Chương 15 CUỘC PHỎNG VẤN PARDEE-(Thứ Ba, 12 tháng Tư; 12.30 p.m.)
Thông tin này có ảnh hưởng sâu sắc đến Markham. Như thói quen khi bị kích động, anh ta đứng dậy và bắt đầu đi qua đi lại, hai tay chắp sau lưng. Cả Heath nữa, dù chậm hiểu ý nghĩa việc tiết lộ của Vance hơn, hút bập bập điếu xì gà - một biểu hiện nói rằng trí não của anh ta đang bận rộn với sự khó khăn trong việc sắp xếp các sự kiện.
Trước khi cả hai kịp đưa ra lời bình luận nào thì cánh cửa sau của hành lang mở ra và những bước chân nhẹ nhàng tiến gần đến phòng khách. Belle Dillard, trở về từ bên nhà bà Drukker, xuất hiện ở cổng vòm. Gương mặt cô ấy lộ vẻ lo lắng, và đôi mắt cô dừng lại nơi Markham, cô ấy hỏi:
“Anh đã nói gì với Adolph sáng nay? Anh ấy đang trong tình trạng sợ hãi khủng khiếp. Anh ấy đi khắp nơi kiểm tra tất cả khóa cửa và chốt cửa sổ cứ như sợ ăn trộm; và anh ấy làm Grete tội nghiệp hoảng sợ vì bảo bà ấy phải chốt cửa phòng cẩn thận vào buổi tối.”
“A! Anh ta đã cảnh báo bà Menzel, phải không?” Vance ngạc nhiên. “Thú vị lắm.”
Ánh nhìn của cô gái nhanh chóng chuyển sang anh.
“Đúng vậy; nhưng anh ấy không chịu giải thích cho tôi biết. Anh ấy bị kích động và khó hiểu. Và điều kỳ lạ nhất về thái độ của anh ấy chính là anh ấy không chịu đến gần mẹ của anh ấy… Điều đó có nghĩa gì vậy, anh Vance? Tôi có cảm giác như chuyện kinh khủng nào đó sắp xảy ra.”
“Tôi không biết nó có ý nghĩa gì.” Vance nói bằng giọng trầm buồn. “Và thậm chí tôi sợ phải cố gắng lý giải nó. Nếu tôi sai…” Anh trở nên im lặng một lát. “Chúng ta phải chờ xem. Có lẽ tối nay chúng ta sẽ biết. - Nhưng không có lý do nào khiến cô phải sợ hãi đâu, cô Dillard.” Anh mỉm cười an ủi. “Cô thấy bà Drukker thế nào?”
“Bà ấy có vẻ đỡ hơn nhiều. Nhưng vẫn còn chuyện gì đó khiến bà ấy lo lắng; và tôi nghĩ điều đó có liên quan đến Adolph, bởi vì bà ấy cứ nói về anh ta suốt thời gian tôi ở bên cạnh, và cứ hỏi tôi có để ý thấy điều gì bất thường trong cách cư xử của anh ta gần đây không.”
“Trường hợp này cũng khá tự nhiên,” Vance đáp lại. “Nhưng cô không được để thái độ bệnh tật của bà ấy ảnh hưởng đến cô. - Và giờ, để chuyển chủ đề: tôi biết rằng tối hôm qua cô đã ở trong thư viện khoảng nửa tiếng gì đó trước khi cô đến nhà hát. Hãy cho tôi biết, cô Dillard: trong khoảng thời gian đó túi xách của cô ở đâu?”
Câu hỏi làm cô ấy giật mình; nhưng sau một thoáng ấp úng cô ấy trả lời: “Khi tôi đi vào trong thư viện, tôi để nó với khăn choàng của mình trên cái bàn nhỏ ở cạnh cửa.”
“Chính là cái túi xách da cá sấu đựng chiếc chìa khóa?”
“Đúng vậy. Sigurd rất ghét quần áo dạ hội, và khi chúng tôi cùng nhau ra ngoài thì tôi luôn mặc quần áo ban ngày của mình.”
“Nên cô đã để túi xách trên bàn trong khoảng nửa tiếng đó, và sau đó giữ nó bên người suốt buổi tối còn lại. - Vậy còn sáng nay thì sao?”
“Tôi ra ngoài tản bộ trước bữa sáng và mang nó theo bên mình. Sau đó tôi treo nó lên giá treo nón trong sảnh khoảng một tiếng đồng hồ gì đó; nhưng khi tôi chuẩn bị đến nhà quý bà Mae vào khoảng 10 giờ thì tôi mang nó theo. Sau đó tôi phát hiện ra khẩu súng lục nhỏ đã được trả về, và tôi hoãn việc đi thăm lại. Tôi để túi xách ở dưới nhà trong phòng bắn cung cho đến khi anh và anh Markham đến; và tôi giữ nó bên mình suốt đến giờ.
Vance cảm ơn cô ấy một cách kỳ lạ.
“Và giờ chuyến du ngoạn của cái túi xách đã được kỹ lưỡng lần ra, xin hãy cố quên hết tất cả đi.” Cô ấy sắp sửa hỏi một câu, nhưng anh đã đoán trước được sự thắc mắc của cô và nói luôn: “Đêm hôm qua cô đã đến Plaza để ăn tối, bác của cô đã nói với chúng tôi. Cô nhất định phải về nhà rất muộn.”
“Tôi không bao giờ ở lại trễ khi tôi đi bất kỳ chỗ nào cùng với Sigurd,” cô ấy trả lời, bằng giọng điệu phàn nàn. “Anh ấy có ác cảm với đời sống về đêm. Tôi năn nỉ anh ấy ở lại lâu thêm, nhưng trông anh ấy khổ sở quá nên tôi không đành lòng ở lại. Thực sự, chúng tôi về nhà lúc 12 giờ rưỡi.”
Vance đứng dậy với một nụ cười lịch sự.
“Cô thật tốt khi đã kiên nhẫn chịu đựng những câu hỏi ngốc nghếch của chúng tôi đến vậy… Giờ chúng tôi sẽ ghé qua ông Pardee và xem ông ta có những gợi ý sáng tỏ nào muốn đưa ra không. Tôi nghĩ ông ta thường ở nhà vào giờ này.”
“Tôi chắc hiện giờ ông ta có ở nhà đó.” Cô gái tiễn chúng tôi ra sảnh. “Ông ta đã đên đây một lát trước khi mọi người đến, và ông ta nói phải về nhà để lo vài chuyện thư từ.”
Chúng tôi chuẩn bị đi ra thì Vance dừng lại.
“À, này, cô Dillard; còn một chuyện mà tôi quên hỏi cô. Tối qua lúc cô về nhà cùng anh Arnesson, làm thế nào mà cô biết là mới 12 giờ rưỡi vậy? Tôi thấy cô không đeo đồng hồ.”
“Sigurd nói với tôi,” cô ấy giải thích. “Tôi đã khá khó chịu với anh ấy vì đưa tôi về nhà sớm như vậy, và lúc chúng tôi bước vào sảnh này thì tôi hằn học hỏi anh ấy mấy giờ rồi. Anh ấy nhìn đồng hồ và nói đã 12 giờ rưỡi rồi…”
Vào ngay lúc đó, cửa trước mở ra và Arnesson bước vào. Anh ta nhìn chúng tôi bằng vẻ ngạc nhiên chế nhạo; sau đó anh ta bắt gặp cái nhìn của Belle Dillard.
“Xin chào, em gái,” anh ta vui vẻ gọi cô ấy. “Thì ra đang ở trong tay của gendarmerie[*].” Anh ta ném cho chúng tôi cái nhìn trào phúng. “Sao lại họp kín vậy? Căn nhà này sắp biến thành đồn cảnh sát rồi. Săn tìm manh mối của kẻ đã giết Sprigg sao? Ha! Chàng trai sáng dạ bị khử bởi giảng viên ganh ghét cậu ta, và kiểu như vậy ư?… Hy vọng các người không cáo buộc Nữ thần săn bắn Diana tội giết người cấp độ ba.”
“Không hề có chuyện như vậy,” cô gái lên tiếng. “Họ rất tử tế. Và tôi đã kể cho họ nghe rằng anh là người cổ hủ như thế nào - đưa tôi về nhà lúc 12 giờ rưỡi.”
“Tôi nghĩ tôi rất dễ tính,” Arnesson nhe răng cười. “Quá khuya cho một người trẻ như em ở ngoài phố.”
“Nhất định làm một người già cả và… và đam mê toán học phải khủng khiếp lắm,” cô ấy trả đũa với chút giận dỗi, và chạy lên lầu.
Arnesson nhún vai và nhìn theo cho đến khi cô ấy biến mất. Sau đó anh ta nhìn Markham với con mắt hoài nghi.
“Chà, điều tốt lành anh mang đến là gì vậy? Có tin tức gì về nạn nhân mới nhất không?” Anh ta dẫn đường quay lại phòng khách. “Anh biết không, tôi nhớ cậu bé đó. Cậu ta sẽ còn tiến xa nữa. Đáng tiếc là cậu ta phải mang cái tên Johnny Sprig. Thậm chí ‘Peter Piper’[*] còn an toàn hơn. Không có chuyện gì xảy ra với Peter Piper ngoài đoạn nhặt ớt; và người ta không thể biến điều đó thành một vụ giết người…”
“Chúng tôi không có gì để thông báo cả, Arnesson.” Markham chen vào, khó chịu vì thói suồng sã của người đàn ông kia. “Tình hình vẫn không thay đổi.”
“Tôi đoán chỉ ghé thăm xã giao thôi. Có ở lại ăn trưa không?”
“Chúng tôi có quyền,” Markham lạnh lùng nói, “điều tra vụ án bằng bất cứ cách nào chúng tôi thấy phù hợp. Cũng như chúng tôi không có trách nhiệm phải giải thích với anh về những hành động của chúng tôi.”
“Ra là thế! Đúng là có chuyện gì đó đã xảy ra làm anh khó chịu.” Arnesson nói với sự mỉa mai. “Tôi tưởng mình đã được chấp nhận làm phụ tá rồi; nhưng tôi thấy là mình bị chuyển thẳng vào trong bóng tối.” Anh ta thở dài thườn thượt và lấy tẩu thuốc ra. “Dropping the Pilot[*]! – Bismarck[*] và tôi. Than ôi!”
Vance đang mơ màng hút thuốc gần cổng vòm, có vẻ như không chú ý đến lời phàn nàn của Arnesson. Giờ đây anh bước vào trong phòng.
“Thật ra, anh biết không Markham, anh Arnesson nói đúng. Chúng ta đã đồng ý cập nhật tin tức cho anh ta; và nếu anh ta muốn giúp được gì cho chúng ta thì anh ta phải biết hết tất cả sự việc.”
“Chính anh,” Markham phản đối, “là người đã chỉ ra sự nguy hiểm có thể có khi nhắc đến chuyện xảy ra đêm qua…”
“Đúng. Nhưng lúc đó tôi quên mất lời hứa của chúng ta với anh Arnesson. Và tôi chắc sự thận trọng của anh ta có thể tin cậy được.” Sau đó Vance kể lại chi tiết trải nghiệm của bà Drukker vào đêm hôm trước.
Arnesson chú ý lắng nghe. Tôi để ý thấy biểu cảm mỉa mai của anh ta dần biến mất, và thay vào đó là cái nhìn thận trọng và buồn bã. Anh ta ngồi đó vài phút trong sự im lặng trầm tư, tẩu thuốc ở trong tay anh ta.
“Đó chắc chắn là một yếu tố quan trọng trong vấn đề này,” rất lâu sau anh ta nhận xét. “Nó thay đổi hằng số của chúng ta. Tôi có thể thấy rằng chuyện này phải được tính toán từ một góc độ mới. Giám Mục, đã xuất hiện, ở giữa chúng ta. Nhưng tại sao hắn lại đến ám quý bà Mae chứ?”
“Bà ấy bị đồn đại rằng đã thét lên gần như đúng lúc Robin chết.”
“A ha!” Arnesson ngồi thẳng dậy. “Tôi hiểu hàm ý của anh rồi. Bà ấy nhìn thấy Giám Mục từ cửa sổ của mình sáng ngày Chim Cổ Đỏ bị giết, và sau đó hắn quay lại và đặt trên tay nắm cửa của bà ấy như một lời cảnh cáo bà ấy phải giữ im lặng.”
“Có lẽ chuyện đại loại là vậy… Giờ anh đã có đủ các hệ số để tính toán công thức của mình chưa?”
“Tôi muốn nhìn qua quân giám mục đen này. Nó ở đâu vậy?”
Vance thò tay vào túi, và lấy quân cờ ra. Arnesson háo hức cầm lấy nó. Đôi mắt của anh ta sáng lên trong một lát. Anh ta lật quân cờ lại trong tay mình, và rồi trả nó lại.
“Anh có vẻ nhận ra quân giám mục đặc biệt này,” Vance nói nhẹ nhàng. “Anh đoán đúng. Nó được mượn từ bộ cờ của anh trong thư viện.”
Arnesson chậm rãi gật đầu xác nhận.
“Tôi tin là vậy.” Đột nhiên anh ta quay sang Markham, và một cái nhìn mỉa mai hiện lên trên khuôn mặt gầy gò của anh ta. “Có phải vì vậy mà tôi không được phép biết gì cả hay không? Tôi đang bị nghi ngờ, đúng không? Vong hồn của Pythagoras[*] ơi! Hình phạt gắn với tội ác xấu xa của việc xuất hiện quân cờ của mình ở nhà hàng xóm là gì vậy?”
Markham đứng dậy và bước về phía sảnh.
“Anh không bị nghi ngờ, Arnesson,” anh ta trả lời, không cố che giấu sự nóng nảy của mình. “Quân giám mục được bỏ ở nhà bà Drukker vào đúng nửa đêm.”
“Và tôi trễ tới nửa tiếng để có thể thực hiện. Xin lỗi đã làm anh thất vọng.”
“Hãy cho chúng tôi biết nếu công thức của anh thành công,” Vance nói, lúc chúng tôi bước qua cửa trước. “Giờ chúng tôi có chuyến thăm hỏi ngắn dành cho ông Pardee.”
“Pardee? Ô hô! Gặp một chuyên gia cờ vua về chủ đề quân giám mục à? Tôi hiểu lập luận của anh rồi - ít ra nó có tác dụng đơn giản và trực tiếp…”
Anh ta đứng trên hiên nhỏ và quan sát chúng tôi, như một pho tượng mỉa mai, lúc chúng tôi băng qua đường.
Pardee đón tiếp chúng tôi bằng phong cách lịch sự quen thuộc của ông ta. Vẻ mặt buồn bã, thất vọng là một phần biểu cảm thường xuyên của ông ta thậm chí giờ còn rõ ràng hơn bình thường; và khi ông ta kéo ghế mời chúng tôi ngồi trong phòng làm việc của ông ta, cách cư xử của ông ta là của một người đã mất niềm hứng thú với cuộc đời, và chỉ sống như một cái máy.
“Chúng tôi đến đây, ông Pardee à,” Vance bắt đầu nói, “là để tìm hiểu những gì chúng tôi có thế biết thêm về vụ sát hại Sprigg ở công viên Riverside sáng hôm qua. Chúng tôi có những lý do xác đáng cho mỗi câu hỏi mà chúng tôi sắp hỏi ông.”
Pardee gật đầu bằng lòng.
“Tôi sẽ không bị tổn thương trước bất kỳ câu hỏi nào anh đặt ra. Sau khi đọc báo tôi nhận ra mọi người đang đối mặt với vấn đề bất thường như thế nào.”
“Vậy trước tiên, xin hãy cho chúng tôi biết ông đã ở đâu từ 7 đến 8 giờ sáng hôm qua?”
Một sự ửng đỏ trên gương mặt của Pardee, nhưng ông ta trả lời bằng giọng trầm đều.
“Tôi đang ngủ. Đến 9 giờ tôi mới thức dậy.”
“Không phải thói quen của ông là đi tản bộ trong công viên trước bữa sáng sao?” (Tôi biết đây chỉ là phỏng đoán của Vance, vì chủ đề về thói quen của Pardee chưa từng được nói đến trong quá trình điều tra.)
“Điều đó hoàn toàn đúng,” người đàn ông trả lời, không chút do dự. “Nhưng hôm qua tôi không đi, - tôi làm việc khá khuya tối hôm trước đó.”
“Lần đầu tiên ông nghe về cái chết của Sprigg là khi nào?
“Khi ăn sáng. Người đầu bếp của tôi kể lại chuyện đang được bàn tán trong khu phố. Tôi đọc được thông tin chính thức về thảm kịch trong số báo mới nhất của tờ báo Sun buổi tối.”
“Và ông đã thấy sự tái hiện thông điệp của Giám Mục, tất nhiên, trong bài báo sáng nay. - Ý kiến của ông về chuyện này như thế nào, ông Pardee?”
“Tôi hầu như không biết gì.” Lần đầu tiên cặp mắt lờ đờ của ông ta cho thấy dấu hiệu sinh động. “Đây là một tình huống không thể tin được. Sự may rủi toán học hoàn toàn đối nghịch với một chuỗi những sự kiện đan xen ngẫu nhiên như vậy.”
“Đúng,” Vance tán thành. “Và nói về toán học: ông có quen thuộc với tensor Riemann-Christoffel không?”
“Tôi có biết về nó,” người đàn ông xác nhận. “Drukker dùng nó trong quyển sách của anh ta về đường vũ trụ. Tuy nhiên, toán học của tôi không phải là loại của vật lý. Nếu tôi không trở nên say mê cờ vua” - ông ta mỉm cười buồn bã - “tôi đã là một nhà thiên văn học rồi. Bên cạnh việc điều khiển các nhân tố trong sự kết hợp phức tạp của cờ vua, sự hài lòng tinh thần lớn nhất mà một người có thể đạt được, tôi nghĩ, chính là vẽ bản đồ bầu trời và khám phá các hành tinh mới. Tôi thậm chí còn giữ một chiếc kính thiên văn xích đạo 5 inch[*] ở tầng áp mái của tôi cho các quan sát nghiệp dư.”
Vance chăm chú lắng nghe Pardee; và thảo luận với ông ta vài phút về việc xác định thiên thể bên ngoài sao Hải Vương gần đây của giáo sư Pickering[*], mặc cho sự bối rối của Markham và sự khó chịu của viên trung sĩ. Cuối cùng, anh ta đưa câu chuyện trở về với công thức tensor.
“Tôi hiểu, ông đã ở nhà Dillard thứ năm tuần trước khi anh Arnesson đang bàn về tensor này với Drukker và Sprigg.”
“Phải, tôi nhớ là vấn đề này được nhắc đến lúc đó.”
“Ông biết Sprigg như thế nào?”
“Chỉ tình cờ thôi. Tôi gặp cậu ta cùng với Arnesson một hai lần.”
“Sprigg, có vẻ như, cũng có thói quen đi dạo trong công viên Riverside trước bữa sáng,” Vance lơ đãng nhận xét. “Có bao giờ tình cờ gặp cậu ta ở đó không, ông Pardee?”
Mí mắt của người đàn ông khẽ run, và ông ta do dự trước khi trả lời.
“Chưa bao giờ,” cuối cùng ông ta đáp.
Vance tỏ vẻ thờ ơ với sự phủ nhận. Anh đứng dậy và đi đến cửa sổ phía trước, nhìn ra ngoài.
“Tôi tưởng một người có thể nhìn ra bãi tập bắn cung từ đây. Nhưng tôi nhận thấy rằng góc độ này hoàn toàn bị che khuất tầm nhìn.”
“Đúng vậy, bãi tập khá kín đáo. Thậm chí còn có một bãi đất trống đối diện bức tường nữa, vậy nên không ai có thể nhìn thấy nó… Anh đang nghĩ đến một nhân chứng có thể trong cái chết của Robin sao?”
“Chuyện đó, và những thứ khác nữa.” Vance trở lại ghế của mình. “Anh không chơi bắn cung, tôi nghĩ vậy.”
“Nó hơi quá sức đối với tôi. Có một lần cô Dillard cố gắng khiến tôi hứng thú với thể thao, nhưng tôi không phải là một vận động viên hứa hẹn gì. Tuy nhiên tôi từng đến vài giải thi đấu với cô ấy.”
Một chút nhẹ nhàng kỳ lạ nhuốm trong giọng nói của Pardee, và vì lý do nào đó tôi không thể giải thích chính xác rằng tôi có cảm giác ông ta thích Belle Dillard. Cả Vance, hẳn đã nhận ra cảm giác giống như thế, vì sau khi ngừng một lát anh nói:
“Tôi tin rằng ông sẽ nhận ra ý định của chúng tôi không phải là moi móc đời tư của người khác một cách không cần thiết; nhưng vấn đề về động cơ trong hai án mạng mà chúng tôi đang điều tra vẫn còn mờ mịt, và như cái chết của Robin ban đầu bị hời hợt cho là một cuộc tranh giành tình cảm của cô Dillard, nó có thể giúp chúng tôi biết, một cách tổng quát, tình hình thật sự liên quan đến sở thích của quý cô này… Là một người bạn của gia đình có thể ông biết; và chúng tôi cảm kích sự tin tưởng của ông trong vấn đề này.”
Ánh mắt của Pardee trôi ra ngoài cửa sổ, và ông ta thở dài.
“Tôi đã luôn có cảm giác rằng ngày nào đó cô ấy và Arnesson sẽ lấy nhau. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán thôi. Có lần cô ấy nói với tôi rất quả quyết rằng cô ấy sẽ không xem xét đến chuyện cưới hỏi cho đến khi cô ấy ba mươi tuổi.” (Người ta có thể dễ dàng đoán ra bằng sự kết nối nào mà Belle Dillard đã thông báo điều này cho Pardee biết. Cuộc sống tình cảm, cũng như đời sống trí tuệ của ông ta, có vẻ như gặp nhiều chuyện không may.)
“Khi ấy ông không tin,” Vance hỏi tiếp, “rằng trái tim của cô ấy đang nghiêm túc quan tâm đến anh Sperling ư?”
Pardee lắc đầu. “Tuy nhiên,” ông ta dè dặt, “sự hy sinh vì nghĩa mà anh ta đang trải qua hiện tại có một sức hút tình cảm mạnh mẽ đối với phụ nữ.”
“Cô Dillard nói với tôi rằng ông đã đến gặp cô ấy sáng nay.”
“Tôi thường ghé qua vào ban ngày.” Ông ta rõ ràng đang khó chịu và, tôi nghĩ, hơi bối rối.
“Ông có quen biết bà Drukker không?”
Pardee nhìn Vance với vẻ nhạy cảm, dò hỏi.
“Không đặc biệt lắm,” ông ta nói. “Tôi tình cờ gặp bà ấy vài lần.”
“Ông đã đến nhà bà ấy?”
“Trong nhiều dịp lắm, nhưng luôn để gặp Drukker. Mấy năm nay tôi có hứng thú về mối liên hệ của toán học với cờ vua…”
Vance gật đầu.
“Nhân tiện, trận đấu giữa ông với Rubinstein vào tối qua như thế nào? Tôi không thấy báo sáng nay viết gì cả.”
“Tôi bỏ cuộc ở nước cờ thứ 44.” Người đàn ông nói một cách tuyệt vọng. “Rubinstein tìm ra một nhược điểm trong thế tấn công của tôi mà tôi đã hoàn toàn bỏ qua khi tôi khóa nước đi của mình lúc hoãn trận đấu.”
“Giáo sư Dillard kể cho chúng tôi biết, Drukker đã đoán trước kết quả khi ông và anh ta thảo luận tình hình tối hôm qua.”
Tôi không tài nào hiểu được tại sao Vance lại chua cay nhắc đến việc này như vậy, biết rõ nó là sự nhức nhối đối với Pardee như thế nào. Markham, cũng nhíu mày với những gì dường như thiếu tế nhị không thể tha thứ được của Vance.
Pardee đỏ mặt, và nhích người trên ghế.
“Đêm qua Drukker nói quá nhiều.” Lời nhận xét không phải là không ác ý. “Dù anh ta không phải là người thi đấu, anh ta cũng nên biết rằng những cuộc tranh luận như vậy là điều cấm kỵ trong lúc trận đấu chưa kết thúc. Mặc dù, thành thật mà nói, tôi ít dựa vào lời tiên đoán của anh ta. Tôi tưởng nước cờ khóa của tôi đã giải quyết được tình hình, nhưng Drukker đã nhìn xa hơn tôi. Phân tích của anh ta sâu sắc đến kỳ lạ.” Có chút ghen tị trong giọng nói của ông ta, và tôi cảm thấy rằng ông ta ghét cay ghét đắng Drukker hết mức mà bản chất có vẻ ôn hòa của ông ta cho phép.
“Trận đấu kéo dài trong bao lâu?” Vance hỏi một cách ngẫu nhiên.
“Nó kết thúc vào lúc hơn 1 giờ một chút. Chỉ có mười bốn nước cờ trong phiên đấu đêm qua thôi.”
“Có nhiều khán giả không?”
“Số lượng lớn bất thường, khi xét đến giờ giấc khuya như vậy.”
Vance dập tắt điếu thuốc và đứng dậy. Khi chúng tôi ở trong sảnh dưới trên đường đi ra cửa trước thì anh đột ngột dừng lại và, nhìn chằm chằm Pardee bằng ánh mắt trào phúng châm biếm, rồi nói:
“Ông biết đó, quân giám mục đen lại được tự do lúc tối hôm qua vào khoảng nửa đêm đấy.”
Lời nói của anh gây ra một hiệu ứng đáng kinh ngạc. Pardee đứng thẳng người lên cứ như ông ta bị đánh vào mặt; và gò má của ông ta trắng bệch. Ông ta nhìn Vance đến nửa phút, mắt như than hồng. Đôi môi của ông ta cử động với chút run rẩy, nhưng không có từ nào được phát ra. Và rồi, như thể với nỗ lực phi thường, ông ta cứng đờ quay đi và bước đến cửa. Giật nó mở ra, ông ta giữ nó để chúng tôi bước qua.
Lúc chúng tôi bước lại gần đường Riverside Drive đến xe của vị công tố viên, bị bỏ lại đằng trước nhà Drukker ở đường số 76, Markham sắc sảo hỏi Vance về lời bình luận cuối cùng mà anh đã nói với Pardee.
“Tôi đã hy vọng,” Vance giải thích, “sẽ khiến ông ta ngạc nhiên để lộ vẻ thừa nhận hoặc hiểu biết nào đó. Ủa, Markham à, tôi không mong đợi hiệu ứng nào như cái mà tôi vừa gây ra. Cách ông ta phản ứng thật kinh ngạc. Tôi không hiểu - tôi không tài nào hiểu được…”
Anh trở nên đắm chìm trọng suy nghĩ của mình. Nhưng lúc xe rẽ vào đường Broadway từ đường số 72, anh đã tỉnh táo lại và chỉ đường tài xế đến khách sạn Sherman Square.
“Tôi có một khao khát thổn thức muốn biết thêm nữa về trận đấu cờ vua giữa Pardee và Rubinstein. Không có nguyên nhân cho việc đó đâu - chỉ là tính thất thường của tôi thôi. Nhưng ý tưởng đó đã hình thành trong đầu tôi từ lúc giáo sư nhắc đến nó… Từ 11 giờ cho đến hơn 1 giờ sáng - đó là một khoảng thời gian rất dài để đấu tiếp một ván đấu dang dở chỉ với 44 nước đi.”
Chúng tôi trờ tới lề đường ngay góc đại lộ Amsterdam với đường số 71, và Vance biến mất vào trong câu lạc bộ cờ vua Manhattan. Vừa đúng năm phút trước khi anh quay lại. Trong tay anh là một tờ giấy chứa đầy các ký hiệu. Tuy nhiên, không có dấu hiệu vui mừng trong biểu hiện của anh.
“Giả thuyết gượng gạo nhưng mê hoặc của tôi,” anh nói với một cái nhăn mặt, “đã bị mắc cạn trên cơ sở những sự kiện tầm thường. Tôi vừa nói chuyện với thư ký của câu lạc bộ; và phiên đấu tối hôm qua tốn 2 tiếng 19 phút. Có vẻ đó là một trận đấu rực rỡ, đầy bí ẩn và chiến lược thăm dò lẫn nhau. Vào lúc khoảng 11 giờ rưỡi, khán giả đã chọn Pardee là người thắng cuộc; nhưng sau đó Rubinstein trình diễn một màn phân tích chống đỡ bậc thầy, và tiến hành xé chiến thuật của Pardee thành từng mảnh - đúng như Drukker đã đoán trước. Trí tuệ đáng kinh ngạc, của Drukker…”
Rõ ràng ngay lúc này anh hoàn toàn không hài lòng với những gì mình đã biết được; và những lời tiếp theo của anh nói ra là sự thất vọng.
“Tôi nghĩ mình đã làm như cách của trung sĩ, có thể nói thế, và theo đuổi một chút tỉ mỉ thông thường. Vì thế, tôi đã mượn một tờ điểm số của trận đấu đêm qua và sao chép lại các nước cờ. Tôi có thể xem qua ván cờ vào ngày nào đó khi rảnh rỗi.”
Và, theo tôi nghĩ đó là sự quan tâm bất thường, anh gấp tờ giấy ghi điểm lại rồi để nó vào trong bóp tiền của mình.
Chú Thích:
[*] Bức biếm họa nổi tiếng “Dropping the Pilot” (nghĩa đen: bò rơi hoa tiêu, nghĩa bóng: bỏ rơi một cố vấn) của họa sĩ người Anh John Tenniel (1820 - 1914) vẽ năm 1890 mô tả sự kiện Bismarck từ chức. Trong đó vẽ Thủ tướng Otto von Bismarck như một hoa tiêu, đang bước xuống tàu dưới sự quan sát vu vơ và lãnh đạm của hoàng đế Đức Wilhelm II. Bismarck rời khỏi chiếc ghế Thủ tướng dưới lệnh của Wilhelm II do quan điểm chính trị của hai người quá khác biệt.
[*] Otto Eduard Leopold von Bismarck (1815 - 1898): chính khách người Phổ đã chi phối tình hình Đức và châu Âu với chính sách bảo thủ kể từ thập niên 1860 cho đến năm 1890 khi bị buộc từ chức bởi hoàng đế Đức Wilhelm II.
[*] Pythagoras (khoảng 570 - 495 TCN): nhà triết học, nhà toán học vĩ đại người Hy Lạp. Trong tiếng Việt, tên của ông thường được viết theo tiếng Pháp là Pythagore.
[*] 13 cm.
[*] Khi cuộc thảo luận này diễn ra, Giáo sư Pickering đã cho rằng có sự xáo trộn của sao Thiên vương, hai hành tinh khác xa hơn sao Hải vương: P và S.
[*] Đại tá Benjamin Hanlon, sĩ quan chỉ huy của Ban Điều tra thuộc Văn phòng công tố quận.
[*] Geraldine Farrar (1882-1967): nữ ca sĩ opera giọng soprano và diễn viên điện ảnh người Mỹ.