← Quay lại trang sách

Chương 1 “AI GIẾT CHIM CỔ ĐỎ?”-

(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; trưa)

Trong tất cả vụ án hình sự mà Philo Vance tham gia với tư cách là một nhân viên điều tra không chính thức thì vụ án độc ác nhất, kỳ lạ nhất, có vẻ khó hiểu nhất và chắc chắn kinh khủng nhất phải là vụ án tiếp theo vụ giết những người nhà Greene[*]. Bữa tiệc khủng khiếp tại lâu đài cổ nhà Greene đi đến hồi kết gây kinh hoàng vào tháng Mười hai; và sau ngày lễ Giáng sinh, Vance bay đến Thụy Sĩ để xem Thế vận hội Mùa đông[*]. Về lại New York vào cuối tháng Hai, anh dấn thân ngay vào công việc văn chương mà anh đã ấp ủ từ lâu - bản dịch thô những đoạn tác phẩm chính của Menander[*] được tìm thấy trên giấy cói Ai Cập trong những năm đầu của thế kỷ này; và trong vòng hơn một tháng anh đã tận tụy với công việc thầm lặng đó.

Anh có hoàn thành bản dịch này không, hay thậm chí công sức của anh có bị gián đoạn không, tôi không biết rõ; bởi vì Vance là một con người có niềm say mê các nền văn hóa, trong người anh tinh thần nghiên cứu và phiêu lưu trí óc lúc nào cũng tương phản với sự vất vả cần thiết và sự sáng tạo trong học thuật. Tôi nhớ một năm trước đây khi anh bắt đầu viết về cuộc đời của sử gia Xenophon[*] - kết quả của lòng nhiệt huyết được thừa hưởng từ những ngày học đại học của anh khi lần đầu tiên đọc Anabasis[*] và Memorabilia[*] - và nhanh chóng mất hứng thú khi đọc đến cuộc hành quân lịch sử do Xenophon chỉ huy mười ngàn quân trở về biển. Tuy nhiên, sự thật là công trình dịch các tác phẩm của Menander mà Vance đang làm đã bị gián đoạn một cách đột ngột vào đầu tháng Tư; và hàng tuần liền anh bị cuốn hút vào một vụ án hình sự bí ẩn khiến cả đất nước ở trong trạng thái bị kích động khủng khiếp.

Cuộc điều tra tội phạm mới này, trong đó anh giữ vai trò như một amicus curiae[*] cho John F.-X. Markham, công tố viên quận New York, được biết đến với tên gọi là “Vụ án mạng Giám Mục” sau đó. Cái tên này - kết quả của xu hướng báo chí thích gắn tên gọi vào mỗi cause célèbre[*] - theo một nghĩa nào đó, đã được đặt sai. Không hề có liên quan đến Giám mục nào trong tội ác ma quái khiến cho cả cộng đồng phải tìm đọc “Đồng dao Mẹ Ngỗng”[*] với sự sợ hãi khủng khiếp[*] ; và không có một vị Giám mục nào, theo tôi biết, có liên quan ở mức nhỏ nhất đến những sự kiện ghê gớm đó để có cách gọi như vậy. Nhưng, đồng thời, cái từ “Giám Mục” vẫn phù hợp, bởi vì nó là một bí danh được kẻ sát nhân sử dụng cho mục đích tàn bạo nhất. Chính cái tên này đã tình cờ dẫn dắt Vance đến sự thật gần như không thể tin nổi và kết thúc một trong những tội ác liên hoàn kinh khủng nhất trong lịch sử ngành cảnh sát.

Chuỗi sự kiện kỳ quái và có vẻ như không liên quan với nhau tạo nên vụ án mạng Giám Mục và đẩy lùi tất cả suy nghĩ về Menander và những bài thơ một câu của Hy Lạp ra khỏi tâm trí Vance, bắt đầu vào buổi sáng ngày 2 tháng Tư, chưa đầy năm tháng kể từ sau vụ xả súng kép giết chết Julia và Ada Greene. Hôm ấy là một trong những ngày xuân ấm áp hiếm hoi thỉnh thoảng New York có được vào đầu tháng Tư; và lúc ấy Vance đang ăn sáng trong khu vườn nhỏ nằm trên sân thượng căn hộ của mình ở đường số 38 Đông. Trời gần trưa - Vance làm việc và đọc sách đến rất khuya, và thức dậy muộn - mặt trời rọi nắng xuống bầu trời trong xanh, bao trùm thành phố với một vẻ ngoài thờ ơ. Vance nằm dài trên chiếc ghế bành, bữa sárig được đặt trên chiếc bàn bên cạnh, ngắm nhìn xuống hàng cây cao ở sân sau với ánh mắt chua chát và hối tiếc.

Tôi biết anh đang nghĩ gì. Thói quen của anh vào mỗi mùa xuân chính là đi Pháp; và đã từ lâu anh nghĩ, cũng như George Moore[*], rằng Paris và tháng Năm là một. Nhưng cuộc di cư ồ ạt hậu chiến tranh của những người Mỹ mới phất sang Paris đã làm hỏng niềm vui của anh trong chuyến du hành hàng năm này; và mới chỉ một ngày trước thôi, anh báo cho tôi biết rằng chúng tôi phải ở lại New York đến mùa hè.

Nhiều năm qua tôi đã là bạn và là cố vấn pháp luật của Vance - như một người hợp tác và quản lý sổ sách. Tôi đã bỏ việc ở văn phòng luật sư của cha tôi, Davis & Van Dine, để dồn hết tâm huyết cho niềm đam mê của anh - một vị trí mà tôi nhận ra thoải mái hơn hẳn việc làm luật sư bình thường trong một văn phòng ngột ngạt - và dù chỗ ở của tôi nằm trong một khách sạn ở West Side, tôi dành phần lớn thời gian của mình ở căn hộ của Vance.

Sáng hôm đó tôi đến sớm, trước cả lúc Vance thức dậy, và sau khi đã xem qua các sổ sách của tháng, tôi ngồi hút tẩu thuốc một cách lơ đãng trong khi anh dùng điểm tâm.

“Anh biết không, Van,” anh nói với tôi, bằng giọng lè nhè không cảm xúc; “cái viễn cảnh về mùa xuân và mùa thu ở New York đều không hào hứng hay lãng mạn gì cả. Nó sẽ cực kỳ buồn tẻ. Nhưng nó sẽ ít phiền phức hơn việc đi lại ở châu Âu với đám du khách tầm thường chen lấn nhau… Điều đó thật phiền não.”

Anh không tài nào ngờ được những tuần tiếp theo sau đó mang lại cho anh điều gì. Anh biết tôi ngờ vực cả cái viễn cảnh mùa xuân thời tiền chiến ở Paris sẽ mang anh đi; vì trí óc vô độ của anh chẳng khác gì một vấn đề phức tạp; thậm chí lúc anh nói với tôi vào sáng hôm đó rằng các vị thần điều khiển số phận của anh đang chuẩn bị một câu đố kỳ lạ và quyến rũ cho anh - một câu đố làm khuấy động cả đất nước và thêm một chương mới tồi tệ vào biên niên sử của tội ác.

Vance vừa mới rót thêm cốc cà phê thứ hai thì Currie, ông quản gia người Anh già nua và cũng là người giúp việc, xuất hiện tại cánh cửa kiểu Pháp cùng với chiếc điện thoại.

“Là anh Markham, thưa anh,” ông ta nói một cách xin lỗi. “Vì nghe giọng anh ta có vẻ khá vội vã, nên tôi tự cho phép mình báo với anh ta rằng anh có ở nhà.” Ông ta cắm chiếc điện thoại vào đế, và đặt nó lên chiếc bàn ăn sáng.

“Làm đúng lắm, Currie,” Vance thì thầm, cầm điện thoại lên. “Bất cứ thứ gì để phá bỏ sự đơn điệu chán ngắt này.” Tiếp đó anh nói chuyện với Markham. “Này, ông bạn già, có bao giờ anh ngủ không? Tôi đang dùng omelette aux fines herbes[*]. Anh có muốn ăn cùng không? Hay là anh chỉ đang muốn nghe giọng nói của tôi…?”

Bỗng nhiên anh ngừng lại, và vẻ đùa cợt trên gương mặt gầy guộc của anh biến mất. Vance là mẫu người Bắc Âu điển hình, với gương mặt dài và góc cạnh; cặp mắt xám, nằm xa nhau; chiếc mũi cao; và cằm thẳng hình trái xoan. Miệng anh rõ nét trên khuôn mặt nhưng nó lại mang vẻ chua cay độc địa, đậm chất Địa Trung Hải hơn Bắc Âu. Gương mặt anh cứng cáp và cuốn hút, cũng không hẳn là đẹp trai. Đó là một gương mặt của một người trầm tư và sống ẩn dật; và trông có vẻ mỉa mai - cẩn trọng và nội tâm - đóng vai trò như một tấm rào chắn ngăn cách anh và bạn bè của mình.

Dù anh có bản tính trầm tư và kiên trì rèn luyện bản thân để kiềm chế cảm xúc của mình, tôi để ý được, lúc anh lắng nghe Markham nói qua điện thoại vào sáng hôm đó, anh không thể hoàn toàn che giấu được niềm hứng thú của mình dành cho thứ anh được kể. Lông mày hơi nhíu lại; và ánh mắt của anh cũng phản chiếu lại sự sửng sốt trong lòng. Thỉnh thoảng anh thốt lên “Kinh ngạc thật!” hay “Trời ạ!” hay “Cực kỳ khác thường!” - những câu chêm vào yêu thích nhất của anh - và sau vài phút anh nói với Markham, sự hào hứng tò mò biểu hiện trong cử chỉ của anh.

“Bằng mọi giá!” Anh nói. “Tôi không nên bỏ lỡ nó vì những vở hài kịch bị thất lạc của Menander… Nghe có vẻ điên rồ… Tôi sẽ đi thay đồ ngay lập tức… Au revoi[*].”

Đặt ống nghe xuống, anh gọi Currie.

“Bộ vét màu xám,” anh yêu cầu. “Cà vạt tối, và nón Homburg[*] màu đen của tôi.”

Rồi anh quay lại món trứng chiên với mối bận tâm.

Sau một lúc lâu anh nhìn tôi một cách thách đố.

“Anh biết gì về môn bắn cung, Van?” Anh hỏi.

Tôi không biết gì về môn này cả, chỉ biết là nó bao gồm việc bắn mũi tên vào mục tiêu, và tôi cũng thú nhận bấy nhiêu đó.

“Anh không thú vị gì cả, anh biết không?” Anh lười biếng châm lửa một điếu thuốc Régie. “Tuy nhiên, chúng ta có chút liên quan đến bắn cung, có vẻ như vậy. Bản thân tôi không dẫn đầu trong môn này, nhưng tôi cũng đã thử nghịch với cây cung ở Oxford. Nó không phải là thú tiêu khiển hào hứng cho lắm - chán hơn golf nhiều và rất phức tạp.” Anh mơ mộng hút thuốc. “Này, Van; lấy giúp tôi quyển sách về bắn cung của tiến sĩ Elmer ở thư phòng - có một chương khá hay.”[*]

Tôi mang quyển sách đến, và anh chìm đắm vào nó gần nửa tiếng đồng hồ, đọc đi đọc lại những chương liên quan đến bắn cung, các giải đấu và các trận thi đấu, và rà soát bảng phân loại điểm số cao nhất của Mỹ. Anh ngồi ngay ngắn trên ghế khá lâu. Hiển nhiên là anh đã tìm ra thứ gì đó khiến anh chú ý và điều đó đã kích hoạt tâm trí nhạy cảm của anh phải hoạt động.

“Khá điên rồ đây, Van,” anh bình luận, ánh mắt nhìn vào hư không. “Một thảm kịch thời trung cổ ở thành phố New York hiện đại! Chúng ta không mang những đôi ủng và áo khoác da nữa, ấy vậy mà - trời ơi!” Anh đột nhiên ngồi thẳng dậy. “Không… không! Thật vô lý. Tôi đã để sự điên rồ từ tin tức của Markham ảnh hưởng đến mình…” Anh uống thêm cà phê, nhưng sắc mặt của anh nói cho tôi biết rằng anh không thể giải thoát bản thân mình ra khỏi cái ý tưởng đã chiếm lấy anh.

“Thêm một việc nữa, Van,” lúc lâu sau anh nói. “Lấy giúp tôi quyển từ điển tiếng Đức và tuyển tập ‘Home book of verse’ của Burton E. Stevenson[*] đi.”

Khi tôi đã đem số sách đến, anh tìm một từ trong từ điển xong đẩy quyển sách ra xa.

“Không may là chỉ có vậy, dù tôi đã biết rõ từ lâu.”

Sau đó anh quay sang phần tuyển tập khổng lồ của Stevenson bao gồm những bài hát ru và đồng dao. Vài phút sau anh cũng đóng cuốn sách đó lại và duỗi người trên ghế, nhả một làn khói thuốc dài ra mái hiên trên đầu.

“Không thể như vậy được,” anh phản đối, như thể phản đối chính mình. “Nó quá kỳ quái, quá hung bạo, quá méo mó. Một câu chuyện cổ tích đẫm máu, một thế giới kỳ dị, một sự sai trái của tất cả lý lẽ… Không thể tưởng tượng được, phi lý, như yêu thuật và những phép màu ma quái. Nó hết sức điên loạn.”

Anh liếc nhìn đồng hồ, đứng dậy, đi vào nhà, bỏ mặc tôi suy đoán mơ hồ về nguyên nhân gây ra sự xáo trộn hiếm thấy ở anh. Một quyển sách chuyên luận về bắn cung, một cuốn từ điển tiếng Đức, một tuyển tập đồng dao dành cho trẻ con, và những câu nói khó hiểu của Vance về sự điên rồ và kỳ dị - những thứ này có thể có mối liên hệ khả thi gì đây? Tôi thử tìm ra một mẫu số chung nhỏ nhất, nhưng không chút thành công. Và việc tôi thất bại thì cũng chả có gì là đáng ngạc nhiên. Ngay cả sự thật, khi nó xuất hiện vài tuần sau với một loạt bằng chứng không thể chối cãi, dường như quá khó tin và quá xấu xa mà đầu óc của một người bình thường có thể chấp nhận được.

Vance nhanh chóng phá vỡ suy đoán vô ích của tôi. Anh ăn mặc để ra ngoài, và có vẻ sốt ruột với sự đến trễ của Markham.

“Anh biết không, tôi muốn thứ gì đó làm tôi hứng thú - một vụ án cực kỳ thú vị, ví dụ như vậy,” anh bình luận; “nhưng - trời ạ! - tôi không hẳn mong chờ một cơn ác mộng. Nếu tôi không quen thân với Markham thì tôi sẽ nghĩ ngờ anh ta đang đùa cợt.”

Khi Markham bước vào khu vườn trên sân thượng vài phút sau, quá rõ ràng rằng anh ta vô cùng nghiêm túc. Biểu cảm của anh ta vừa u sầu vừa lo âu, và lời chào thân mật thường thấy ở anh ta chỉ còn là câu chào xã giao ngắn gọn. Markham và Vance là bạn thân của nhau được 15 năm. Dù bản chất thì hoàn toàn tươmg phản - một người thì cứng rắn, cộc cằn, thẳng thắn và gần như nghiêm nghị đến chán ngắt; người kia thì lại thất thường, hoài nghi, hòa nhã và không quan tâm đến những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống - họ vẫn tìm thấy sức hút từ sự bổ trợ nhau như là nền tảng của một tình bằng hữu bền bỉ và không thể tách rời.

Trong một năm bốn tháng Markham làm công tố viên quận New York, anh ta thường gặp Vance bàn bạc các vấn đề quan trọng, và mỗi lần như vậy Vance luôn chứng minh được sự tin tưởng dành cho anh là hoàn toàn đúng chỗ. Thật vậy, Vance đóng góp gần như toàn bộ công lao phá nhiều vụ án xảy ra trong khoảng bốn năm đương nhiệm của Markham. Kiến thức của anh về bản chất con người, những am hiểu về văn hóa, tư duy logic sắc sảo và tài đánh hơi sự thật bị che giấu bên dưới những vẻ ngoài giả tạo, tất cả đều thích hợp để anh làm công việc của một thám tử điều tra tội phạm - một công việc mà anh làm không chính thức liên quan đến những vụ án do Markham đảm trách.

Vụ án đầu tiên của Vance, không thể quên được, là vụ án mạng Alvin Benson[*], và nếu không có sự tham gia của anh vào vụ án đó thì tôi nghi rằng sự thật còn lâu mới được đưa ra ánh sáng. Tiếp theo là vụ án tai tiếng về việc bóp cổ Margaret Odell[*] - một vụ giết người bí ẩn mà phương pháp điều tra thông thường của cảnh sát chắc chắn sẽ thất bại. Và năm ngoái, vụ án mạng Greene kinh hoàng (mà tôi đã nhắc đến) không chắc gì sẽ thành công nếu Vance không ra tay phá hỏng ý định cuối cùng của chúng.

Vì thế không có gì đáng ngạc nhiên khi Markham tìm đến Vance ngay từ đầu vụ án mạng Giám Mục. Càng lúc tôi càng để ý thấy anh ta dựa dẫm vào sự giúp đỡ của người khác trong việc điều tra tội phạm của anh ta; và trong trường hợp hiện tại, đặc biệt thuận lợi khi anh ta tìm đến Vance, để thông qua kiến thức chuyên sâu của Vance về những biểu hiện tâm lý khác thường của đầu óc con người, có thể phát hiện ra những âm mưu điên rồ, xấu xa và tìm ra được thủ phạm.

“Toàn bộ chuyện này có thể là tình trạng lộn xộn rối beng,” Markham nói, mà không có sự quả quyết. “Nhưng tôi nghĩ có lẽ anh muốn đi cùng…”

“Ồ. Đúng đấy!” Vance mỉm cười chế nhạo Markham. “Ngồi xuống một lát và kể mạch lạc câu chuyện đi. Xác chết không chạy đi đâu được đâu. Và tốt nhất là nên sắp xếp các sự kiện của chúng ta theo thứ tự nào đó trước khi chúng ta xem xét hiện trường. - Chẳng hạn như, những người đầu tiên liên quan là ai? Và tại sao Văn phòng Công tố quận lại đưa ra phán đoán rằng đây là một vụ giết người chỉ trong vòng một giờ sau khi nạn nhân chết? Những thứ mà anh kể cho tôi nghe từ đầu đến giờ quá đỗi vô lý.”

Markham phiền muộn ngồi xuống mép ghế và vân vê điếu xì gà.

“Thật chết tiệt, Vance! Đừng bắt đầu với thái độ ‘Những bí ẩn của Udolpho’[*]. Tội ác - nếu đây là một tội ác - có vẻ đủ rõ ràng rồi. Đây là phương thức giết người không bình thường, tôi công nhận; nhưng chắc chắn nó không vô lý. Gần đây môn bắn cung trở nên được yêu thích. Cung và tên đang được sử dụng hầu như khắp các thành phố và trường đại học ở Mỹ.”

“Cứ cho là vậy. Nhưng đã lâu lắm rồi chúng mới được dùng để giết người có tên là Robin.”

Markham nheo mắt lại, và anh ta nhìn Vance dò xét.

“Ý tưởng đó cũng nảy ra trong anh, phải không?”

“Nảy ra trong tôi ư? Nó nhảy vào đầu tôi ngay lúc anh nhắc đến tên của nạn nhân.” Vance hút bập bập điếu thuốc. “‘Ai giết Chim Cổ Đỏ?’[*] Và bằng một cây cung và mũi tên!… Kỳ lạ làm sao bài đồng dao biết lúc còn nhỏ cứ lởn vởn trong đầu tôi. - Nhân tiện, tên của anh Robin xấu số này là gì vậy?”

“Joseph, hình như vậy.”

“Không sáng sủa hơn và cũng không gợi ý được gì… Có tên đệm không?”

“Xem này, Vance!” Markham cáu kỉnh đứng dậy. “Tên đệm của người bị sát hại thì có liên quan gì đến vụ án chứ?”

“Tôi không say đâu. Chỉ là chúng ta đang phát điên thì tại sao không điên đến cùng luôn. Một chút tỉnh táo ở đây cũng không mang lại giá trị gì.”

Anh rung chuông gọi Currie và bảo ông ta đi lấy quyển danh bạ điện thoại. Markham phản đối, nhưng Vance giả vờ không nghe thấy; và khi quyển danh bạ được mang đến anh lật tìm trên các trang một lát.

“Có phải nạn nhân sống ở đường Riverside Drive[*] không?” Cuối cùng anh hỏi, giữ ngón tay trên một cái tên được tìm thấy.

“Tôi nghĩ là vậy.”

“Chà, chà.” Vance đóng quyển danh bạ lại, và dán đôi mắt giễu cợt mang vẻ đắc thắng vào vị công tố viên. “Markham,” anh chậm rãi nói, “chỉ có một Joseph Robin được liệt kê trong cuốn danh bạ điện thoại. Anh ta sống ở đường Riverside Drive, và tên đệm của anh ta là… Cochrane!”

“Chuyện quái này là sao?” Giọng nói của Markham gần như dữ tợn. “Cứ cho tên anh ta là Cochrane đi: anh có nghiêm túc không khi gợi ý rằng thông tin này có liên quan đến việc anh ta bị giết?”

“Ôi trời ơi, ông bạn già, tôi không gợi ý gì cả.” Vance hơi nhún vai. “Tôi chỉ đang ghi nhận, cứ coi như là, một vài sự kiện liên quan đến vụ án. Vấn đề hiện tại chính là: một anh Joseph Cochrane Robin - tức là: Chim Cổ Đỏ - đã bị giết bằng cung tên. - Ngay cả điều đó cũng không khiến bộ óc pháp luật của anh thấy quá đỗi lạ lùng sao?”

“Không!” Markham thốt ra lời phủ định. “Cái tên của người chết cũng chỉ bình thường thôi; và cũng ngạc nhiên là không có thêm người bị giết hoặc bị thương với trò bắn cung đang phổ biến trở lại trên khắp cả nước. Hơn nữa, hoàn toàn có khả năng cái chết của Robin là kết quả của một vụ tai nạn.”

“Ôi trời ạ!” Vance lắc đầu trách móc. “Lập luận đó, cho dù có đúng đi nữa, thì cũng không giúp ích được cho tình huống này là bao nhiêu. Nó chỉ khiến vụ việc trở nên kỳ quặc hơn thôi. Trong số hàng ngàn cung thủ ở tiểu bang này, người có tên giống Chim Cổ Đỏ lại tình cờ bị giết bởi một mũi tên! Giả thuyết như vậy sẽ dẫn chúng ta đến thuyết thông linh, quỷ thần học và tương tự. Dù sao đi nữa, anh có tin vào những loài ma quái, những thứ giở trò đùa ác quỷ lên loài người hay không?”

“Tôi phải là một nhà thần thoại học thì mới được công nhận sự ngẫu nhiên sao?” Markham cáu gắt hỏi lại.

“Ông bạn ơi! Cánh tay của sự ngẫu nhiên không vươn xa đến vô tận được đâu. Dù sao thì cũng có quy luật của xác suất, dựa trên các công thức toán học xác định. Sẽ khiến tôi buồn nếu nghĩ rằng những người như Laplace[*], Czuber[*] và von Kries[*] đã sống một cách vô ích. - Tuy nhiên, tình huống hiện tại thậm chí còn phức tạp hơn anh nghĩ. Ví dụ như anh từng nói trên điện thoại rằng người cuối cùng được biết là đã ở cùng Robin trước khi anh ta chết có tên là Sperling.”

“Và ý nghĩa bí mật gì nằm trong sự kiện đó?”

“Có lẽ anh biết Sperling trong tiếng Đức có nghĩa là gì,” Vance nhẹ nhàng gợi ý.

“Tôi có học trung học,” Markham vặn lại. Sau đó anh ta trợn mắt, và cả người anh ta trở nên căng thẳng.

Vance đẩy cuốn từ điển tiếng Đức về phía anh ta. “Dù sao thì cũng tra từ đó đi. Chúng ta nên kỹ lưỡng một chút. Bản thân tôi đã tra cứu rồi. Tôi sợ trí tưởng tượng đang đùa giỡn với mình, và tôi muốn được nhìn thấy từ đó trên giấy trắng mực đen.”

Markham im lặng mở cuốn từ điển ra, và để con mắt của mình chạy dọc xuống trang giấy. Sau khi nhìn chằm chằm vào từ đó một lúc lâu anh ta cố gắng đứng dậy một cách gượng gạo, cứ như đang chống lại một câu thần chú. Khi anh ta lên tiếng, giọng của anh ta khá ngang ngược.

“Sperling có nghĩa là ‘chim sẻ.’ Cậu học sinh nào cũng biết. Vậy thì sao?”

“Ồ, chắc chắn rồi.” Vance uể oải châm một điếu thuốc khác. “Và bất cứ cậu học sinh nào cũng biết bài đồng dao cổ có tên ‘Cái chết và việc mai táng Chim Cổ Đỏ,’ như thế nào?” Anh giễu cợt nhìn Markham, đang đứng bất động nhìn những tia nắng mùa xuân. “Vì anh giả vờ không biết bài đồng dao tuổi thơ kinh điển đó nên cho phép tôi đọc đoạn đầu nhé.”

Một cơn ớn lạnh, như sự có mặt của ma quỷ vô hình nào đó, quét qua tôi khi Vance lặp lại những câu quen thuộc ngày xưa:

“Ai giết Chim Cổ Đỏ?

‘Chính ta,’ chim sẻ nói,

‘Bằng cung và tên thôi,

Ta giết Chim Cổ Đỏ.”’

Chú Thích:

[*] “The Greene Murder Case” (Vụ án mạng Greene) (NXB Scribner 1928).

[*] Thế vận hội Mùa đông 1928, tên chính thức là Thế vận hội Mùa đông thứ II, là một sự kiện thể thao mùa đông tổ chức từ ngày 11-19 tháng 2 năm 1928 tại St. Moritz, Thụy Sĩ. Thế vận hội Mùa đông 1928 là Thế vận hội Mùa đông đầu tiên tổ chức riêng mà không phải là kết hợp với Thế vận hội Mùa hè.

[*] Menander (khoảng 342 - 290 TCN): nhà soạn kịch người Hy Lạp. Ông là người đại diện nổi tiếng của hài kịch Athens cổ đại. Ông đã viết 108 hài kịch. Tuy là một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của thời cổ đại, các tác phẩm của ông đã bị thất lạc trong thời Trung cổ và được biết đến hiện nay một cách rất rời rạc, khá nhiều trong số đó đã được phát hiện trong thế kỷ 20. Chỉ có một vở kịch, Dyskolos, đã được phục hồi gần như hoàn toàn.

[*] Xenophon (khoảng 430 - 354 TCN): nhà sử học, người lính Hy Lạp và là học trò của Socrates, ông được biết đến vì đã viết lịch sử của thời đại mà ông sống, những năm cuối thế kỷ thứ 5 và đầu thế kỷ thứ 4 TCN, đặc biệt là những ghi chép của ông trong những năm cuối cùng của chiến tranh Peloponnesus.

[*] Anabasis là tác phẩm nổi tiếng nhất của Xenophon. Trong Anabasis có đoạn kể lại chiến dịch rút lui 10.000 quân Hy Lạp đánh thuê ở vùng Lưỡng Hà trở về Biển Đen dưới sự chỉ huy của Xenophon.

[*] Memorabilia, tác phẩm của Xenophon, viết về các cuộc đối thoại cùa Socrates.

[*] Amicus curiae (tiếng Latin): thân hữu tòa án.

[*] Cause célèbre (tiếng Pháp): vụ án nổi tiếng.

[*] “Mother Goose Melodies” (Đồng dao Mẹ Ngỗng): một tuyển tập đồng dao rất phổ phiến ở các nước châu Âu và Mỹ.

[*] Ông Joseph A. Margolies của nhà sách Brentano’s nói với tôi rằng vài tuần trong lúc xảy ra vụ án mạng Giám Mục, những bản in “Đồng dao Mẹ Ngỗng” đã được bán ra nhiều hơn bất kỳ cuốn tiểu thuyết hiện hành nào. Và một nhà xuất bản nhỏ đã tái bản và bán hết sạch các phiên bản của quyển đồng dao nổi tiếng này.

[*] George Augustus Moore (1852 - 1933): nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình và nhà viết kịch người Ireland.

[*] Omelette aux fines herbes (tiếng Pháp): món trứng chiên với các loại thảo mộc.

[*] Au revoir (tiếng Pháp): chào tạm biệt.

[*] Loại nón mềm, vành tròn của đàn ông.

[*] Quyển sách Vance nhắc đến là quyển chuyên luận xuất sắc và toàn diện, “Môn bắn cung” của tiến sĩ Robert P. Elmer.

[*] Burton Egbert Stevenson (1872 - 1962): tác giả người Mỹ và là nhà biên soạn các tuyển tập thơ, trích dẫn. “The home book of verse” (Hợp tuyển thơ) được ông biên soạn và xuất bản năm 1912.

[*] “The Benson Murder Case” (Vụ án mạng Benson, NXB Scribner, 1926)

[*] “The ‘Canary’ Murder Case” (Vụ án mạng ‘Chim Hoàng Yến’, NXB Scribner, 1927)

[*] “The mysteries of Udolpho” (Những bí ẩn của Udolpho), tiểu thuyết Gothic xuất bản năm 1794 của tác giả người Anh là Ann Radcliffe (1764 - 1823).

[*] Nguyên văn: ‘Who killed Cock Robin?’. Cock Robin có nghĩa là Chim Cổ Đỏ nhưng đồng thời cũng gần giống với tên của nạn nhân là Joseph Cochrane Robin.

[*] Riverside Drive: một con đường chạy song song với sông Hudson từ đường số 72 đến đường số 181 ở New York. Những con đường được, nhắc đến trong tác phẩm này đều đúng như vị trí địa lý thực tế của chúng ở New York.

[*] Pierre-Simon Laplace (1749 - 1827): nhà toán học và thiên văn học người Pháp. Ông cũng là người đầu tiên đưa ra phương trình Laplace. Biến đổi Laplace xuất hiện trong nhiều lĩnh vực của vật lý toán, một ngành mà ông là một trong những người sáng lập. Toán tử Laplace, được sử.dụng nhiều trong toán học ứng dụng, được đặt theo tên ông.

Mặc dù Laplace nổi tiếng với tác phẩm “Méchanique Céleste” (Cơ học thiển thể) của ông, ở đây Vance đang nhắc đến công trình lớn lao của ông là “Théorie Analytique des Probabilités” (Lý thuyết giải tích xác suất) được Herschel gọi là “sự cộng hưởng kỹ năng và tài năng của nhà toán học.”

[*] Emanuel Czuber (Í851 - 1925): nhà toán học người Áo.

[*] Johannes Adolf von Kries (1853 - 1928): nhà tâm lý học người Đức. Ngoài ra, ông cũng là một nhà lý luận quan trọng trong lĩnh vực xác suất.