← Quay lại trang sách

Chương 26 HEATH ĐẶT CÂU HỎI-

(Thứ Ba, 26 tháng Tư; 4 p.m.)

Khi Markham, Vance và tôi rời khỏi nhà Dillard một giờ sau đó, tôi nghĩ rằng vụ Giám Mục đã kết thúc. Và nó đã chấm dứt những gì công chúng đã lo sợ. Nhưng có một phát hiện khác xảy đến; và nó, theo cách nào đó, là điều đáng kinh ngạc nhất trong tất cả sự kiện đã được đưa ra ánh sáng vào ngày hôm đó.

Heath tham gia cùng chúng tôi tại Văn phòng Công tố quận sau bữa trưa, để thảo luận một số vấn đề chính thức; và sau đó vào buổi chiều Vance xem xét toàn bộ vụ việc, giải thích nhiều điểm khó hiểu của nó.

“Arnesson đã đưa ra giả thuyết về động cơ của những tội ác điên loạn này,” anh ta mở đầu. “Giáo sư biết vị trí của mình trong giới khoa học đã bị chiếm đoạt bởi người đàn ông trẻ tuổi. Tâm trí ông ấy đã bắt đầu mất đi sức mạnh và sự sắc sảo của nó; và ông ấy nhận ra rằng cuốn sách mới của ông ấy về cấu trúc nguyên tử chỉ có thể được thực hiện thông qua sự giúp đỡ của Arnesson. Một sự căm thù to lớn dành cho người con nuôi đã lớn dần trong ông ấy; Arnesson trong mắt ông ấy đã trở thành một kiểu quái vật mà chính bản thân ông ấy, giống như Frankenstein, đã tạo ra, và là người đang lớn dần lên để hủy diệt ông ấy. Và sự thù hằn trong đầu ông ấy đã tăng lên bởi cảm xúc ghen tị từ trước. Mười năm qua, tình yêu thương trong cuộc sống độc thân hiu quạnh của ông ấy được dồn hết cho Belle Dillard - cô ấy tượng trưng cho cuộc sống hiện hữu của ông ấy mỗi ngày - và khi ông ấy thấy rằng Arnesson có khả năng sẽ mang cô ấy đi khỏi ông, lòng thù hận và oán giận của ông ấy đã tăng lên gấp đôi.”

“Động cơ thì có thể hiểu đươc,” Markham nói. “Nhưng nó không giải thích được những tội ác này.”

“Động cơ này hoạt động như một tia lửa rơi vào đống thuốc súng khô trong những cảm xúc bị dồn nén của ông ấy. Trong khi tìm kiếm một phương pháp để hủy diệt Arnesson, ông ấy đã vớ được trò đùa độc ác trong những án mạng Giám Mục. Những vụ giết người này đã mang đến sự khuây khỏa cho việc kìm nén của ông ấy; chúng cần thiết cho tâm hồn đang xáo trộn dữ dội của ông ấy; và đồng thời chúng đã giải đáp cho câu hỏi đen tối trong tâm trí ông ấy rằng làm thế nào để có thể loại bỏ Arnesson và giữ Belle Dillard cho riêng mình.”

“Nhưng tại sao,” Markham hỏi, “ông ấy không đơn thuần là giết Arnesson và chấm dứt chuyện này?”

“Anh bỏ qua những khía cạnh tâm lý của tình hình này rồi. Tâm trí của giáo sư bị mất kiểm soát do việc đè nén cảm xúc lâu dài. Điều hiển nhiên là đòi hỏi một lối thoát. Và sự hận thù dữ dội dành cho Arnesson đã mang đến một áp lực cho điểm nổ. Vì vậy, hai xung lực này đã kết họp với nhau. Bằng việc thực hiện những vụ giết người, ông ấy không chỉ làm khuây khỏa sự ức chế của mình, mà còn trút cơn thịnh nộ của mình nhằm vào Arnesson, để Arnesson, anh thấy đó, phải trả giá cho hình phạt đó. Quả là sự trả thù càng mạnh mẽ thì càng thỏa mãn, hơn hẳn việc chỉ giết một người rồi xong, - đó là trò đùa cực kỳ tàn nhẫn đằng sau những trò đùa nhỏ hơn trong chính những vụ giết người…”

“Tuy nhiên, mưu kế xảo quyệt này có một nhược điểm rất lớn, mặc dù giáo sư không nhận ra nó. Nó làm vụ việc này mở ra sự phân tích tâm lý; và ngay từ đầu tôi đã yêu cầu một nhà toán học như một nhân viên hình sự. Cái khó của việc nêu tên kẻ sát nhân nằm ở sự kiện là gần như mọi nghi can có thể đều là nhà toán học. Người duy nhất tôi biết vô tội là Arnesson, vì anh ta là người duy nhất luôn giữ được sự cân bằng về tâm lý - đó là, người luôn luôn tuôn ra những cảm xúc nảy sinh từ những suy đoán khó hiểu kéo dài của anh ta. Một thái độ chế nhạo và giễu cợt đã được biểu lộ một cách tự nhiên, và một sự bùng nổ dữ dội, là tương đương về mặt tâm lý. Mang toàn bộ sự kiềm chế chuyển thành lời nhạo báng một ai đó là việc tạo ra một cách thức thỏa mãn thông thường và duy trì một trạng thái cân bằng về cảm xúc. Những người hay giễu cợt, nhạo báng luôn có thể tin cậy được, vì họ loại bỏ được nhiều nhất sự giận dữ không thường xuyên của cơ thể; trong khi người kiềm chế sự hung bạo của mình và tích lũy sự cay độc dưới vẻ ngoài nghiêm nghị và kiên cường thì luôn là đối tượng tạo ra những cơn giận dữ đầy nguy hiểm. Đây là lý do tại sao tôi biết Arnesson không có khả năng thực hiện những án mạng Giám Mục và lý do tại sao tôi đề nghị anh để anh ta giúp đỡ chúng ta điều tra. Như anh ta thừa nhận, anh ta đã nghi ngờ giáo sư; và yêu cầu của anh ta về việc trợ giúp chúng ta, tôi tin là, được thúc đẩy bởi mong muốn giữ được nhiệm vụ là anh ta có thể bảo vệ Belle Dillard và chính mình tốt hơn trong trường hợp sự nghi ngờ của anh ta là chính xác.

“Nghe có vẻ hợp lý,” Markham tán thành. “Nhưng từ đâu mà giáo sư Dillard có được những ý tưởng quái dị cho những vụ giết người?”

“Motif đồng dao Mẹ Ngỗng có lẽ được gợi ý khi ông ấy nghe Arnesson giễu cợt Robin là hãy đề phòng mũi tên từ cây cung của Sperling. Ông ấy thấy trong lời bình luận đó một cách thức để trút sự hận thù của mình lên chính người đã nói ra câu đó; và ông ấy đã chờ đợi thời cơ. Cơ hội để ông ấy dàn cảnh tội ác đến ngay sau đó. Khi nhìn thấy Sperling rời khỏi con đường vào sáng hôm đó, ông ấy biết rằng Robin ở một mình trong phòng bắn cung. Vì vậy, ông ấy đi xuống dưới, trò chuyện với Robin, đập vào đầu anh ta, đâm một mũi tên xuyên qua tim, và kéo anh ta ra bãi tập bắn cung. Sau đó ông ấy lau vết máu, hủy tấm vải, gởi bức thông điệp của mình vào một nơi kín đáo, đặt vào hộp thư của căn nhà, quay trở lại thư viện, và kêu cứu trong căn phòng này. Tuy nhiên, có một yếu tố không lường trước được đã nảy sinh: - ông Pyne đang ở trong phòng của Arnesson khi giáo sư nói ông ấy đi ra ban công. Nhưng không có hại gì cho việc này cả, cho dù ông Pyne đã biết điều gì đó không đúng khi ông ta nhận ra giáo sư đã nói dối, ông ta chắc chắn không nghi ngờ quý ông cao tuổi này là một kẻ giết người. Tội ác rõ ràng là đã thành công.”

“Ngay cả như vậy,” Heath xen vào, “anh đã đoán được Robin không bị bắn bằng cung tên.”

“Phải. Tôi thấy tình trạng méo mó của khấc tên đã đâm xuyên qua xác Robin; và do đó tôi kết luận rằng anh chàng này bị giết ở trong nhà, sau khi bị đánh bất ngờ vào đầu. Đó là lý do tại sao tôi cho rằng cây cung đã bị ném ra bãi tập từ cửa sổ, - lúc đó tôi không biết giáo sư có tội. Cây cung dĩ nhiên không bao giờ ở bãi tập. - Nhưng bằng chứng mà tôi dựa trên suy luận của mình không bị ảnh hưởng vì một sai sót hay sơ suất về phần giáo sư. Miễn là trò chơi đồng dao Mẹ Ngỗng của ông ấy đã hoàn thành, phần còn lại không là vấn đề gì đối với ông ấy.”

“Hung khí ông ấy sử dụng theo anh nghĩ là gì?” Markham đặt nghi vấn.

Cây gậy đi bộ của ông ấy, rất có thể. Anh có thể nhận thấy được nó có một cái tay cầm vàng rất lớn, hoàn hảo để tạo nên một thứ vũ khí gây chết người[*]. Nhân tiện, tôi nghiêng về ý nghĩ rằng ông ấy đã phóng đại bệnh gout của mình để tạo sự thương hại và để tránh bất kỳ sự nghi ngờ có thể hướng đến ông ấy.”

“Còn giải thích về án mạng của Sprigg thì sao?”

“Sau cái chết của Robin thì ông ấy có thể đã có cái nhìn đầy tính toán vê chất liệu đồng dao Mẹ Ngỗng cho tội ác khác. Dù gì đi nữa, Sprigg đã ghé thăm ngôi nhà đó vào tối thứ năm trước khi bị bắn; và tại thời điểm ấy, tôi nghĩ, đã có một ý tưởng được nảy sinh. Vào cái ngày được chọn cho việc làm ghê tởm đó, ông ấy đã dậy thật sớm và thay đồ, chờ đợi tiếng gõ cửa của ông Pyne lúc 7 giờ rưỡi, trả lời nó, và sau đó đến công viên - có lẽ đi qua phòng bắn cung và bằng đường hẻm. Thói quen của Sprigg là đi bộ mỗi buổi sáng có thể đã tình cờ được đề cập bởi Arnesson, hoặc thậm chí là bởi chính cậu trai trẻ này.”

“Nhưng anh giải thích ra sao về công thức tensor?”

“Giáo sư đã nghe Arnesson nói chuyện với Sprigg về nó vài đêm trước; và tôi nghĩ ông ấy đặt nó dưới cái xác để hướng sự chú ý - thông qua sự liên tưởng - vào Arnesson. Hơn nữa, công thức đặc biệt tinh tế đó thể hiện sự thúc đẩy về mặt tâm lý ẩn dưới những tội ác. Tensor Riemann-Christoffel là lời tuyên bố về tính vô hạn của không gian - sự phủ định đời sống vi phân của con người trên trái đất này; và theo tiềm thức thì nó chắc hẳn thỏa mãn được cảm giác hài hước xấu xa của giáo sư, tạo thêm sự đồng nhất trong ý đồ tàn ác của ông ấy. Khoảnh khắc tôi nhìn thấy nó thì tôi đã cảm nhận được ý nghĩa độc ác của nó; và nó đã chứng minh giả thuyết của tôi rằng những án mạng Giám Mục này là những hành động của một nhà toán học mà giá trị của người này đã trở nên trừu tượng và vô ước.

Vance dừng lại để châm một điếu thuốc khác, và sau một lúc im lặng suy nghĩ anh lại tiếp tục.

“Bây giờ chúng ta nói đến chuyến viếng thăm lúc nửa đêm tới nhà Drukker. Đó là một entr’acte[*] bắt buộc mà kẻ sát nhân phải thực hiện do tin đồn về tiếng thét của bà Drukker. Ông ấy lo sợ rằng người phụ nữ này đã nhìn thấy thi thể của Robin bị mang ra bãi tập; và khi, vào buổi sáng mà Sprigg bị giết, bà ấy đã ở trong vườn và gặp ông ấy trở về từ vụ giết người, ông ấy lo lắng nhiều hơn bao giờ hết rằng bà ấy có thể kết nối hai chuyện này lại với nhau. Không có gì lạ khi ông ấy cố gắng ngăn chặn chúng ta hỏi bà ấy! Và khi có được cơ hội sớm nhất, ông ấy cố gắng bịt miệng bà ấy từ lúc đó. Ông ấy lấy chìa khóa từ túi xách của Belle Dillard vào trước buổi nhạc kịch tối hôm đó, và đặt lại chỗ cũ vào sáng hôm sau. Ông ấy đã cho ông Pyne và Beedle đi nghỉ sớm; và lúc 10 giờ rưỡi thì Drukker than mệt và đã về nhà. Vào lúc nửa đêm ông ấy đoán rằng không có gì trở ngại cho chuyến viếng thăm ghê tởm của ông ấy. Việc ông ấy lấy đi quân giám mục đen như là một chữ ký tượng trưng cho vụ án mạng đã được dự tính có lẽ được gợi ý từ cuộc thảo luận cờ vua giữa ông Pardee và Drukker. Rồi lại một lần nữa, là quân cờ của Arnesson, và thậm chí tôi đã nghi ngờ ông ấy khi ông ấy nói cho chúng ta cuộc thảo luận cờ vua để hướng sự chú ý về bộ cờ vua của Arnesson trong trường hợp quân giám mục đen rơi vào tay chúng ta.”

“Anh có nghĩ rằng ông ấy đã có bất kỳ ý tưởng gì có liên quan đến ông Pardee tại thời điểm đó không?”

“Ồ, không. Ông ấy thật sự ngạc nhiên khi Arnesson phân tích trận đấu Pardee - Rubinstein đã tiết lộ sự kiện quân giám mục từ lâu đã là kẻ thù của ông Pardee… Và rõ ràng anh đã đúng về phản ứng của ông Pardee trong chuyện tôi đề cập đến quân giám mục đen vào ngày hôm sau. Người đàn ông tội nghiệp này đã nghĩ rằng tôi đang cố tình chế giễu ông ta vì ông ta đã bại trận trong tay của Rubinstein…”

Vance cúi xuống và gạt tàn thuốc.

“Thật tệ hại,” anh thì thầm một cách hối tiếc. “Tôi nợ ông ta một lời xin lỗi, anh biết đấy.” Anh nhún nhẹ đôi vai, và, ngả lưng ra ghế, tiếp tục câu chuyện. “Giáo sư có ý tưởng về việc sát hại Drukker từ chính bà Drukker. Bà ấy bày tỏ nỗi sự hãi tưởng tượng của mình cho Belle Dillard, người đã lặp lại vào bữa ăn tối hôm đó; và kế hoạch đã được hình thành. Không có gì phức tạp để thực hiện nó cả. Sau bữa tối, ông ấy đi đến gác mái và đánh máy những bức thông điệp. Sau đó ông ấy đề nghị đi dạo với Drukker, biết rằng ông Pardee sẽ không ở lâu với Arnesson; và khi ông ấy thấy ông Pardee trên đường xe ngựa thì đương nhiên ông ấy nhận ra Arnesson đang ở một mình. Ngay sau khi ông Pardee đi khỏi, ông ấy đánh Drukker và đẩy anh ta rơi xuống tường. Ngay lập tức ông ấy đi bằng lối đi bộ đến đường Drive, băng qua đường số 76, và đi tới phòng của Drukker, rồi quay trở lại trên cùng một con đường. Toàn bộ câu chuyện không thể chiếm hơn mười phút. Sau đó ông ấy bình tĩnh đi ngang qua Emery và về nhà với quyển sổ ghi chép của Drukker bên trong áo khoác của mình…”

“Nhưng tại sao,” Markham xen vào, “nếu anh chắc chắn là Arnesson vô tội, anh giải thích ra sao về chiếc chìa khóa mở cánh cửa của đường hẻm? Chỉ Arnesson có thể sử dụng con hẻm đó vào đêm Drukker chết. Giáo sư Dillard và ông Pardee đều đã ra ngoài bằng cửa trước.”

“Tôi không quan tâm đến chiếc chìa khóa từ quan điểm cho rằng Arnesson có tội. Nhưng nếu chiếc chìa khóa đã biến mất, anh thấy đấy, điều đó có nghĩa là ai đó đã lấy nó đi để ném sự nghi ngờ vào Arnesson. Thật đơn giản để Arnesson chuồn khỏi con hẻm sau khi ông Pardee đã đi khỏi, băng qua đường Drive tới con đường nhỏ và tấn công Drukker sau khi giáo sư rời khỏi anh ta… Và, Markham này, đó là những gì chúng ta đã giả định để suy nghĩ. Thật ra, đó là lời giải thích rõ ràng cho án mạng của Drukker.”

“Tuy nhiên, tôi không thể hiểu được cái gì trong đầu mình,” Heath phàn nàn, “là tại sao quý ông cao tuổi này lại giết ông Pardee. Điều đó chẳng ném bất cứ sự nghi ngờ nào vào Arnesson cả, và nó tạo ra vẻ như là ông Pardee có tội và ông ta chán ghét chính mình và rồi tự tử.”

“Việc tự sát giả tạo ấy, trung sĩ à, là trò đùa đặc sắc nhất của giáo sư. Nó đồng thời là sự mỉa mai và khinh thường; trong suốt kế hoạch chuyển tiếp khôi hài được tạo ra nhằm hủy hoại Arnesson. Và, dĩ nhiên, thực tế là chúng ta đã gặp phải một hung thủ đáng gờm có lợi thế rất lớn trong việc làm giảm sự cảnh giác của chúng ta và là nguyên nhân mà những người canh gác bị điều đi khỏi căn nhà này. Án mạng này, theo tôi nghĩ, đã được tính toán hơn là tự phát. Giáo sư tạo ra lý do nào đó để cùng ông Pardee tới phòng bắn cung, ở đó ông ấy đã đóng các cửa sổ và hạ màn xuống rồi. Sau đó, có lẽ hướng sự chú ý về một bài báo trong một tờ tạp chí, ông ấy đã bất ngờ bắn vị khách này xuyên qua thái dương, đặt khẩu súng vào tay của ông ta, và, như một chút hài hước châm biếm, xây nên ngôi nhà bằng những lá bài. Khi trở về thư viện, ông ấy đã sắp đặt những quân cờ để tạo ra cảm giác rằng ông Pardee đã nghiền ngẫm về quân giám mục đen…

“Nhưng, như tôi nói, mảnh ghép tàn nhẫn lố bịch này chỉ là vấn đề phụ. Tình tiết quý cô Muffet nhỏ mới là dénouement[*]; và nó được lên kế hoạch một cách cẩn thận để bầu trời đổ sập lên đầu Arnesson. Giáo sư đã ở nhà Drukker vào buổi sáng của tang lễ khi Madeleine Moffat mang hoa cho Humpty Dumpty; và ông ấy rõ ràng đã biết tên của đứa trẻ này - cô bé là đứa trẻ mà Drukker quý mến và đã đến ngôi nhà này rất nhiều lần. Ý tưởng về đồng dao Mẹ Ngỗng hiện đang khắc sâu vững chắc trong đầu ông ấy, giống như nỗi ám ảnh của kẻ giết người, rất tự nhiên ông ấy liên kết cái tên Moffat với Muffet. Thật vậy, không có gì chắc chắn rằng Drukker hoặc bà Drukker đã gọi đứa trẻ đó là ‘quý cô Muffet nhỏ’ khi ông ấy có mặt. Thật dễ dàng để ông ấy thu hút sự chú ý của cô bé và gọi cô bé đến gò đất cạnh bức tường vào chiều hôm qua. Ông ấy có lẽ đã nói vói cô bé rằng Humpty Dumpty muốn gặp cô bé; và cô bé đã háo hức đi với ông ấy, theo ông ấy dưới những tán cây ở đường xe ngựa, từ đó băng qua đường Drive, và đi qua đường hẻm giữa hai tòa nhà chung cư. Không ai chú ý đến họ, vì ở đường Drive đang đầy trẻ con vào giờ đó. Rồi vào đêm qua ông ấy gieo vào trong chúng ta mẫm mống nghi ngờ về Arnesson, tin rằng khi thông điệp về quý cô Muffet nhỏ đến với cánh nhà báo thì chúng ta sẽ đi tìm đứa trẻ và tìm thấy cô bé, đã chết vì thiếu không khí, trong nhà Drukker… Một kế hoạch thông minh, hiểm ác!”

“Nhưng, có phải ông ấy mong chờ chúng ta đến lục soát gác mái ở nhà ông ấy?”

“Ồ, đúng vậy; nhưng phải đến ngày hôm sau. Cho đến lúc đó ông ấy đã dọn sạch tủ quần áo và đặt máy đánh chữ ở một nơi dễ thấy hơn. Và ông ấy đã cất giấu quyển sổ ghi chép, vì có mấy ai nghi ngờ rằng ông ấy có ý định chiếm đoạt công trình nghiên cứu lượng tử của Drukker đâu. Nhưng chúng ta đã đến sớm một ngày, và làm đảo lộn sự tính toán của ông ấy.”

Markham đăm chiêu hút thuốc trong một lát.

“Anh nói anh đã tin chắc vào tội lỗi của giáo sư Dillard vào đêm qua khi anh nhớ đến nhân vật Giám mục Arnesson…”

“Đúng - ồ, đúng thế. Nó cho tôi một động cơ. Lúc đó tôi đã nhận ra rằng đối tượng để giáo sư đổ tội chính là Arnesson, và chữ ký trên những bức thông điệp đó được chọn cho mục đích này.”

“Ông ấy chờ đợi một thời gian dài trước khi ông ấy tạo sự chú ý tới ‘Những kẻ giả vờ,’” Markham nhận xét.

“Thực tế là, ông ấy không mong đợi phải làm điều đó chút nào. Ông ấy nghĩ chúng ta sẽ tự phát hiện ra cái tên này. Nhung chúng ta chậm hiểu hơn ông ấy nghĩ; và cuối cùng, trong sự tuyệt vọng, ông ấy đã nhắn anh đến và khéo léo nói vòng vo tam quốc, gây sự chú ý đến ‘Những kẻ giả vờ.”’

Markham im lặng trong một lúc lâu. Anh ta ngồi cau mày với vẻ trách móc, những ngón tay gõ dồn dập trên bàn.

“Tại sao,” cuối cùng anh ta nói, “đêm qua anh không nói cho chúng tôi biết rằng giáo sư chứ không phải Arnesson là Giám Mục? Anh làm chúng tôi nghĩ…”

“Markham thân mến của tôi! Tôi có thể làm gì khác đây? Ngay từ đầu, anh sẽ không tin tôi, và rất có thể sẽ đề nghị một hướng đi khác, chứ gì? Hơn nữa, chủ yếu là để cho giáo sư nghĩ rằng chúng ta đã nghi ngờ Arnesson. Nếu không, chúng ta sẽ không có cơ hội để thúc đẩy vấn đề như chúng ta đã làm. Lừa gạt là hy vọng duy nhất của chúng ta; và tôi biết rằng nếu anh và trung sĩ nghi ngờ ông ấy thì các anh chắc chắn sẽ làm lộ trò chơi này. Như thế, các anh không cần phải giả vờ; và lạ chưa! Mọi chuyện kết thúc một cách tốt đẹp.”

Viên trung sĩ, tôi nhận thấy, trong nửa giờ qua, thỉnh thoảng nhìn Vance với cái nhìn thắc mắc khó hiểu; nhưng vì lý do nào đó anh ta có vẻ chưa muốn nói ra những suy nghĩ băn khoăn của mình. Tuy nhiên, lúc này anh ta đổi tư thế một cách khó khăn và, chầm chậm lấy điếu xì gà ra khỏi miệng, hỏi một câu đáng kinh ngạc.

“Tôi không trách về việc anh không cho chúng tôi sáng mắt ra vào đêm qua, anh Vance à, nhưng điều mà tôi muốn biết là: tại sao, khi anh chồm lên và chỉ vào bức điêu khắc trên lò sưởi, có phải anh đã tráo ly của Arnesson và quý ông cao tuổi?”

Vance thở dài và lắc đầu thất vọng.

“Tôi đã biết rằng không gì có thể thoát khỏi cặp mắt diều hâu của anh, trung sĩ à.”

Markham lao người về phía bàn, và nhìn Vance trừng trừng với sự hoang mang giận dữ.

“Cái gì chứ!” Anh ta nói lắp bắp, sự tự kiềm chế thường ngày đã rời bỏ anh ta. “Anh đã đổi mấy cái ly? Anh cố tình…”

“Ô, này!” Vance biện hộ. “Đừng để cảm xúc giận dữ của anh trỗi dậy.” Anh quay sang Heath với lời trách cứ giả bộ. “Coi chừng những gì anh nói về tôi đấy, trung sĩ.”

“Không có thời gian để né tránh đâu.” Giọng nói của Markham lạnh lùng và vô tình. “Tôi muốn một lời giải thích.”

Vance làm một cử chỉ cam chịu.

“Ồ, được, sẵn sàng thôi. Ý tưởng của tôi, như tôi đã giải thích với anh, là rơi vào kế hoạch của giáo sư và bộc lộ ra sự nghi ngờ Arnesson. Vào sáng nay tôi cố tình để cho ông ấy thấy rằng chúng ta không có bằng chứng, và như thế, ngay cả khi chúng ta bắt Arnesson, cũng không chắc là chúng ta có thể giữ anh ta. Tôi nhận ra, trong tình huống này, ông ấy sẽ có hành động nào đó - rằng ông ấy sẽ cố gắng tiếp nhận tình hình này theo cách khoa trương nào đó - vì mục đích duy nhất của những án mạng là hủy hoại hoàn toàn Arnesson. Rằng ông ấy sẽ thực hiện hành động công khai nào đó và nhúng tay vào, tôi tin chắc như thế. Đó là gì thì tôi không biết. Nhưng chúng ta phải quan sát ông ấy chặt chẽ… Sau đó rượu đã cho tôi một ý nghĩ. Biết được ông ấy sở hữu chất độc cyanide, tôi đưa ra chủ đề về tự sát, và vì thế đã gieo ý tưởng này vào tâm trí ông ấy. Ông ấy đã rơi vào bẫy, và cố gắng đầu độc Arnesson và làm cho nó trông như một vụ tự sát. Tôi thấy ông ấy lén lút nhỏ một ống chất lỏng không màu vào trong ly của Arnesson ở tủ búp phê khi ông ấy rót rượu. Ý định ban đầu của tôi là ngăn chặn vụ giết người và phân tích rượu. Chúng ta có thể lục soát ông ấy và tìm thấy ống chất lỏng, và tôi có thể làm chứng cho việc tôi thấy ông ấy bỏ độc vào rượu. Bằng chứng này, cộng với việc xác nhận của đứa trẻ, có thể trả lời cho mục đích của chúng ta. Nhưng vào thời điểm cuối cùng, sau khi ông ấy rót đầy ly cho chúng ta, tôi đã quyết định cách giải quyết đơn giản hơn…”

“Và như vậy anh đã chuyển hướng sự chú ý của chúng tôi và tráo mấy cái ly!”

“Phải, phải. Dĩ nhiên. Tôi nhận thấy rằng một người nên sẵn sàng uống ly rượu mà mình đã rót cho người khác.”

“Anh đã lộng quyền đấy!”

“Tôi biết luật chứ - nó đã vô dụng… Nhưng đừng đạo đức như thế. Anh có đem con rắn đuôi chuông tới vành móng ngựa không? Anh có cho một con chó điên ra tòa không? Tôi không hề cảm thấy hối hận trong việc giúp đỡ một quái vật như giáo sư Dillard sang thế giới bên kia hơn là triệt hạ con người đê tiện hiểm độc này bằng một hành động gây chú ý.”

“Nhưng đó là giết người!” Markham hét lớn trong sự phẫn nộ kinh tởm.

“Ô, không nghi ngờ gì nữa,” Vance vui vẻ nói. “Đúng vậy, tất nhiên rồi. Đáng bị trừng phạt nhất… Này, liệu tôi có bị bắt không?”

Việc “tự sát” của giáo sư Dillard đã kết thúc vụ án mạng Giám Mục nổi tiếng, và tự động xóa bỏ tất cả dư luận về sự nghi ngờ đối với Pardee. Năm sau, Arnesson và Belle Dillard đã kết hôn một cách thầm lặng và lên đường đến Na Uy, nơi đây họ tạo dựng mái ấm của mình. Arnesson đã trở thành giáo sư đại học về toán học ứng dụng ở Đại học Oslo; và đáng nhớ rằng hai năm sau đó anh ta đã được trao giải Nobel cho công trình nghiên cứu của mình trong ngành vật lý. Ngôi nhà Dillard cũ trên đường số 75 đã bị phá bỏ, và hiện nay ở đó là một tòa nhà hiện đại mà ở mặt tiền là hai cái huy chương lớn bằng đất nung gợi nhớ đến mấy cái bia bắn cung. Tôi thường tự hỏi có phải kiến trúc sư đã cố ý trong việc lựa chọn những vật trang trí hay không.

Chú Thích:

[*] Phát hiện sau đó là tay cầm vàng khá nặng, dài gần 8 inch (20 cm), khá lỏng lẻo và có thể dễ dàng tháo ra khỏi cây gậy. Tay cầm này nặng gần 2 pound (0,9 kg) và, như Vance đã quan sát, tạo thành một cái “dùi cui” có hiệu quả cao. Dù nó có được mở ra cho mục đích đã được nói đến hay không, thì hoàn toàn chỉ là sự phỏng đoán.

[*] Entr’acte (tiếng Pháp): màn chuyển tiếp.

[*] Tiếng Pháp: đoạn kết.