Chương 16 MÀN BA-(Thứ Ba, 12 tháng Tư - thứ Bảy, 16 tháng Tư.)
Sau bữa ăn trưa ở Elysée, Markham và Heath tiếp tục xuống phố. Một buổi chiều đầy khó khăn bày ra trước mắt họ. Công việc hằng ngày của Markham thì đã chất thành đống; và viên trung sĩ, đã nhận vụ án của Sprigg cùng với việc điều tra vụ Robin, phải tách rời hai vụ ra để xử lý riêng biệt, sắp xếp tất cả báo cáo, trả lời hàng loạt câu hỏi của cấp trên, và đáp ứng sự hiếu kỳ của vô số phóng viên. Vance và tôi đến buổi triển lãm nghệ thuật Pháp hiện đại ở Knoedler, uống trà tại St. Regis, và gặp Markham ở câu lạc bộ Stuyvesant để ăn tối. Heath và thanh tra Moran cùng tham gia cuộc thảo luận thân mật với chúng tôi lúc 8 giờ rưỡi; mặc dù nó kéo dài tới gần nửa đêm nhưng vẫn không có gì sáng tỏ được đưa ra.
Ngày hôm sau không những không mang lại điều gì mà còn chán nản thêm. Bản báo cáo từ đại úy Dubois cho biết khẩu súng lục mà Heath đưa cho ông ta không có dấu vân tay nào. Đại úy Hagedorn xác nhận vũ khí này đã được sử dụng để bắn Sprigg; nhưng điều này chỉ chứng minh được niềm tin đã chắc chắn của chúng tôi. Người được cử đi canh gác phía sau nhà Drukker đã trải qua một đêm yên ả. Không ai vào hoặc ra khỏi ngôi nhà; và vào lúc 11 giờ thì mọi cửa sổ đều tắt đèn tối thui. Không có bất kỳ tiếng động nào phát ra từ ngôi nhà mãi cho đến sáng hôm sau khi người đầu bếp dọn dẹp mọi thứ trong ngày. Bà Drukker xuất hiện ở khu vườn trễ hơn 8 giờ một chút; và vào 9 giờ rưỡi Drukker đi ra ngoài bằng cửa trước và ngồi khoảng hai tiếng trong công viên để đọc sách.
Đã hai ngày trôi qua. Việc theo dõi nhà Dillard vẫn diễn ra; Pardee bị theo dõi nghiêm ngặt; và một người canh gác mỗi đêm dưới hàng cây liễu sau nhà Drukker. Nhưng không có gì bất thường xảy ra cả; và, mặc dù viên trung sĩ làm việc không mệt mỏi, tất cả những hướng triển vọng của cuộc điều tra dường như đều tự động đóng lại. Cả Heath và Markham đều hết sức lo lắng. Báo chí đang làm tốt trong cách nói khoa trương của họ; và sự bất lực của Sở Cảnh sát và Văn phòng Công tố quận trong việc tạo nên sự tiến triển nhỏ nhất đối với điều bí ẩn của hai án mạng kỳ lạ đã nhanh chóng phát triển thành một vụ scandal chính trị.
Vance ghé thăm giáo sư Dillard và thảo luận về tình hình chung của vụ án. Anh cũng dành hơn một giờ đồng hồ vào trưa thứ Năm cùng Arnesson với hy vọng tìm ra được cách thức để làm rõ một số chi tiết có thể được sử dụng như điểm xuất phát để nghiên cứu. Nhưng anh không hài lòng với sự gặp gỡ đó, và phàn nàn với tôi rằng Arnesson đã không hoàn toàn thẳng thắn với anh. Hai lần anh ghé qua câu lạc bộ cờ vua Manhattan và cố gắng nói chuyện với Pardee; nhưng mỗi lần như thế đều được đáp lại bởi thái độ lịch sự dè dặt đầy lạnh lùng. Tôi chú ý thấy anh không hề nỗ lực bắt chuyện với cả Drukker lẫn bà Drukker; và khi tôi hỏi lý do tại sao anh không chú ý đến họ, anh trả lời:
“Sự thật là bây giờ không thể biết được gì từ họ cả. Mỗi người đang chơi một trò chơi; và cả hai đều hết sức sợ hãi. Cho đến khi chúng ta có được bằng chứng rõ ràng nào đó, việc cố gắng thẩm vấn họ chỉ mang lại kết quả tồi tệ hơn mà thôi.”
Cái bằng chứng rõ ràng này đã đến ngay ngày kế tiếp từ một nguồn tin không được mong đợi; và nó đánh dấu sự khởi đầu của giai đoạn cuối trong cuộc điều tra - một giai đoạn bi kịch đầy xấu xa, kích động và kinh hoàng không diễn tả nổi, một sự hài hước tàn ác và quái dị, mà ngay cả bây giờ, những năm sau đó, khi tôi ghi chép hồ sơ báo cáo của vụ án, tôi vẫn cảm thấy thật khó mà tin rằng những sự kiện này là sự thật, sau tất cả, nó chỉ như một giấc mơ kỳ quái của một sự việc tàn ác đến khó tin.
Chiều thứ Sáu, Markham, trong tâm trạng tuyệt vọng, đã triệu tập một cuộc trao đổi khác. Arnesson yêu cầu được tham dự; và lúc 4 giờ chúng tôi đều có mặt, bao gồm cả thanh tra Moran, trong phòng riêng của vị công tố viên tại tòa nhà Tòa án Hình sự cổ kính. Arnesson im lặng trong suốt cuộc thảo luận một cách bất thường, và không một lần nào anh ta thể hiện thói quen khiếm nhã của mình. Anh ta chú ý lắng nghe tất cả những điều được nói ra, và dường như cố ý tránh việc phát biểu ý kiến, kể cả khi Vance trực tiếp kêu gọi.
Chúng tôi có mặt tại cuộc thảo luận khoảng nửa tiếng thì Swacker lặng lẽ bước vào và đặt tờ thư báo lên bàn vị công tố viên. Markham liếc nhìn nó và cau mày. Sau một lúc anh ta ký tên lên hai bản in và đưa chúng cho Swacker.
“Điền vào ngay lập tức và gởi chúng cho Ben[*],” anh ta ra lệnh. Sau đó khi người đàn ông đã đi xa khỏi hành lang ở cửa, anh ta giải thích về sự gián đoạn ấy. “Sperling vừa gởi một yêu cầu muốn nói chuyện với tôi. Anh ta nói anh ta có thông tin có thể khá quan trọng. Tôi nghĩ, trong tình huống này, tốt hơn hết là gặp anh ta ngay bây giờ.”
Mười phút sau, Sperling được đưa vào bởi một người đại diện của cảnh sát từ Tombs. Anh ta chào Markham bằng một nụ cười thân thiện tự nhiên, và gật đầu thân mật với Vance. Anh ta gật đầu - có chút cứng nhắc, tôi nghĩ thế - chào Arnesson, sự hiện diện của cả hai dường như làm anh ta ngạc nhiên và lúng túng. Markham ra hiệu cho anh ta ngồi vào ghế, và Vance mời anh ta một điếu thuốc.
“Tôi muốn nói chuyện với anh, anh Markham,” anh ta mở lời, có chút nhút nhát, “về vấn đề có thể giúp ích cho anh… Anh nhớ chứ, khi anh hỏi tôi về việc tôi ở trong phòng bắn cung với Robin, anh muốn biết anh Drukker rời khỏi bằng đường nào khi đó. Tôi đã nói tôi không để ý, trừ việc anh ta đi ra ngoài bằng cửa tầng hầm… Thật ra, gần đây tôi có nhiều thời gian để suy nghĩ; và tôi tự nhiên nhớ lại toàn bộ sự việc đã xảy ra vào sáng hôm đó. Tôi chỉ không biết giải thích điều đó như thế nào, nhưng giờ đây mọi thứ đã trở nên rõ ràng hơn rất nhiều. Có chút ít - thứ mà anh có thể gọi là ấn tượng - đã trở lại với tôi…”
Anh ta dừng lại và nhìn xuống tấm thảm. Sau đó ngẩng đầu lên, anh ta nói tiếp:
“Một trong những ấn tượng mà tôi có là về anh Drukker - và đó là lý do tôi muốn gặp anh. Mới chiều nay tôi - à, giả sử tôi lại ở trong phòng bắn cung, như đang nói chuyện với anh Robin; và bất thình lình hình ảnh về cửa sổ phía sau lóe lên trong đầu tôi. Và tôi nhớ là khi tôi nhìn ra cửa sổ vào sáng hôm đó để xem thời tiết như thế nào cho chuyến đi của tôi, tôi đã thấy anh Drukker đang ngồi ở lùm cây phía sau nhà…”
“Lúc đó là mấy giờ?” Markham bất ngờ hỏi.
“Chỉ một vài giây trước khi tôi đi đến ga xe lửa.”
“Vậy ý của anh là anh Drukker, thay vì rời khỏi ngôi nhà, đã đi đến chỗ lùm cây và ở đó cho đến khi anh rời khỏi.”
“Có vẻ là như thế, thưa anh.” Sperling miễn cưỡng thừa nhận.
“Anh chắc rằng mình đã thấy anh ta?”
“Đúng, thưa anh. Tôi nhớ rõ ràng. Tôi thậm chí còn nhớ cái cách đặc biệt mà anh ta ngồi vùi đầu vào gối.”
“Anh dám thề không,” Markham hỏi một cách nghiêm trọng, “anh phải biết rằng cuộc đời của một con người phụ thuộc vào lời khai của anh đấy?”
“Tôi xin thề, thưa anh,” Sperling trả lời đơn giản.
Khi người cảnh sát đã hộ tống tù nhân của mình đi khỏi phòng, Markham nhìn Vance.
“Tôi nghĩ điều đó giúp chúng ta có một đầu mối chắc chắn.”
“Phải. Lời khai của người đầu bếp ít có giá trị, vì Drukker chỉ cần phủ nhận nó; và bà ta là loại người Đức trung thành ngoan cường, người có thể giúp anh ta phủ nhận nó nếu có bất kỳ nguy hiểm thật sự nào đe dọa đến anh ta. Bây giờ chúng ta đã có được vũ khí hữu hiệu.”
“Dường như đối với tôi,” Markham nói, sau vài phút im lặng phán đoán, “chúng ta có một tình tiết gián tiếp có lợi cho việc chống lại Drukker. Anh ta đã ở trong sân nhà Dillard chỉ vài giây trước khi Robin bị giết. Anh ta có thể dễ dàng bị nhìn thấy khi Sperling đi khỏi; và, gần như anh ta đi ra từ chỗ giáo sư Dillard, anh ta biết những thành viên khác của gia đình đã đi vắng. Bà Drukker phủ nhận việc bà ấy thấy ai đó từ cửa sổ vào sáng hôm đó, mặc dù bà ấy thét lên lúc Robin chết và sau đó dẫn đến hoảng loạn khi chúng ta đến để hỏi Drukker. Bà ấy thậm chí đã cảnh báo anh ta đề phòng chúng ta và gọi chúng ta là ‘kẻ thù’. Tôi tin rằng bà ấy thấy Drukker quay về nhà ngay sau khi thi thể Robin được tìm thấy ở bãi tập. - Drukker đã không ở trong phòng mình vào lúc Sprigg bị giết, cả anh ta và mẹ anh ta cố gắng che đậy sự thật. Anh ta bị kích động mỗi khi chúng ta đề cập đến chủ đề về những án mạng này, và chế giễu ý tưởng rằng chúng có liên quan vói nhau. Thực ra, nhiều hành động của anh ta đầy khả nghi. Ngoài ra, chúng ta biết anh ta bất thường và thất thường, và rằng anh ta đang chơi trò chơi trẻ con. Hoàn toàn có thể - theo quan điểm mà bác sĩ Barstead nói với chúng ta - là anh ta bị lẫn lộn giữa tưởng tượng và hiện thực, và gây ra những tội ác này trong những phút điên loạn bất chợt. Công thức tensor này không chỉ quen thuộc với anh ta, mà còn có thể anh ta đã liên kết nó trong cách thức điên khùng nào đó với Sprigg như một kết quả của cuộc bàn luận giữa Arnesson với Sprigg về nó. - Như trong thông điệp của Giám Mục, chúng có thể là một phần hư ảo trong trò chơi điên khùng của hắn, - lũ trẻ đều muốn khán giả công nhận khi chúng tạo ra bất cứ hình thức giải trí mới nào. Sự lựa chọn của anh ta về từ ‘giám mục’ chắc là kết quả của sự hứng thú cua anh ta trong cờ vua - một chữ ký khôi hài nhằm gây nhầm lẫn. Và giả thiết này càng đi xa hơn bởi sự xuất hiện thực sự của một quân giám mục ở cửa phòng của mẹ anh ta. Anh ta có thể đã lo sợ rằng bà ấy đã thấy anh ta vào sáng hôm đó, và tìm cách bịt miệng để bà ấy không công khai thừa nhận anh ta có tội. Anh ta có thể dễ dàng đóng cửa hiên lưới từ bên trong, mà không cần chìa khóa, và do đó tạo ấn tượng về việc có người mang quân giám mục vào trong nhà và rời khỏi bằng cửa sau. Hơn nữa, đó chỉ là vấn đề đơn giản với anh ta trong việc lấy quân giám mục từ thư viện vào đêm Pardee phân tích ván đấu…”
Markham tiếp tục phân tích vụ án chống lại Drukker trong một lát. Anh ta phân tích tỉ mỉ và chi tiết, và bản kết luận giải thích cụ thể những bằng chứng đã được đưa ra. Cái cách hợp lý và không hề nao núng khi anh ta ráp nối các yếu tố khác nhau lại thuyết phục một cách ấn tượng; và có một sự im lặng dài trong lúc anh ta tóm tắt.
Cuối cùng Vance đứng dậy, như muốn phá vỡ sự căng thẳng trong suy nghĩ, và đi về phía cửa sổ.
“Có thể anh đúng, Markham,” anh thừa nhận. “Nhưng phản đối chủ yếu của tôi về kết luận của anh là vụ án chống lại Drukker quá tốt. Tôi đã nghĩ đến anh ta như một khả năng ngay từ đầu; nhưng cách hành xử của anh ta càng đáng nghi và càng nhiều dấu hiệu ám chỉ anh ta, thì tôi càng xem xét đến khuynh hướng loại bỏ anh ta ra. Bộ não âm mưu của những vụ giết người ghê tởm này quá quỷ quyệt, quá sắc sảo, trở thành vướng mắc trong bất kỳ mạng lưới bằng chứng gián tiếp nào mà anh đã vẽ nên về Drukker. Drukker có một trạng thái tinh thần tuyệt vời - sự khôn ngoan và trí tuệ của anh ta thật phi thường, đúng vậy; và nếu anh ta có tội, thật khó để nghĩ rằng anh ta lại có nhiều sơ hở như thế.”
“Luật pháp,” Markham quay lại với vẻ gay gắt, “không hề kỳ vọng có những vụ án xấu xa này vì chúng quá thuyết phục.”
“Mặt khác,” Vance tiếp tục, mặc kệ lời bình luận, “khá rõ ràng rằng Drukker, ngay cả có vô tội, biết điều gì đó có ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng trong vụ án này; và đề nghị khiêm tốn của tôi là chúng ta cố gắng moi thông tin từ anh ta. Lời khai của Sperling đã mang đến cho chúng ta bước tiến trong mục đích này… Tôi nói vậy, anh Arnesson, ý kiến của anh thế nào?”
“Chưa có gì cả,” anh ta trả lời. “Tôi là một khán giả vô tư. Tuy nhiên, tôi ghét phải thấy Adolph tội nghiệp trong cảnh tù tội.” Tuy vậy, anh ta không thừa nhận rõ ràng rằng anh ta đồng ý với Vance.
Heath nghĩ, một cách đặc trưng, rằng hành động ngay lập tức là khôn ngoan, và biểu lộ chính anh ta cũng bị ảnh hưởng.
“Nếu anh ta có điều gì cần nóí thì anh ta sẽ nói đủ nhanh sau khi anh ta bị bắt.”
“Đó là một tình huống khó khăn,” thanh tra Moran do dự, bằng giọng phán xét nhẹ nhàng. “Chúng ta không thể có sai sót. Nếu dấu hiệu của Drukker sẽ kết án người khác, chúng ta sẽ trở thành trò cười nếu bắt nhầm người.”
Vance nhìn về phía Markham và gật đầu đồng ý.
“Tại sao không đưa anh ta đến trước, và xem anh ta có bộc lộ tâm tư khi bị thuyết phục không. Anh có thể treo một cái trát hầu tòa lơ lửng trên đầu anh ta, anh biết đấy, như một cách gây sức ép về tâm lý. Sau đó, nếu anh ta vẫn còn rụt rè và kín miệng, mang ra những cái xích và để trung sĩ dũng cảm hộ tống anh ta đến nhà giam.”
Markham ngồi gõ nhịp trên bàn làm việc một cách lưỡng lự, đầu anh ta đầy khói khi anh ta hút điếu xì gà một cách lo lắng. Cuối cùng anh ta chống cằm và quay sang Heath.
“Đưa Drukker đến đây lúc 9 giờ sáng mai. Anh nên mang xe áp giải và trát hầu tòa phòng trường hợp anh ta chống đối.” Nét mặt anh ta cứng rắn và cương quyết. “Rồi tôi sẽ tìm ra những gì anh ta biết - và hành động phù hợp.”
Cuộc thảo luận kết thúc ngay lập tức. Lúc đó đã sau 5 giờ, Markham, Vance và tôi cùng nhau lái xe đến câu lạc bộ Stuyvesant. Chúng tôi thả Arnesson ở chỗ tàu điện ngầm, và anh ta đi mà không một lời từ biệt chúng tôi. Sự nhạo báng lắm lời dường như đã hoàn toàn bỏ rơi anh ta. Sau bữa ăn tối Markham viện cớ mệt mỏi, Vance và tôi đến Metropolitan và nghe Geraldine Farrar[*] trong vở “Louise[*].”
Buổi sáng tiếp theo đã xua tan tối tăm và u ám. Currie gọi chúng tôi lúc 7 giờ rưỡi, Vance dự định có mặt trong buổi thẩm vấn Drukker; và lúc 8 giờ chúng tôi dùng bữa điểm tâm trong phòng trước ánh sảng từ lò sưởi. Chúng tôi bị kẹt xe trên đường đến khu trung tâm, và mặc dù đã 9 giờ 15 khi chúng tôi đến Văn phòng Công tố quận, Drukker và Heath vẫn chưa đến.
Vance ngồi một cách thoải mái trên chiếc ghế lớn bọc da và châm điếu thuốc.
“Tôi thấy khá phấn khởi sáng nay,” anh nhận xét. “Nếu Drukker kể câu chuyện của anh ta, và nếu câu chuyện đúng như những gì tôi nghĩ, chúng ta sẽ biết cách để mở khóa.”
Những lời nói của anh vừa được thốt ra xong thì Heath xông vào văn phòng và, đối mặt với Markham mà không một lời chào hỏi, giơ hai cánh tay lên và để chúng rơi xuống trong cử chỉ vô vọng.
“Chà, thưa anh, chúng ta sẽ không thẩm vấn Drukker vào sáng nay - hay không còn có thể nữa,” anh ta tiết lộ. “Anh ta ngã từ bức tường cao ở công viên Riverside gần nhà anh ta tối qua, và bị gãy cổ. Đến tận 7 giờ sáng nay mới được tìm thấy. Thi thể của anh ta hiện giờ đã được đem xuống nhà xác… Chúng tôi vừa biết được!” Anh ta buông người xuống ghế một cách chán nản.
Markham nhìn chằm chằm anh ta một cách ngờ vực.
“Anh chắc chứ?” Anh ta hỏi, với vẻ hơi bất ngờ.
“Tôi có mặt ở đó trước khi họ di chuyển cái xác. Một người dân địa phương gọi cho tôi về chuyện này ngay khi tôi rời văn phòng. Tôi ở quanh quẩn gần đó và nhận tất cả tin tức có thể.”
“Anh đã biết được gì?” Markham đang chiến đấu chống lại sự áp đảo của cảm giác chán nản.
“Không tìm ra gì nhiều. Vài đứa trẻ trong công viên nhìn thấy xác chết khoảng 7 giờ sáng nay - có nhiều đứa trẻ xung quanh đó, đang là thứ Bảy; những người dân địa phương hốt hoảng và gọi bác sĩ. Bác sĩ nói Drukker chắc là bị ngã xuống bờ tường khoảng 10 giờ tối qua - chết ngay lập tức. Bức tường ở chỗ - bên phải đối điện đường số 76 - có độ cao 30 foot[*] so với mặt đất. Phần bắt đầu của nó chạy dọc theo đường xe ngựa; và thật thần kỳ khi không có nhiều người té gãy cổ ở đó. Lũ trẻ vẫn thường đi dạo dọc theo gờ đá đó.”
“Bà Drukker đã được thông báo chưa?”
“Chưa. Tôi đã nói với họ là tôi sẽ lo chuyện đó. Nhưng tôi nghĩ tôi nên đến đây trước và xem anh muốn làm thế nào.”
Markham ngả người ra sau chán nản.
“Tôi không thấy chúng ta còn nhiều thứ có thể làm.”
“Có lẽ tốt hơn”, Vance đề nghị, “là hãy thông báo cho Arnesson. Anh ta có lẽ là người phải trông nom nhiều thứ… Ôi trời, Markham à! Sau tất cả, tôi bắt đầu nghĩ rằng vụ án này là một cơn ác mộng. Drukker là hy vọng chính của chúng ta, và tại thời điểm chúng ta có cơ hội buộc anh ta phải nói ra thì anh ta lại ngã nhào khỏi bức tường…” Bất ngờ anh ngừng lại. “Khỏi bức tường!…” Khi anh lặp lại những từ đó, anh đã nhảy lên. “Một anh gù ngã khỏi bức tường!… Một anh gù!…”
Chúng tôi nhìn anh chằm chằm như thể anh bị mất trí; và tôi thừa nhận rằng vẻ mặt anh khiến tôi cảm thấy ớn lạnh. Đôi mắt anh nhìn trừng trừng, giống như người ta nhìn thấy ma quỷ. Anh chậm rãi quay sang Markham, và nói bằng giọng tôi khó nhận ra được:
“Một vở kịch tâm lý xã hội điên loạn khác - một bài đồng dao Mẹ Ngỗng khác… Lần này là ‘Humpty Dumpty’!”
Sự im lặng đáng sợ đã kéo dài cho đến khi bị phá vỡ bởi tiếng cười gượng gạo khó nghe của viên trung sĩ.
“Đúng là chuyện dai dẳng, phải không, anh Vance?”
“Thật lố bịch!” Markham phản bác, quan sát Vance với sự lo ngại thực sự. “Anh bạn của tôi, anh để vụ án này ám ảnh tâm trí anh quá nhiều rồi. Chẳng có chuyện gì xảy ra ngoại trừ việc một anh gù bị ngã ở đầu tường trong công viên. Thật đáng tiếc, tôi biết; và nó đáng buồn gấp đôi vào lúc này.” Anh ta đến chỗ Vance và đặt tay lên vai anh. “Hãy để trung sĩ và tôi xử lý việc này - chúng tôi đã quen với những việc như thế. Hãy đi du ngoạn và nghỉ ngơi thật tốt. Sao không đi châu Âu như anh thường làm vào mùa xuân?”
“Ồ, được… được.” Vance thở dài và cười một cách mệt mỏi. “Không khí biển có thể khiến thế giới của tôi tốt hơn, và tất cả điều đó. Đưa tôi trở lại bình thường ư? - Xây lại đống đổ nát của bộ não đáng khâm phục này… Tôi bỏ cuộc! Hồi ba trong vở bi kịch khủng khiếp này diễn ra ngay trước mắt chúng ta, và các anh cứ bình thản tảng lờ nó.”
“Trí tưởng tượng của anh đã tốt hơn rồi đó,” Markham quay lại, với sự kiên nhẫn sâu sắc. “Đừng lo về điều đó nữa. Hãy ăn tối với tôi hôm nay. Chúng ta sẽ nói về nó sau.”
Ngay lúc này Swacker vào, và nói với viên trung sĩ.
“Quinan của báo World đang ở đây. Anh ta muốn gặp anh.”
Markham dao động.
“Ôi, Chúa ơi!… Đưa anh ta vào đây!”
Quinan bước vào, vẫy tay vui vẻ chào chúng tôi, và trao cho viên trung sĩ một lá thư.
“Lại một billet doux[*] khác - nhận được vào sáng nay. - Vì đặc quyền gì mà tôi được đối xử hào hiệp vậy nhỉ?”
Heath mở bức thư để tất cả chúng tôi có thể xem. Ngay lập tức tôi nhận ra tờ giấy và những ký tự kiểu élite màu lam nhạt. Bức thông điệp viết:
#
Humpty Dumpty ngồi trên tường,
Humpty Dumpty ngã khỏi tường;
Cả lũ ngựa và người của nhà vua
Cũng không thể gắn lại Humpty Dumpty được nữa.
#
Sau đó là chữ ký xấu xa, được viết in hoa: GIÁM MỤC.
Chú Thích:
[*] “Louise” là vở opera hiện đại mà Vance yêu thích, nhưng anh thích Mary Garden hơn Farrar trong vai chính.
[*] 9m.
[*] Tiếng Pháp: bức thư tình.
[*] Nên nhớ rằng các bài của báo World về vụ án Giám Mục là nỗi ghen tị của những tờ báo khác. Trung sĩ Heath, dù công bằng trong những phát ngôn về những sự kiện với báo giới, tuy nhiên vẫn giữ lại vài phát biểu đặc sắc cho Quinan, và cho anh ta vài điểm nghi vấn, mặc dù không có giá trị tin tức, biến các câu chuyện của báo World thêm phần sắc màu và thú vị.
[*] Công ty bảo hiểm nhân thọ được thành lập vào năm 1845 tại New York.