tỏ ra rất mệt mỏi.
- Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, - ông bắt đầu nói - về toàn bộ vụ án này…
- Cả tôi cũng thế. - Lão Tabaret ngắt lời - Thưa ngài, lúc ngài bước vào thì tôi đang lo nghĩ về thái độ của anh chàng Tử tước Commarin khi chúng ta bắt giữ anh ta. Theo tôi, chẳng có gì quan trọng hơn được nữa. Liệu anh ta có nổi khùng không? Có định đe nẹt các cảnh sát không? Có hăm dọa đuổi họ ra khỏi cửa không? Đây là sách lược mà những tên tội phạm giàu có hay sử dụng. Nhưng tôi tin là anh ta sẽ giữ bình tĩnh và lạnh lùng. Chính logic của tính cách đã bộc lộ ra sự phạm tội. Rồi ngài sẽ thấy, anh ta sẽ tỏ ra tự tin tuyệt đối. Anh ta sẽ cho rằng chắc hẳn mình là nạn nhân của một sự hiểu lầm. Anh ta sẽ đòi gặp ngay Thẩm phán điều tra để nhanh chóng làm rõ mọi chuyện.
Ông lão nói quá say sưa về những giả định của mình như nói về một chuyện thực tế, ông có một giọng tự tin đến nỗi Daburon không nhịn được cười.
- Chứng ta chưa đạt được đến mức đó đâu. - Ông nói.
- Nhưng chỉ mấy tiếng nữa chúng ta sẽ đạt được. - Lão Tabaret háo hức nói tiếp - Tôi chắc là khi trời sáng, ngài Thẩm phán điều tra sẽ ra lệnh bắt giữ anh chàng Commarin chứ?
Ông Thẩm phán rùng mình, giống như một bệnh nhân nhìn thấy bác sĩ phẫu thuật đặt dao mổ lên bàn.
Thời khắc hành động đang đến. Ông đang cân nhắc khoảng cách không thể đo được từ ý nghĩ đến việc làm, từ quyết định đến hành động.
- Ông thật là nhanh nhảu, thưa ông Tabaret, - ông Thẩm phán nói - ông không cần biết đến những điều ngăn trở.
- Bởi vì anh ta có tội! Xin hỏi ngài Thẩm phán, liệu ai có thể gây ra tội ác này nếu không phải là anh ta? Ai được lợi khi bà quả phụ Lerouge cùng lời chứng, giấy tờ và những bức thư của bà ấy bị thủ tiêu? Anh ta, chỉ có anh ta. Anh bạn Noël Gerdy của tôi, dù có ngốc nghếch như một người lương thiện, cũng đã cảnh báo: Chính anh ta đã hành động. Nếu tội trạng của anh ta không được chứng minh, thì anh ta sẽ vẫn là Commarin như ngày nào, và anh chàng luật sư của tôi sẽ vẫn là Gerdy cho đến lúc chết.
- Vâng, nhưng…
Ông lão nhìn ông Thẩm phán với ánh mắt sửng sốt.
- Vậy là ngài Thẩm phán thấy có những khó khăn ư? - Ông hỏi.
- Ồ! Tất nhiên! - Ông Daburon đáp - Vụ án này thuộc loại đòi hỏi phải vô cùng thận trọng. Trong những trường hợp như thế này, người ta chỉ được bắt giữ khi đã chắc chắn, thế mà chúng ta chỉ có những giả định… cho dù là những giả định xác đáng nhất, nhưng chúng vẫn chỉ là giả định. Nếu chúng ta nhầm thì sao? Tiếc thay, công lý không bao giờ có thể sửa chữa được hết những sai lầm của nó. Nếu nó đưa tay ra bắt sai một người thì nó sẽ để lại dấu vết lên người đó mà không bao giờ gột sạch được. Dù nó có thừa nhận là đã sai, đã lên tiếng công khai nhận lỗi, đã tuyên bố mình nhầm… thì cũng vô ích. Dư luận phi lý và ngu ngốc sẽ chẳng bao giờ tha thứ cho một người đã bị nghi oan.
Lão Tabaret vừa nghe những lời trần tình của ông Thẩm phán vừa cất tiếng thở dài. Ông không phải là người bị kiềm chế bởi những suy nghĩ ti tiện kia.
- Những điều nghi ngờ của chúng ta là có cơ sở, - ông Thẩm phán nói tiếp - tôi tin như thế. Nhưng nhỡ chúng sai thì sao? Sự hấp tấp của chúng ta có thể đem đến nỗi bất hạnh cho chàng trai kia. Và hơn nữa, đó sẽ là một chuyện choáng váng, là chuyện tai tiếng! Ông có nghĩ đến điều đó không? Ông không biết tất cả những gì mà một nước đi mạo hiểm có thể khiến nhà đương cục, cho phẩm giá của công lý, cho những gì làm nên sức mạnh của tòa án phải trả giá… Một nước đi sai lầm sẽ đòi phải tranh luận, phải kiểm tra, cuối cùng nó sẽ đánh thức lòng nghi ngờ đối với một thời đại mà ở đó con người sẵn sàng ngờ vực những quyền lực đã được thiết lập.
Ông tì tay lên chiếc bàn một chân và tỏ ra suy nghĩ mông lung.
Chẳng hy vọng gì nữa. - Lão Tabaret nghĩ - Mình đang phải làm việc với một kẻ nhát gan. Đáng ra phải làm thì ông ta chỉ nói; phải ký lệnh bắt giữ thì ông ta lại đưa ra lý thuyết. Ông ta choáng váng trước phát hiện của mình, và ông ta đang sợ. Lúc chạy đến đây, mình đã tưởng ông ta sẽ rất vui, nhưng không hề. Đáng lẽ ông ta phải bỏ ra một đồng tiền vàng để không phải gọi mình đến đây; như thế ông ta sẽ không phải nghe gì và sẽ ngủ một giấc ngủ sâu như một kẻ bàng quan. Ôi! Thế đấy! Người ta thích có trong lưới một đống cá nhỏ mà không quan tâm đến những con cá to. Những con cá to là những con nguy hiểm, người ta sẽ tự nguyện thả chúng…
- Có thể, - Daburon cất giọng nói to - có thể chỉ cần một lệnh khám nhà và một lệnh hầu tòa…
- Thế thì mọi thứ đi tong! - Lão Tabaret kêu lên.
- Đi tong cái gì, thưa ông?
- Than ôi! Ngài Thẩm phán biết rõ điều đó hơn tôi, một lão già hèn mọn. Chúng ta đang đứng trước một mưu mô khôn khéo và tinh vi. Một sự ngẫu nhiên kỳ diệu đã đưa chúng ta đến với dấu vết của thủ phạm. Nếu chúng ta để hắn có thời gian rảnh rang thì hắn sẽ trốn thoát.
Thay cho câu trả lời, ông Thẩm phán chỉ gật đầu ra chiều tán đồng.
- Rõ ràng, - lão Tabaret nói tiếp - đối thủ của chúng ta là một kẻ tài giỏi bậc nhất, một kẻ máu lạnh đáng ngạc nhiên, một kẻ khôn khéo bậc thầy. Hắn chắc đã lường trước tất cả, lường trước mọi chuyện, kể cả khả năng khó xảy ra rằng mình bị nghi ngờ. Ồ, hắn đã tính đến những biện pháp thận trọng. Nếu ngài Thẩm phán chỉ ra lệnh hầu tòa thì kẻ vô lại này sẽ thoát. Hắn sẽ ra hầu tòa bình thản như một người hùng, như thể ra bãi đấu súng vậy. Hắn sẽ đưa ra một chứng cớ ngoại phạm tuyệt vời có thể chứng minh, một chứng cớ ngoại phạm không thể bác bỏ. Hắn sẽ chứng minh rằng vào tối hôm thứ Ba rạng sáng thứ Tư, hắn đã ở cùng những nhân vật đáng kính nhất. Rằng hắn đã ăn tối với Bá tước ấy, chơi bài với Hầu tước nọ, ăn khuya với Công tước kia; bà Nam tước này và bà Tử tước đó đã không rời mắt khỏi hắn dù chỉ một phút… Cuối cùng, cú đòn đã được dàn dựng kỹ càng đến mức người ta sẽ phải mở cửa mời hắn ra về, lại còn phải xin lỗi hắn ở ngoài cầu thang. Chỉ có một cách để bắt hắn phải nhận tội, đó là phải chộp lấy thật nhanh để hắn không kịp đề phòng. Phải túm hắn nhanh như chớp, bắt hắn lúc vừa ngủ dậy, lôi hắn dậy khi hắn đang còn choáng váng và hỏi cung ngay tức khắc khi hắn vừa ra khỏi giường. Ôi! Sao tôi lại không được làm Thẩm phán điều tra dù chỉ một ngày!
Lão Tabaret đột nhiên ngừng lời như sợ xúc phạm ông quan tòa, nhưng Daburon không hề có vẻ phật ý.
- Ông cứ nói tiếp đi, - ông nói, giọng khuyến khích - cứ nói tiếp đi!
- Vậy là, - ông lão nói tiếp - giả sử tôi là Thẩm phán điều tra. Tôi sẽ ra lệnh bắt giữ anh chàng của chúng ta, và hai mươi phút sau hắn sẽ phải có mặt tại văn phòng của tôi. Tôi sẽ chẳng mất thì giờ chơi đùa mà sẽ đặt ngay cho hắn những câu hỏi ít nhiều xảo trá. Không, tôi sẽ đi thẳng vào việc. Trước tiên tôi sẽ giáng hắn dồn dập bằng sức nặng niềm tin chắc chắn của mình. Hắn sẽ bị bất ngờ đến mức nào! Tôi sẽ chứng minh cho hắn rằng tôi đã biết tất cả, biết quá rõ ràng và không cãi vào đâu được, đến nỗi hắn chỉ có đường đầu hàng chứ không thể khác. Không, tôi sẽ không hỏi cung hắn. Tôi sẽ không để cho hắn mở miệng, tôi sẽ nói trước. Và đây là bài diễn văn của tôi, “Anh bạn ơi, anh sẽ đưa ra một chứng cớ ngoại phạm ư? Được thôi. Nhưng mà chúng tôi đã biết tỏng cái mẹo này. Nó cũ rích rồi. Người ta có thể chỉnh lại kim đồng hồ quả lắc sớm lên hay muộn đi. Vậy là, có một trăm người đã không rời mắt khỏi anh, chúng tôi công nhận điều đó. Tuy nhiên, đây là điều mà anh thực sự đã làm: Vào lúc tám giờ hai mươi phút, anh đã khôn khéo chuồn đi. Đến tám giờ ba mươi lăm phút, anh lên tàu hỏa ở ga Saint-Lazare. Đến chín giờ, anh xuống ga Rueil và chạy thẳng về làng La Jonchère. Đến chín giờ mười lăm phút, anh gõ cửa nhà bà quả phụ Lerouge, bà ấy đã mở cửa cho anh và anh xin chút gì đó để ăn và uống một cốc rượu. Đến chín giờ hai mươi lăm phút, anh găm một nhát kiếm sắc nhọn vào giữa hai vai bà, anh xới tung mọi thứ trong nhà và đốt một số giấy tờ. Sau đó, anh lấy một chiếc khăn ăn, gói tất cả những món đồ quý giá để làm ra vẻ là một vụ trộm, rời khỏi nhà và khóa trái cửa lại.
Ra đến sông Seine, anh quẳng gói đồ xuống sông, đi bộ ra ga xe lửa và đến mười một giờ, anh trở lại chốn cũ với vẻ tươi tỉnh và lanh lẹ.
Mọi chuyện đã được thực hiện hoàn hảo. Chỉ có điều, anh đã không tính đến hai đối thủ: một là viên thám tử khá tinh quái, có biệt danh là Tirauclair, và hai là một nhân vật còn tài giỏi hơn, có tên là “ngẫu nhiên”. Hai đối thủ này sẽ khiến anh thua cuộc. Mặt khác, anh đã mắc sai lầm là đi đôi giày cao cổ quá mỏng, mang đôi găng tay màu ngọc trai, đội chiếc mũ lụa và mang một chiếc ô. Bây giờ, hãy thú nhận đi, như thế sẽ nhanh gọn hơn, và tôi sẽ cho phép anh được hút những điếu thuốc hảo hạng mà anh thích trong phòng giam của mình, loại thuốc mà anh thường hút bằng một chiếc tẩu hổ phách.
Niềm hứng khởi dường như đã khiến lão Tabaret cao thêm vài tấc. Ông nhìn vị quan tòa như để tìm kiếm một nụ cười đồng tình.
- Vâng, - ông nói tiếp sau khi lấy hơi - tôi sẽ nói với hắn như vậy, không có gì khác. Và, trừ phi con người này có tinh thần mạnh hơn nghìn lần so với giả định của tôi, trừ phi hắn là một kẻ bằng đồng bằng đá, còn không thì hắn sẽ phải quỳ xuống dưới chân tôi và xin thú tội…
- Thế nếu hắn là một con người sắt đá thật, nếu hắn không quỳ xuống dưới chân ông, thì ông sẽ làm gì?
Rõ ràng câu hỏi này đã khiến ông lão lúng túng.
- Thế hả! - Ông ấp úng - Tôi không biết, để tôi xem, tôi sẽ tìm cách… Nhưng hắn sẽ thú nhận.
Sau một hồi im lặng khá lâu, ông Daburon cầm bút lên và viết vội mấy dòng.
- Tôi đầu hàng. - Ông nói - Anh chàng Albert de Commarin sẽ bị bắt giam, tôi đã quyết định như vậy rồi. Nhưng các thủ tục và việc khám xét sẽ phải mất một thời gian, mà theo tôi là cần thiết. Trước khi hỏi cung bị can, tôi muốn thẩm vấn cha anh ta, Bá tước Commarin, và cả anh chàng luật sư trẻ tuổi bạn ông, anh Noël Gerdy kia nữa. Tôi rất cần những bức thư anh ta đang giữ.
Nghe đến cái tên Gerdy, lão Tabaret sa sầm nét mặt và tỏ ra lo lắng một cách kỳ cục.
- Chết tiệt! - Ông thốt lên - Đây là điều làm tôi lo lắng!
- Sao cơ? - Ông Daburon hỏi.
- À, đó là chuyện những bức thư mà Noël đang giữ… Đương nhiên là cậu ấy sẽ biết ai đã cung cấp chứng cứ cho tòa. Thế là tôi sẽ rơi vào tình thế khó xử! Chính tôi là người mà cậu ấy sẽ phải chịu ơn về quyền lợi của mình, đúng không? Ngài có nghĩ cậu ấy sẽ mang ơn tôi không? Không hề, cậu ấy sẽ khinh bỉ tôi. Cậu ấy sẽ xa lánh tôi khi biết rằng lão Tabaret, kẻ làm ăn thực lợi, và ông Tirauclair, lão thám tử tình nguyện, đều đội chung một chiếc mũ. Khốn nạn cho con người! Trong vòng tám ngày những người bạn lâu năm nhất của tôi sẽ từ chối gặp mặt tôi. Như thể việc phụng sự cho công lý là một chuyện bất hạnh…! Tôi sẽ đi đến nước phải đổi chỗ ở, phải mang một cái tên giả…
Ông gần như sắp bật khóc bởi một nỗi đau lớn như thế. Vị quan tòa cảm động.
- Yên tâm đi, thưa ông Tabaret, - ông nói - tôi sẽ không nói dối, nhưng tôi sẽ dàn xếp như thế nào đó để con trai nuôi của ông, anh chàng Benjamin của ông, sẽ không biết gì. Tôi sẽ hé cho anh ta thấy rằng tôi lần được đến anh ta là nhờ đống giấy tờ tìm thấy ở nhà bà quả phụ Lerouge.
Quá vui sướng, ông lão nắm lấy bàn tay vị Thẩm phán đưa lên môi.
- Ôi, cảm ơn ngài! - Ông kêu lên - Nghìn lần cảm ơn! Ngài thật là hào hiệp, ngài thật là… Thế mà vừa rồi tôi đã… Nhưng thôi! Nếu ngài cho phép thì tôi sẽ có mặt vào lúc bắt giữ; tôi sẽ rất vui lòng nếu được tham dự cuộc khám xét.
- Tôi đang tính sẽ mời ông tham dự, thưa ông Tabaret. - Ông Thẩm phán đáp.
Mấy ngọn đèn đang lụi và tỏa ra những làn khói đen dày, mái nhà đang ngả sang màu trắng, trời đang sáng dần. Đã lâu, từ phía xa, người ta đã nghe thấy tiếng xe cộ buổi sáng; Paris đang thức dậy.
- Tôi không thể để mất thời gian, - ông Daburon nói tiếp - nếu tôi muốn tất cả các biện pháp của mình được chuẩn bị sẵn sàng. Dứt khoát tôi phải gặp ngài Tổng chưởng lý; tôi sẽ bảo người ta đánh thức ông ấy dậy nếu cần. Tôi sẽ trực tiếp đến gặp ông ấy tại tòa, tôi sẽ có mặt tại đó trước tám giờ. Thưa ông Tabaret, tôi muốn ông ở đó đợi lệnh tôi.
Ông lão đang nghiêng mình cảm ơn thì người hầu của ông Thẩm phán xuất hiện.
- Thưa ngài, đây là bức thư mà một anh hiến binh ở Bougival vừa đem đến. Anh ta đang đứng ngoài sảnh đợi thư trả lời của ngài.
- Rất tốt! - Ông Daburon đáp - Hỏi người đó xem anh ta có cần gì không… dù sao thì cũng hãy đem cho anh ta một cốc rượu vang.
Rồi ông bóc phong thư ra.
- Này! - Ông kêu lên - Một bức thư của Gévrol!
Và ông đọc:
“Thưa ngài Thẩm phán điều tra,
Tôi hân hạnh được báo tin cho ngài biết rằng tôi đã lần ra dấu vết của người đàn ông đeo khuyên tai. Tôi vừa nhận được tin ở một quán rượu, nơi mà những kẻ nghiện ngập thường la cà. Người đàn ông của chúng ta đã tới đó vào sáng Chủ nhật, khi gã vừa ra khỏi nhà bà quả phụ Lerouge. Gã bắt đầu bằng việc mua hai lít rượu vang. Sau đó gã vỗ trán và nói, “Đúng là đồ đần độn! Mình quên mất là sáng mai có buổi tiệc trên tàu!” Ngay lập tức gã mua thêm ba lít nữa. Tôi đã tra trong niên giám và được biết con tàu đó có tên Saint-Marin. Tôi cũng đã tìm hiểu và thấy rằng nó chở lúa mì. Tôi đã viết báo cáo về Sở Cảnh sát, đồng thời viết cho cả ngài, để ngài cho thực hiện việc khám xét ở cả Paris lẫn Rouen. Nhất định ta phải phát hiện ra điều gì đó.
Tôi đang chờ đợi, thưa ngài…”
- Tội nghiệp ông Gévrol! - Lão Tabaret bật cười kêu lên - Ông ấy còn đang mài kiếm mà trận đấu đã xong. Ngài Thẩm phán có cho ngừng cuộc điều tra của ông ấy lại không?
- Tất nhiên là không! - Ông Daburon đáp - Bỏ qua một sự việc nhỏ nhất nhiều khi cũng là một sai lầm không thể cứu chữa. Biết đâu kẻ lạ mặt kia lại cung cấp được cho chúng ta một chút ánh sáng nào đó thì sao!