Chương 2 TRÊN BÃI TẬP BẮN CUNG-(Thứ Bảy, 2 tháng Tư; 12.30 p.m.)
Markham chậm rãi đưa mắt về phía Vance.
“Điên rồ!” Anh ta nhận xét, giống như một người phải đối mặt cùng lúc với một thứ vừa đáng sợ vừa không thể giải thích được.
“Chà, chà!” Vance nhẹ nhàng xua tay. “Đó là việc đạo ý tưởng. Tôi đã nói về nó ngay từ đầu rồi.” (Anh đã cố gắng vượt qua những cảm giác lúng túng của mình bằng một phong thái nhanh nhẹn.) “Và giờ đây nên có một người tình để khóc thương vì sự ra đi của anh Robin. Anh nhớ lại đi, có lẽ, là đoạn thơ:
“Ai là chủ lễ tang?
‘Chính tôi,’ bồ câu nói,
Tiếc tình yêu mất rồi;
Tôi làm chủ lễ tang.’”
Markham hơi ngớ ra, và những ngón tay của anh ta gõ lên bàn theo một nhịp điệu kỳ lạ.
“Trời ơi, Vance! Có một cô gái trong vụ án này. Và có khả năng sự ghen tuông là nguyên nhân của chuyện này.”
“Bây giờ, cứ cho là như thế! Tôi nghĩ chuyện này sẽ phát triển thành một dạng tableau-vivant[*] dành cho những đứa trẻ mẫu giáo, phải không? Nhưng điều đó
sẽ làm cho công việc của chúng ta dễ dàng hơn. Tất cả những gì chúng ta phải làm là tìm một con ruồi.”
“Một con ruồi ư?”
“Musca domestica[*], nói một cách thông thái… Ông bạn Markham ơi, anh quên rồi sao?…
Ai thấy anh chết rồi?
Ruồi nói rằng ‘chính tôi,
Với đôi mắt nhỏ nhoi;
Tôi thấy anh chết rồi.’”
“Hãy trở lại thực tế đi!” Markham gắt gỏng. “Đây không phải là trò chơi của trẻ con. Đây là việc vô cùng nghiêm túc.”
Vance gật đầu một cách lơ đãng.
“Trò chơi trẻ con đôi khi lại trở thành một công việc nghiêm túc nhất trong đời.” Lời nói của anh chứa đựng vẻ kỳ lạ, xa xăm. “Tôi không thích điều này - tôi hoàn toàn không thích nó. Có quá nhiều trẻ con trong đó - đứa trẻ được sinh ra già cỗi với tâm trí bệnh tật. Nó giống như một thứ ghê tởm nào đó.” Anh hút một hơi dài từ điếu thuốc, và làm một điệu bộ tỏ vẻ ác cảm. “Cho tôi thông tin chi tiết đi. Hãy tìm ra nơi mà chúng ta đang đứng trong cái vùng đất hỗn loạn này.”
Markham ngồi xuống ghế.
“Tôi không có nhiều thông tin lắm. Thực tế thì tôi đã nói với anh mọi thứ mà tôi biết về vụ này qua điện thoại rồi. Là giáo sư Dillard gọi cho tôi ngay trước khi tôi nói chuyện với anh…”
“Dillard? Có phải là giáo sư Bertrand Dillard không?”
“Ông ấy đấy. Thảm kịch xảy ra ngay tại nhà ông ấy. - Anh biết ông ấy sao?”
“Cũng chẳng phải chuyện riêng tư gì cả. Tôi biết ông ấy cũng như giới khoa học biết về ông ấy thôi - một trong những nhà vật lý toán vĩ đại nhất. Hầu hết sách của ông ấy tôi đều có. - Sao ông ấy lại gọi cho anh vậy?
“Tối quen biết ông ấy gần hai mươi năm. Tôi học toán với ông ấy ở Columbia, và sau đó làm một số công việc pháp lý cho ông. Khi thi thể của Robin được tìm thấy thì ông ấy gọi ngay cho tôi - khoảng 11 giờ rưỡi. Tôi đã gọi cho trung sĩ Heath ở Cục Hình sự và chuyển vụ này cho anh ta - và tôi đã nói với anh ta rằng tôi sẽ đến gặp anh ta sau. Rồi tôi gọi cho anh. Bây giờ trung sĩ và người của anh ta đang đợi tôi ở nhà của giáo sư Dillard.”
“Tình hình trong nhà đó ra sao?”
“Giáo sư, như anh biết, đã xin thôi việc từ khoảng mười năm trước. Kể từ đó, ông sống ở đường số 75 Tây[*], gần đường Drive[*]. Ông ấy mang theo đứa con của em trai mình - một cô bé mười lăm tuổi. Giờ cô ấy chắc được hai mươi lăm rồi. Kế đến là người được ông bảo trợ, Sigurd Arnesson, người bạn cùng lớp với tôi ở trường đại học. Giáo sư nhận anh ta làm con nuôi từ lúc nhỏ. Hiện giờ Arnesson khoảng bổn mươi, là giảng viên toán tại Columbia. Anh ta rời Na Uy tới đất nước này khi mới lên ba, và 5 năm sau anh ta thành trẻ mồ côi. Anh ta có tố chất của một thiên tài về toán học, và giáo sư Dillard rõ ràng đã thấy rằng có thể đào tạo anh ta thành nhà vật lý học vĩ đại và đã nhận nuôi anh ta.”
“Tôi có nghe về Arnesson,” Vance gật gù. “Gần đây anh ta đã công bố một số biến đổi của lý thuyết Mie[*] về điện động lực học của các vật di chuyển… Và chỉ có ba người này - giáo sư Dillard, Arnesson và cô cháu gái – sống ở đó à?”
“Với hai người hầu. Giáo sư Dillard dường như có thu nhập rất cao. Tuy nhiên, họ sống không biệt lập lắm đâu. Ngôi nhà như là một cung điện dành cho các nhà toán học, và có vẻ là một cénacle[*] khá tuyệt vời. Ngoài ra, cô gái, người luôn tham gia các hoạt động thể thao ngoài trời, sở hữu cho riêng mình một xã hội nhỏ. Tôi đã ở ngôi nhà đó vài lần, và lúc nào nó cũng có khách - một sinh viên nghiêm túc hoặc hai nhà khoa học trừu tượng trong thư viện trên lầu, hoặc một vài người trẻ tuổi ồn ào ở phòng khách bên dưới.”
“Còn Robin thì sao?”
“Anh ta - một người đàn ông trung niên cởi mở có vài thành tích về bắn cung - thuộc về nhóm của Belle Dillard.”
“Tôi biết mà. Tôi chỉ cần tìm cái tên này trong quyển sách nói về bắn cung. Một anh J. C. Robin dường như có thành tích cao trong một vài giải vô địch gần đây. Và tôi cũng ghi chú lại nữa, một anh Sperling đã từng là á quân trong vài giải đấu bắn cung lớn. - Vậy cô Dillard cũng là một cung thủ à?”
“Đúng vậy, một người khá đam mê. Trong thực tế, cô ấy đã tổ chức câu lạc bộ bắn cung Riverside. Bãi tập luyện là ở nhà của Sperling tại Scarsdale; nhưng cô Dillard đã dựng một bãi tập bên cạnh sân nhà của vị giáo sư ở đường số 75. Đó là nơi Robin đã bị giết.”
“À! Và, như anh nói, người cuối cùng gặp anh ta là Sperling. Con chim sẻ của chúng ta giờ đang ở đâu?”
“Tôi không biết. Anh ta đã gặp Robin ngay trước khi thảm kịch xảy ra; nhưng khi cái xác được tìm thấy thì anh ta đã biến mất. Tôi nghĩ Heath sẽ có tin tức về điều đó.”
“Và đâu đó cũng có thể có động cơ về sự ghen tuông mà anh đề cập đến chứ?” Mí mắt Vance rũ xuống lờ đờ, và anh hút thuốc một cách thong thả nhưng rõ ràng lại đang có sự cân nhắc - một dấu hiệu cho thấy sự quan tâm đặc biệt của anh về những điều được nghe kể.
“Giáo sư Dillard có đề cập đến chuyện giữa cháu gái ông ấy và Robin; và khi tôi hỏi ông ấy Sperling là ai và tình hình của anh ta lúc ở nhà Dillard, ông ấy tâm sự là Sperling đã cầu hôn cô cháu gái. Tôi không nói việc này qua điện thoại, nhưng tôi nhận thấy Robin và Sperling là tình địch, và Robin có vẻ có lợi thế hơn hẳn.
“Và vì thế chim sẻ đã giết Chim Cổ Đỏ.” Vance lắc đầu một cách ngờ vực. “Không thể nào. Chuyện này quá đơn giản; và điều đó không giải thích được cho vở kịch vô cùng hoàn hảo theo bài đồng dao Chim Cổ Đỏ. Phải là thứ gì đó thâm hiểm hơn - thứ gì đó đen tối và kinh khủng hơn - trong câu chuyện kỳ quặc này. - Nhân tiện, ai là người tìm thấy Robin?”
“Là giáo sư Dillard. Ông ấy đứng trên ban công nhỏ phía sau nhà, và thấy Robin nằm ở bãi tập, với một mũi tên ngay tim. Ông ấy chạy xuống nhà ngay lập tức - với một ông lão bị gout[*] thì chuyện đó có vẻ rất khó khăn - và nhìn thấy anh ta đã chết, ông ấy liền gọi cho tôi. - Đó là toàn bộ những thông tin trước đó mà tôi có.”
“Chưa có gì sáng tỏ cả, nhưng vẫn có một chút gợi ý.” Vance đứng lên. “Ông bạn Markham thân mến, hãy chuẩn bị cho một thứ khá kỳ lạ - và đáng ghê tởm. Chúng ta có thể loại trừ rằng đó là một tai nạn hay một sự trùng họp ngẫu nhiên. Trong khi sự thật là những mũi tên thông thường - được làm bằng gỗ mềm và gắn những cọc xiên nhỏ - có thể dễ dàng xuyên qua quần áo và đâm vào lồng ngực, ngay cả khi nó được bắn bởi một cây cung cỡ trung, sự thật là người có tên ‘Chim Sẻ’ có thể giết người có tên Cochrane Robin, bằng cây cung và mũi tên, loại trừ bất kỳ tình huống trùng hợp ngẫu nhiên nào. Thật vậy, sự kiện đáng kinh ngạc này đã chứng minh một cách chắc chắn rằng có một mục đích xảo quyệt, độc ác ẩn sau vụ án.” Anh bước về phía cửa. “Đi thôi, hãy tìm thêm điều gì đó ở thứ mà cảnh sát Áo gọi là situs criminis[*].”
Chúng tôi rời khỏi nhà ngay lập tức và lái xe lên phố bằng xe của Markham. Đến Công viên Trung tâm[*] ở đại lộ 5, đi vào đường băng ngang công viên rồi đi sang đường số 72, và sau vài phút đi vào đại lộ West End rồi rẽ vào đường số 75. Nhà của giáo sư Dillard - số 391 - ở phía bên phải chúng tôi, phía xa là dãy nhà nhìn ra sông. Giữa nó và đường Drive, là tòa nhà chung cư lớn mười lăm tầng chiếm toàn bộ góc đường. Ngôi nhà của vị giáo sư dường như nép mình, như thể để chống đỡ vậy, trong cái bóng của cấu trúc khổng lồ kia.
Nhà của gia đình Dillard là ngôi nhà bằng đá màu xám hơi tối, và thuộc về thời kỳ mà nhà ở được xây dựng vì sự bền vững và tiện nghi. Khu đất có mặt tiền 35 foot[*], và ngôi nhà rộng 25 foot[*]. 10 foot[*] còn lại của khu đất, tạo thành lối đi tách rời ngôi nhà với chung cư, được ngăn cách với đường bằng bức tường đá 10 foot với một cửa sắt lớn ở giữa.
Ngôi nhà theo lối kiến trúc thuộc địa cải biên. Vài bậc tam cấp dẫn từ ngoài đường vào hiên nhà hẹp lát gạch được trang hoàng với bốn cây cột trắng kiểu Corinthian[*]. Ở tầng hai là hàng loạt cửa sổ hai cánh, được gắn những tấm kính chữ nhật, chạy theo chiều rộng toàn ngôi nhà. (Những điều này, sau đó tôi được biết, là những cửa sổ của thư viện.) Có gì đó ở nơi này rất yên tĩnh và rất cổ xưa: nó xuất hiện giống như bao thứ khác nhưng lại là hiện trường của một tội ác khủng khiếp.
Hai xe cảnh sát đậu gần cửa ra vào khi chúng tôi đến, và có hàng tá người xem tò mò tụ tập trên đường. Một cảnh sát tuần tra uể oải tựa vào cột có những đường rãnh của hiên nhà, nhìn chằm chằm vào đám đông trước mặt anh ta với thái độ khinh khỉnh chán chường.
Ông lão quản gia tiếp chúng tôi và dẫn chúng tôi vào phòng khách bên trái sảnh, nơi chúng tôi thấy trung sĩ Ernest Heath và hai người khác đến từ Cục Hình sự. Viên trung sĩ, đang đứng bên cạnh bàn trà hút thuốc, ngón tay cái móc vào áo gile, tiến về phía chúng tôi và thân thiện bắt tay Markham.
“Tôi rất vui khi thấy anh ở đây,” anh ta nói; và cái nhìn lo lắng trong đôi mắt xanh lạnh lùng của anh ta dường như giảm đi chút ít. “Tôi đã chờ đợi anh. Có điều gì đó rất đáng ngờ về vụ này.”
Anh ta bắt gặp cái nhìn của Vance, người nãy giờ vẫn ở bên cạnh làm nền, và nét mặt thô bè của anh ta nở nụ cười thân thiện.
“Xin chào, anh Vance. Tôi đã có một ý nghĩ thầm kín là anh sẽ bị kéo vào vụ này. Anh đã làm gì trong suốt mấy tháng qua?” Tôi không thể so sánh biểu hiện thân thiện này của viên trung sĩ với thái độ thù hằn trong lần đầu tiên anh ta gặp Vance ở vụ Benson. Nhưng đó đã là quá khứ kể từ lần đầu họ chạm trán ở phòng khách trong vụ ám sát Alvin; giữa Heath và Vance đã có thêm sự gắn bó nhiệt tình, dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau và sự ngưỡng mộ thẳng thắn dành cho nhau.
Vance đưa tay ra, và nở nụ cười ở khoé môi.
“Sự thật là, trung sĩ à, tôi đã nỗ lực để tìm lại những vinh quang trong quá khứ của một người Athens tên là Menander, một đối thủ về kịch nghệ của Philemon[*]. Thật ngớ ngẩn, phải không?”
Heath càu nhàu với vẻ khinh khỉnh.
“Được quá, dù sao đi nữa, nếu anh có thể làm tốt việc đó như việc tìm ra thủ phạm, chắc hẳn anh sẽ đạt được thành công.” Đó là lời khen ngợi đầu tiên mà tôi nghe được từ miệng anh ta, và nó không chỉ chứng minh cho việc ngưỡng mộ của anh ta dành cho Vance, mà còn cho thấy những rắc rối và suy nghĩ bấp bênh của chính viên trung sĩ.
Markham cảm nhận được sự bất an của viên trung sĩ, và hỏi một cách đột ngột: “Dường như có trở ngại trong vụ này?”
“Tôi không biết là có trở ngại gì, thưa anh”, Heath đáp. “Có vẻ như chúng ta có một người đàn ông đã chết là điều rõ ràng rồi. Nhưng tôi không cảm thấy hài lòng, và - ôi, trời! - anh Markham ạ… nó thật bất thường, nó chẳng gợi lên ý gì cả.”
“Tôi nghĩ là tôi hiểu điều anh muốn nói.” Markham nhìn viên trung sĩ với vẻ dò xét. “Anh có nghĩ theo hướng Sperling có tội không?”
“Chắc chắn, anh ta có tội,” Heath quả quyết. “Nhưng đó không phải là điều làm tôi lo lắng. Để tôi nói cho anh biết sự thật, tôi không thích tên của gã sát nhân này - đặc biệt là khi hắn giết người bằng một cây cung và mũi tên…” Anh ta do dự, với chút ngại ngùng. “Anh không thấy kỳ quặc sao?”
Markham bối rối gật đầu.
“Tôi cũng hiểu điều anh nói, nhớ lại bài đồng dao xem,” anh ta nói và quay đi.
Vance nhìn Heath bằng ánh mắt hài hước.
“Bây giờ anh cứ xem anh Sperling như là một ‘con chim’, trung sĩ à. Cách gọi này là thích hợp nhất. Sperling, anh hiểu chứ, trong tiếng Đức có nghĩa là ‘chim sẻ’. Và đó là một con chim sẻ, anh hãy nhớ lại đi, kẻ đã giết Chim Cổ Đỏ bằng một mũi tên… Một tình huống hấp dẫn chứ - phải không?”
Mắt của viên trung sĩ mở to, và miệng thì há hốc. Anh ta nhìn Vance chằm chằm với vẻ hoang mang gần như lố bịch.
“Tôi đã nói là chuyện này thật đáng ngờ mà!”
“Tôi muốn nói, đúng hơn là, nó thuộc về loài chim, anh không biết đấy thôi.”
“Anh nói về những thứ mà không ai hiểu cả,” Heath hung hăng vặn lại. Đó là thói hiếu chiến của anh ta khi đối mặt với những điều không thể giải thích được.
Markham đành phải xen vào.
“Hãy thu thập những chi tiết của vụ án này, trung sĩ. Tôi lấy chúng còn anh hãy hỏi cung những người trong nhà.”
“Chỉ là việc thông thường thôi, thưa anh.” Heath đặt chân vào góc bàn và châm lại điếu thuốc đã tắt. “Tôi đang đợi anh đến để anh quyết định. Tôi biết anh quen với quý ông cao tuổi ở tầng trên; nên tôi mới chỉ làm vài thủ tục nhỏ. Tôi đã để một người ở con hẻm trông chừng không cho ai chạm vào xác nạn nhân cho đến khi bác sĩ Doremus[*] đến, ông ấy sẽ đến ngay khi xong bữa trưa. Tôi đã gọi người đến lấy dấu vân tay trước khi rời khỏi văn phòng, và họ có thể bắt đầu công việc bất cứ lúc nào; mặc dù tôi không biết họ có giúp được gì không…”
“Vậy còn cây cung đã bắn mũi tên?” Vance xen vào.
“Đó là cái mà chúng ta phải đánh cuộc; nhưng ông lão Dillard nói rằng đã nhặt nó từ con hẻm và mang nó vào nhà. Ông ấy có lẽ đã chạm lên những dấu tay đã có.”
“Anh có biết gì về Sperling không?” Markham hỏi.
“Tôi đã có địa chỉ - anh ta sống trong một căn nhà ở ngoại ô gần Westchester - và đã cử hai người đưa anh ta đến đây ngay khi họ gặp anh ta. Sau đó tôi cũng đã nói chuyện với hai người giúp việc - là ông lão đã đưa anh vào đây, và con gái của ông ta, một người phụ nữ trung niên phụ trách nấu ăn. Nhưng chẳng ai trong số họ biết về điều gì cả, hoặc là họ đang giả vờ. Sau đó tôi định hỏi chuyện quý cô trẻ tuổi trong nhà.” Viên trung sĩ giơ tay lên trong điệu bộ cáu kỉnh thất vọng. “Nhưng cô ấy vừa mới bị tổn thương và đang khóc; nên tôi nghĩ tôi nên để vinh dự lấy lời khai của cô ấy cho các anh. Snitkin và Burke” - anh ta chỉ tay về phía hai vị thám tử đang đứng trước cửa sổ - “đã xuống tầng hầm, con hẻm và sân sau thử xem có nhặt nhạnh được thứ gì không, nhưng chẳng được gì cả. Và đó là tất cả những gì tôi nắm được. Ngay khi Doremus và người lấy dấu vân tay đến, và sau khi tôi có cụộc trao đổi riêng với Sperling thì tôi sẽ làm trái bóng lăn[*] và xử lý công việc.
Vance thở dài.
“Anh lạc quan thật đấy, trung sĩ à! Đừng thất vọng khi trái bóng của anh lại là một khối hộp không thể lăn được. Có gì đó quá đỗi kỳ quặc về bài đồng dao này; và, trừ phi tất cả các dấu hiệu này lừa tôi, anh sẽ được chơi trò bịt mắt bắt dê trong thời gian dài sắp tới.”
“Thế sao?” Heath nhìn Vance bằng ánh mắt hoàn toàn chán nản. Đó là bằng chứng của việc anh ta không ít thì nhiều có cùng quan điểm đó.
“Đừng để Vance làm anh nản chí, trung sĩ à,” Markham trấn tĩnh anh ta. “Anh ta đã để trí tưởng tượng bay xa quá.” Sau đó với cử chỉ sốt ruột anh ta quay về phía cửa. “Hãy nhìn qua hiện trường trước khi những người khác đến. Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với giáo sư Dillard và những người khác trong gia đình. Và, nhân tiện, trung sĩ, anh không nhắc đến anh Arnesson. Anh ta không có ở nhà sao?”
“Anh ta đang ở trường đại học; nhưng hy vọng anh ta về sớm.”
Markham gật đầu và đi theo viên trung sĩ vào sảnh chính. Khi chúng tôi đi qua lối đi có lót thảm đến phía sau, có tiếng ồn trên cầu thang, rõ ràng là giọng nói ngập ngừng của người phụ nữ phát ra từ khu vực hơi tối ở trên.
“Có phải anh không, anh Markham? Bác tôi nói nhận ra được giọng của anh. Bác ấy đang đợi anh ở thư viện.”
“Tôi sẽ gặp bác của cô trong lát nữa, cô Dillard.” Giọng của Markham ấm áp và đầy sự cảm thông. “Và hãy chờ cùng với ông ấy vì tôi cũng muốn được gặp cô.”
Bằng tiếng ưng thuận thì thầm, cô gái biến mất ở đầu cầu thang.
Chúng tôi đi đến cửa sau của sảnh. Phía xa là một hành lang hẹp có những bậc thang gỗ dẫn xuống tầng hầm. Chúng tôi bước vào một căn phòng rộng, trần thấp với cánh cửa dẫn thẳng tới khu vực phía tây của ngôi nhà. Cánh cửa khép hờ, và có một người từ Cục Hình sự được Heath phân công đang đứng canh cái xác.
Căn phòng vốn từng là tầng hầm chứa đồ; nhưng nó đã được sửa đổi và trang trí lại, và giờ được sử dụng như phòng cho câu lạc bộ. Sàn xi măng được phủ bởi thảm sợi, và một bên tường được vẽ toàn cảnh các cung thủ qua các thời kỳ. Trên tấm bảng chữ nhật bên trái là một bức ảnh lớn về bắn cung với dòng chữ “Ayme for Finsburie Archers - London 1594”, với Bloody House Ridge ở một góc, Westminster Hall ở giữa, và Welsh Hall ở cận cảnh. Có một cây đàn piano và một máy hát ở trong phòng, có rất nhiều ghế mây thoải mái, một ghế dài, một cái bàn trà lớn bằng mây để bừa bộn đủ loại tạp chí thể thao; và một tủ sách nhỏ với đầy những tác phẩm liên quan đến môn bắn cung. Một vài bia tập bắn nằm ở một góc, những đĩa vàng và những vòng tròn đồng tâm nhiều màu tạo nên những mảng màu sắc rực rỡ dưới ánh mặt trời chiếu vào từ hai cửa sổ phía sau. Mảng tường gần cánh cửa được treo rất nhiều cung với kích thước và trọng lượng đa dạng; gần chúng là một tủ lớn khá cũ kỹ đựng các dụng cụ. Ở trên là một tủ treo nhỏ, rải rác những thứ linh tinh khác nhau và những dụng cụ, như bao cổ tay, găng tay bắn tên, những cây cọc, tiêu điểm và dây cung. Một tấm bảng lớn bằng gỗ sồi giữa cửa ra vào và cửa sổ phía tây trưng bày một trong những bộ sưu tập các mũi tên thú vị và đa dạng nhất mà tôi từng thấy.
Tấm bảng thu hút sự chú ý của Vance một cách đặc biệt, điều chỉnh kính một mắt cẩn thận, anh đi chầm chậm quanh nó.
“Những mũi tên săn bắn và chiến đấu,” Vance nhận xét. “Vô cùng hấp dẫn… A! Một trong những vật kỷ niệm đã biến mất. Bị lấy xuống một cách vội vàng. Chiếc đinh bằng đồng treo nó đã bị bẻ cong một cách tệ hại.”
Trên sàn nhà có vài ống tên chứa đầy mũi tên. Anh cúi xuống và rút từng cái một, đưa cho Markham.
“Những mũi tên yếu ớt này dường như không thể đâm xuyên ngực của con người được; nhưng những mũi tên kia hoàn toàn có thể bắn xuyên qua một con hươu cách đó tám mươi yard… Và tại sao mũi tên dùng để săn bắn không có trên bảng? Một điểm thú vị đây.”
Markham nhăn mặt và mím môi lại; và tôi nhận ra rằng anh ta đang cố bám lấy tia hy vọng cuối cùng rằng bi kịch này chỉ là một tai nạn. Anh ta quăng mũi tên lên ghế một cách vô vọng, và đi ra ngoài.
“Hãy đi xem xét thi thể và đầu đuôi vụ án,” anh ta nói một cách cộc cằn.
Khi chúng tôi ra khỏi ánh nắng ấm áp của mùa xuân thì đó cũng là lúc tôi cảm nhận được sự cô lập. Chỗ đường hẹp lát gạch mà chúng tôi đang đứng giống như hẻm núi giữa những bức tường dốc bằng đá. Nó ở dưới khoảng 4 đến 5 foot[*] so với mặt đường, có vài bậc thang đi lên đến cánh cổng ở bức tường. Một khoảng trống, bức tường phía sau không có cửa sổ của tòa nhà chung cư đối diện rộng đến 150 foot[*] ; và chính ngôi nhà của gia đình Dillard, mặc dù chỉ cao bốn tầng, đã tương đương sáu tầng lầu tiêu chuẩn trong kiến trúc ngày nay. Mặc dù chúng tôi đang đứng ở trung tâm của New York, không ai có thể trông thấy chúng tôi trừ phi nhìn từ vài cửa sổ nhà Dillard và từ một cửa sổ lồi của căn nhà trên đường số 76, có sân sau tiếp giáp với đất của nhà Dillard.
Căn nhà kia, chúng tôi sớm biết được, thuộc quyền sở hữu của bà Drukker, nó đóng vai trò quan trọng và bi thảm trong việc tìm ra hung thủ giết Robin. Những cây liễu cao giống như chiếc mặt nạ cho những cánh cửa sổ đằng sau; và chỉ có cửa sổ lồi ở mặt bên của ngôi nhà là không bị cản tầm nhìn về đường hẻm mà chúng tôi đang đứng.
Tôi để ý rằng Vance đang nhìn lên cửa sổ lồi này, và khi anh nghiên cứu nó tôi thấy một tia hứng thú thoáng qua trên gương mặt anh. Phải đến buổi chiều tôi mới đoán được điều gì đã thu hút sự chú ý của anh.
Bãi tập bắn cung được kéo dài từ bức tường của nhà Dillard trên đường số 75 cho đến bức tường của nhà Drukker ở đường số 76, nơi mà một bia bắn làm bằng những kiện cỏ khô được dựng thẳng đứng trên nền cát cạn. Khoảng cách giữa hai bức tường là 200 foot[*], như sau đó tôi được biết, để có thể tạo nên một sân tập sáu mươi yard[*], như vậy cho phép luyện tập mục tiêu cho tất cả cuộc thi bắn cung tiêu chuẩn, trừ York Round[*] dành cho nam.
Lô đất cửa nhà Dillard sâu 135 foot[*], độ sâu lô đất của nhà Drukker vì thế là 65 foot[*]. Một phần của hàng rào sắt cao chia sân sau làm hai đã được tháo dỡ, khoảng không được sử dụng làm bãi tập bắn cung. Tại nơi xa hơn của bãi tập, về phía tây của nhà Drukker, là một tòa nhà chung cư cao khác chiếm một góc của đường 76 và đường Riverside Drive. Ở giữa hai tòa nhà khổng lồ là một đường hẻm nhỏ, bãi tập kết thúc bằng một hàng rào gỗ cao với cửa nhỏ có khóa.
Vì mục đích rõ ràng là tôi đang kết hợp các ghi chép về sơ đồ toàn cảnh; sự sắp đặt các chi tiết địa hình và kiến trúc ảnh hưởng rất quan trọng đến kết cục của vụ án. Tôi chú ý vào những điểm đặc biệt sau: - đầu tiên, câu chuyện về ban công tầng hai ở phía sau nhà Dillard, hướng ra bãi tập bắn cung; thứ hai, là cửa sổ lồi (ở tầng hai) của nhà Drukker, góc phía nam của nó nhìn được toàn cảnh bãi tập bắn cung phía đường số 75; và thứ ba, đường hẻm giữa hai tòa nhà chung cư, dẫn từ đường Riverside Drive đến sân sau nhà Dillard.
Thi thể của Robin nằm gần như ngay bên ngoài cửa của phòng bắn cung. Cái xác nằm ngửa, cánh tay duỗi thẳng, chân hơi co lên, đầu hướng về phía đường 76 cuối bãi tập bắn cung. Robin là một người đàn ông khoảng 35 tuổi, với chiều cao trung bình, và hơi mập mạp. Có một vết phồng trên mặt anh ta, được cạo nhẵn trụi trừ phần ria mép màu vàng hoe. Anh ta mặc bộ đồ thể thao bằng nỉ mỏng màu xám nhạt, áo sơ mi màu xanh nhạt, và giày Oxford[*] nâu vàng với đế cao su dày. Nón mềm bằng nỉ, màu ngọc trai nằm gần chân anh ta.
Cạnh cái xác là một vũng máu lớn đã đông lại có hình dạng như một bàn tay khổng lồ. Nhưng thứ giữ tất cả chúng tôi lại với sự mê hoặc đến kinh dị này là thân mũi tên đâm dọc từ bên ngực trái của người chết. Mũi tên nhô ra khoảng 20 inch[*], và nơi mà nó đâm vào cơ thể là một vết xuất huyết lớn sẫm màu. Điều kỳ lạ của vụ án này càng phi lý hơn ở chỗ là những chiếc lông vũ đẹp đẽ được gắn trên mũi tên. Chúng được nhuộm bằng màu đỏ chói; và phần thân có hai sọc màu ngọc lam - giống như mũi tên trong những buổi lễ hội. Tôi có một cảm giác không thực về bi kịch này, giống như tôi vừa chứng kiến một cảnh trong vở kịch đồng quê dành cho trẻ con.
Vance đứng nhìn xuống cái xác với đôi mắt khép hờ, tay để trong túi áo. Mặc cho thái độ uể oải bên ngoài của anh, tôi có thể nói rằng anh đang trong tình trạng báo động, và trí não của anh đang bận rộn để sắp xếp lại những yếu tố trong cảnh tượng trước mắt.
“Dấu vết kỳ quặc của mũi tên,” anh nhận xét. “Được thiết kế cho một trận đấu lớn;… rõ ràng là thuộc về phòng trưng bày mà chúng ta vừa thấy. Và một phát bắn chuẩn - ngay vào điểm quan trọng, ở giữa xương sườn và không sai lệch chút nào. Thật phi thường!… Này, Markham à; với tài thiện xạ này thì đây không phải là con người nữa rồi. Một phát bắn may rủi có thể thực hiện được; nhưng kẻ sát nhân này không cho phép bất kỳ sự may rủi nào. Mũi tên dùng để săn bắn đầy uy lực này rõ ràng được lấy từ tấm bảng bên trong, cho thấy được âm mưu và sự sắp xếp…” Đột nhiên anh cúi xuống cái xác. “A! Thật thú vị. Khấc tên[*] đã bị hỏng, - tôi nghi ngờ việc nó đã giữ căng sợi dây cung.” Anh quay qua Heath. “Hãy cho tôi biết, trung sĩ: giáo sư Dillard tìm thấy cái cung ở đâu? - Không xa cửa sổ phòng câu lạc bộ, phải không?”
Heath tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Ngay bên ngoài cửa sổ, thật vậy, anh Vance à. Hiện giờ, nó đang ở trên cây đàn piano, chờ người đến lấy dấu vân tay.”
“Họ sẽ chỉ tìm thấy dấu tay của giáo sư thôi, tôi e là thế.” Vance mở cặp và lấy một điếu thuốc khác. “Và tôi tin rằng mũi tên đó chẳng có dấu vân tay nào cả.”
Heath nhìn Vance một cách thắc mắc.
“Điều gì khiến anh nghĩ rằng cái cung được tìm thấy gần cửa sổ, anh Vance?” Anh ta hỏi.
“Đó có vẻ là nơi hợp lý, theo vị trí thi thể của anh Robin, anh biết đó.”
“Bắn từ cự ly gần, anh nghĩ thế sao?”
Vance lắc đầu.
“Không, trung sĩ à. Tôi đang đề cập đến thực tế là chân của người chết hướng về phía cánh cửa tầng hầm, và rằng, mặc dù tay anh ta duỗi thẳng, chân co lên. Đây là cái mà anh cho rằng một người bị ngã khi bị bắn xuyên qua tim sao?”
Heath cân nhắc vấn đề.
“Khô-ông,” anh ta thừa nhận. “Anh ta giống như ngã quỵ xuống hơn; hoặc, nếu anh ta có ngã về phía sau, chân anh ta phải thẳng và tay rút vào.”
“Đúng vậy. - Và hãy để ý cái nón của anh ta. Nếu anh ta ngã về phía sau thì nó sẽ ở đằng sau chứ không phải ở dưới chân.”
“Xem này, Vance,” Markham đột ngột đề nghị, “cái gì đang ở trong đầu anh vậy?”
“Chà, vô số thứ. Nhưng tất cả ý kiến hoàn toàn phi lý vì quý ông quá cố này không hề bị bắn bởi cung tên.”
“Vậy thì tại sao, lạy Chúa…”
“Đúng thế! Tại sao hiện trường được sắp đặt tỉ mỉ này lại hoàn toàn điên rồ? Ôi trời, Markham! Việc này thật rùng rợn.”
Khi Vance vừa nói xong thì cánh cửa tầng hầm mở ra, và bác sĩ Doremus, được hướng dẫn bởi thám tử Burke, vui vẻ bước vào. Ông ấy vui vẻ chào chúng tôi và vẫy tay. Sau đó ông ấy nhìn Heath bằng con mắt khó chịu.
“Trời ơi, trung sĩ!” Ông ta cằn nhằn, kéo nón xuống một cách ngang tàng. “Tôi chỉ dành ba tiếng để ăn; và anh luôn chọn ba tiếng này để làm phiền tôi với cái xác chết tiệt của anh. Anh đã làm hỏng việc tiêu hóa của tôi rồi.” Ông ta nhìn về phía viên trung sĩ một cách nóng nảy, và nhìn sang Robin, huýt sáo khẽ. “Trời ơi! Một sát nhân ưa thích cái đẹp mà anh đã chọn cho tôi đây sao!”
Ông ta quỳ gối xuống và bắt đầu lướt những ngón tay điêu luyện trên cái xác.
Markham đứng đó nhìn một lúc, nhưng rồi anh ta quay sang Heath.
“Trung sĩ, trong khi bác sĩ kiểm tra thì tôi sẽ lên lầu và trò chuyện với giáo sư Dillard.” Sau đó anh ta nói với Doremus. “Hãy gặp tôi trước khi ông rời khỏi đây, bác sĩ.”
“Ồ, chắc rồi.” Doremus không ngẩng đầu lên. Ông ta lật cái xác sang một bên, và xem xét bên ngoài hộp sọ.
Chú Thích:
[*] Tableau – vivant (tiếng Pháp): hoạt cảnh.
[*] Tên khoa học của ruồi nhà.
[*] West 75th Street: đường số 75 Tây. Ở New York, đại lộ 5 chia các đường số thành hai phần: các đường nằm ở phía tây có thêm chữ West (Tây) trong tên gọi, các đường nằm ở phía đông có thêm chữ East (Đông) trong tên gọi. Khu vực chính xảy ra các sự kiện trong tác phẩm này là các con đường của khu phía tây nên ở nhiều chỗ tác giả chỉ ghi đường số thì được hiểu là nơi về khu phía tây.
[*] Đường Drive: là đường Riverside Drive.
[*] Gustav Adolf Feodor Wilhelm Ludwig Mie (1868 - 1957): nhà vật lý học người Đức. Ông là người đã phát triển lý thuyết Mie.
[*] Cénacle (tiếng Pháp): nơi hội họp.
[*] Bệnh gout (gút).
[*] Situs criminis (tiếng Latin): hiện trường vụ án.
[*] Central Park (Công viên Trung tâm) là một trong những công viên giữa lòng đô thị nổi tiếng nhất nước Mỹ.
[*] 10,7 m.
[*] 7,6 m.
[*] 3 m.
[*] Corinthian (cột Corinth): cột kiểu Hy Lạp cổ, được làm rất hoa mỹ với những rãnh nhỏ và đầu cột được trang trí cầu kỳ với những lá ô rô và đường xoắn ốc. Tên cột Corinth có xuất xứ từ tên của thành phố Corinth ở Hy Lạp.
[*] Philemon (khoảng 362 - 262 TCN): nhà thơ và nhà viết kịch nổi tiếng người Hy Lạp. Ông đã viết 97 vở hài kịch.
[*] Heath đã đề cập đến bác sĩ Emanuel Doremus, trưởng bộ phận giám định pháp y của New York.
[*] Get the ball rolling (thành ngữ): nghĩa đen là làm trái bóng lăn, nghĩa bóng là bắt đầu làm một việc gì đó, tương tự như thành ngữ “xắn tay áo lên” trong tiếng Việt. Ở đây tác giả chơi chữ khi sử dụng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
[*] 1,2 m đến 1,5 m.
[*] 45 m.
[*] 61 m.
[*] 55 m.
[*] Cuộc thi bắn cung dành cho nam gồm việc bắn 72 mũi tên cách 100 yard (91 m), 48 mũi tên cách 80 yard (73 m) và 24 mũi tên cách 60 yard (55 m).
[*] 41 m.
[*] 20 m.
[*] Loại giày thấp buộc dây ở cổ chân.
[*] 50 cm.
[*] Phần ở cuối mũi tên để đặt tên vào dây cung.