← Quay lại trang sách

Chương 25 HẠ MÀN-

(Thứ Ba, 26 tháng Tư; 11 a.m.)

Hai mươi phút sau Vance nhập hội cùng chúng tôi trong phòng khách nhà Dillard.

“Cô bé sẽ không sao đâu,” anh thông báo, ngồi xuống ghế và châm một điếu thuốc. “Cô bé chỉ bất tỉnh thôi, ngất đi vì sốc và sợ hãi; và ngạt thở nữa.” Gương mặt anh tối sầm lại. “Có vết bầm trên cổ tay cô bé. Có thể do cố gắng tìm kiếm trong căn nhà trống khi cô bé không thấy Humpty Dumpty; và rồi con quái thú đẩy cô bé vào trong tủ quần áo và khóa cửa lại. Không có thời gian để giết cô bé, mọi người thấy đó. Hơn nữa, việc giết chóc không có trong sách. ‘Quý cô Muffet nhỏ’ không hề bị giết - chỉ bị làm cho hoảng sợ thôi. Dù vậy, cô bé có thể sẽ chết, vì thiếu không khí. Và hắn an toàn: không ai có thể nghe tiếng khỏe của cô bé…”

Đôi mắt của Markham cảm kích nhìn Vance.

“Tôi xin lỗi vì đã cố cản anh lại,” anh ta nói đơn giản. (Mặc cho tất cả bản năng pháp lý thông thường của anh ta, trong bản chất của anh ta vẫn có những nguyên tắc cơ bản.) “Anh đã đúng khi thúc đẩy vấn đề, Vance à… Và cả anh nữa, trung sĩ. Chúng tôi nợ rất nhiều ở lòng quyết tâm và niềm tin của các anh.”

Heath ngượng ngùng.

“Ồ, không có gì đâu, thưa anh. Anh thấy đấy, anh Vance làm tôi rất lo cho đứa bé. Và tôi thích trẻ con, thưa anh.”

Markham chuyển cái nhìn tò mò sang Vance.

“Anh hy vọng sẽ tìm thấy đứa trẻ còn sống?”

“Đúng; nhưng có lẽ bị đánh thuốc mê hoặc bị choáng. Tôi không nghĩ cô bé sẽ chết, vì như vậy là trái với trò chơi của Giám Mục.”

Heath đang phân vân về vấn đề khó hiểu nào đó.

“Điều tôi không thể hiểu được,” anh ta nói, “là tại sao Giám Mục này, rất cẩn thận trong mọi việc, lại để cửa nhà Drukker không khóa.”

“Chúng ta được mong chờ sẽ tìm ra đứa trẻ,” Vance nói với anh ta. “Mọi thứ được sắp đặt dễ dàng cho chúng ta. Giám Mục thật chu đáo nhỉ? Nhưng lẽ ra ngày mai chúng ta mới đi tìm cô bé - sau khi báo chí nhận được những bức thông điệp quý cô Muffet nhỏ. Chúng lẽ ra là manh mối của chúng ta. Nhưng chúng ta đã đoán trước được.”

“Nhưng tại sao những bức thông điệp không được gởi đi vào hôm qua?”

“Rõ ràng rằng ý định ban đầu của Giám Mục là gởi bài thơ của hắn tối hôm qua; nhưng tôi nghĩ hắn quyết định rằng tốt nhất vẫn nên để vụ mất tích của đứa trẻ thu hút sự chú ý của công chúng trước. Nếu không mối quan hệ giữa Madeleine Moffat và quý cô Muffet nhỏ sẽ bị che khuất.”

“Hừ!” Heath gầm gừ qua kẽ răng. “Và qua ngày mai đứa trẻ sẽ chết. Không có cơ hội để cô bé nhận diện hắn.”

Markham nhìn đồng hồ của mình và quyết định đứng dậy.

“Đợi Arnesson trở về không có ý nghĩa gì nữa. Chúng ta bắt giữ hắn càng sớm càng tốt.” Anh ta định ra lệnh cho Heath thì Vance can thiệp vào.

“Đừng thúc ép vấn đề, Markham. Anh không có bằng chứng thật nào chống lại người này. Tình huống này quá mỏng manh để dùng vũ lực. Chúng ta phải có bước đi thật cẩn thận nếu không chúng ta sẽ thất bại.”

“Tôi hiểu rõ việc tìm thấy máy đánh chữ và quyển sổ ghi chép vẫn chưa thuyết phục,” Markham đồng tình. “Nhưng với sự nhận diện của đứa trẻ…”

“Ôi, ông bạn ơi! Bồi thẩm đoàn nào mà chịu tin vào sự nhận diện của một cô bé năm tuổi đang hoảng sợ mà không có bằng chứng thuyết phục kèm theo chứ? Một tay luật sư lanh lợi có thể vô hiệu hóa nó trong vòng năm phút. Và thậm chí giả sử rằng anh có thể khiến màn nhận diện thuyết phục đi, điều đó sẽ giúp được gì cho anh? Nó sẽ không liên kết Arnesson với những án mạng Giám Mục theo bất kỳ cách nào cả. Anh chỉ có thể khởi tố hắn tội cố tình bắt cóc thôi, - hãy nhớ là đứa trẻ không bị thương. Và nếu anh có thể, thông qua một điều kỳ diệu của pháp luật, lấy được một kết án gây nghi ngờ, thì Arnesson chỉ nhận nhiều nhất vài năm trong tù thôi. Như vậy sẽ không kết thúc nỗi kinh hoàng này… Không, không. Anh không được hấp tấp.”

Markham ngồi lại xuống ghế một cách miễn cưỡng. Anh ta thấy được sức mạnh trong lý lẽ của Vance.

“Nhưng chúng ta không thể để điều này tiếp diễn được,” anh ta tuyên bố một cách cương quyết. “Chúng ta phải ngăn chặn gã điên này bằng cách nào đó.”

“Bằng cách nào đó - đúng.” Vance bắt đầu đi qua đi lại liên tục trong phòng. “Chúng ta có thể lừa sự thật ra khỏi miệng hắn bằng cách lẩn tránh: hắn vẫn chưa biết chúng ta đã tìm ra đứa trẻ… Có khả năng giáo sư Dillard có thể giúp đỡ chúng ta…” Anh dừng lại và đứng nhìn xuống sàn nhà. “Đúng! Đó là cơ hội của chúng ta. Chúng ta phải đối chất Arnesson với những gì chúng ta biết khi giáo sư có mặt. Tình huống chắc chắn sẽ tác động đến vấn đề nào đó. Giáo sư giờ sẽ làm hết khả năng của mình để giúp cáo buộc Arnesson.”

“Anh tin ông ấy biết nhiều hơn những gì ông ấy đã kể cho chúng ta?”

“Chắc chắn thế. Tôi đã nói với anh từ đầu rồi. Và khi ông ấy nghe đến chuyện quý cô Muffet nhỏ, chắc chắn ông ấy sẽ cung cấp cho chúng ta bằng chứng cần thiết.”

“Sẽ không dễ dàng.” Markham bi quan. “Nhưng không thử thì làm sao biết được. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn sẽ bắt giữ Arnesson trước khi tôi rời khỏi đây, và hy vọng vào điều tốt nhất.”

Một lát sau, cửa trước mở ra và giáo sư Dillard xuất hiện ở sảnh đối diện lối cổng vòm. Ông ấy gần như không chấp nhận lời chào của Markham - ông quét mắt nhìn những gương mặt của chúng tôi như thể cố tìm ra ý nghĩa của chuyến viếng thăm không mong đợi này. Cuối cùng ông ấy đặt ra một câu hỏi.

“Có lẽ, anh đã suy nghĩ đến những gì tôi nói đêm qua?”

“Chúng tôi không những suy nghĩ đến,” Markham nói, “mà anh Vance còn tìm thấy thứ đang làm phiền ông. Sau khi chúng tôi rời khỏi đây, anh ta đã cho tôi xem một bản in của vở ‘Những kẻ giả vờ’.”

“A!” Tiếng kêu giống như một tiếng thở dài nhẹ nhõm. “Nhiều ngày qua vở kịch đó cứ lởn vởn trong đầu tôi, đầu độc mọi suy nghĩ…” Ông ấy e sợ nhìn lên. “Nó có ý nghĩa gì vậy?”

Vance trả lời câu hỏi.

“Thưa ông, nó có nghĩa là ông đã dẫn chúng tôi đến với sự thật. Bây giờ chúng tôi đang đợi anh Arnesson. - Và tôi nghĩ tốt hơn là chúng tôi nói chuyện với ông trong khi chờ đợi. Ông có thể giúp được chúng tôi.”

Ông lão ngập ngừng.

“Tôi đã hy vọng sẽ không bị biến thành một công cụ trong việc cáo buộc thằng bé.” Giọng nói của ông ấy đượm vẻ bi thảm về tình phụ tử. Nhưng hiện giờ nét mặt của ông ấy đanh lại; một tia sáng thù hằn lóe lên trong mắt ông ấy; và bàn tay ông nắm chặt đầu gậy của mình. “Tuy nhiên, tôi không thể suy nghĩ cho cảm giác của riêng mình lúc này. Nói đi; tôi sẽ làm những gì có thể.”

Lúc đi vào thư viện, ông ấy dừng lại bên chiếc tủ búp phê và tự rót cho mình một ly rượu port. Khi ông ấy uống xong, ông quay sang Markham với cái nhìn xin lỗi.

“Thứ lỗi cho tôi. Tôi không còn là chính mình nữa.” Ông ấy kéo chiếc bàn cờ vua nhỏ ra phía trước và đặt những cái ly thủy tinh lên cho tất cả chúng tôi. “Hãy bỏ qua cho sự khiếm nhã của tôi.” Ông ấy rót đầy những ly rượu và ngồi xuống.

Chúng tôi kéo ghế ra ngồi. Tôi nghĩ, không ai trong chúng tôi lại không cảm thấy cần uống một ly rượu sau những sự kiện đau lòng mà chúng tôi vừa trải qua.

Khi chúng tôi đã ngồi ngay ngắn, vị giáo sư ngước đôi mắt nặng trĩu nhìn Vance, người đang ngồi đối diện ông ấy.

“Kể tất cả cho tôi đi,” ông ấy nói. “Đừng cố bỏ qua gì cả.”

Vance rút hộp thuốc lá ra.

“Trước tiên, để tôi hỏi ông một câu. Anh Arnesson đã ở đâu từ 5 đến 6 giờ chiều hôm qua?”

“Tôi… không biết.” Có sự miễn cưỡng trong lời nói. “Nó dùng trà trong thư viện này; nhưng nó đi ra ngoài vào khoảng 4 giờ rưỡi, và tôi không gặp lại nó cho đến giờ ăn tối.”

Vance cảm thông quan sát người kia một lúc, rồi anh nói:

“Chúng tôi đã tìm thấy máy đánh chữ dùng để in những bức thông điệp của Giám Mục. Nó nằm bên trong chiếc vali cũ được giấu trên gác mái của ngôi nhà này.”

Vị giáo sư không tỏ ra dấu hiệu giật mình gì.

“Anh có thể nhận ra nó sao?”

“Không còn nghi ngờ gì nữa. Hôm qua một cô bé tên Madeleine Moffat biến mất khỏi sân chơi trong công viên. Có một tờ giấy trong cái máy, và trên đó đã được đánh: ‘Quý cô Muffet nhỏ ngồi trên gò đất nhỏ.’”

Đầu giáo sư Dillard nghiêng về phía trước.

“Lại một trò tàn bạo điên rồ khác! Nếu mà tôi không đợi đến tận tối hôm qua mới cảnh báo các anh…!”

“Không có thiệt hại to lớn nào cả,” Vance vội vã thông báo cho ông ấy. “Chúng tôi tìm thấy đứa trẻ kịp lúc: cô bé giờ đã thoát khỏi nguy hiểm rồi.”

“À!”

“Cô bé đã bị nhốt trong tủ quần áo ở tầng trên cùng của nhà Drukker. Chúng tôi tưởng cô bé đã ở đâu đó gần đây - đó là lý do chúng tôi đến lục soát gác mái nhà ông.”

Có một sự im lặng, sau đó vị giáo sư hỏi:

“Anh còn muốn kể thêm gì với tôi không?”

“Quyển sổ ghi chép chứa đựng những nghiên cứu lượng tử gần đây của Drukker đã bị lấy cắp từ phòng anh ta vào đêm anh ta chết. Chúng tôi tìm thấy quyển sổ này trên gác mái cùng với máy đánh chữ.”

“Nó hèn hạ đến mức đó ư?” Đó không phải là một câu hỏi, mà là một lời thốt lên khó tin. “Anh có chắc chắn về kết luận của mình không? Có lẽ nếu tôi không đưa ra gợi ý vào tối qua - thì đã không gieo mối nghi ngờ…”

“Không thể là nghi ngờ,” Vance tuyên bố nhẹ nhàng. “Anh Markham định sẽ bắt giữ anh Arnesson khi anh ta từ trường đại học về. Nhưng xin nói thẳng với ông: thật ra chúng tôi không có bằng chứng pháp lý, và câu hỏi trong đầu anh Markham là luật pháp có thể bắt giữ anh ta hay không. Điều duy nhất chúng tôi có thể hy vọng là một lời cáo buộc về tội bắt cóc thông qua sự nhận diện của đứa trẻ.”

“À, phải… đứa trẻ sẽ biết.” Một nỗi đau khổ len lỏi vào đôi mắt ông lão. “Vẫn nên có phương tiện thực thi công lý nào đó cho những tội ác kia.”

Vance ngồi hút thuốc một cách trầm ngâm, mắt anh nhìn xa xăm về bức tường. Cuối cùng anh lên tiếng với vẻ bình tĩnh nghiêm trang.

“Nếu anh Arnesson bị thuyết phục rằng chứng cớ của chúng tôi đủ sức mạnh để chống lại anh ta, anh ta có thể chọn tự tử làm lối thoát. Như thế có lẽ sẽ là giải pháp nhân đạo nhất cho mọi người.”

Markham định đưa ra một lời phản đối đầy phẫn nộ, nhưng Vance đã chặn anh ta trước.

“Bản thân tự tử không phải là một hành động không thể biện hộ được. Ví dụ, Kinh Thánh có nhiều điển tích về sự tự sát anh dũng. Còn tấm gương dũng cảm nào hơn Rhazis, khi ông ta gieo mình từ ngọn tháp để thoát khỏi gông xiềng của Demetrius[*]? Cũng là lòng dũng cảm, trong cái chết của người mang gươm của Saul[*], và trong việc tự treo cổ của Ahithophel[*]. Và chắc chắn những vụ tự tử của Samson[*] và Judas Iscariot[*] là có đạo đức. Lịch sử có đầy những vụ tự tử - Brutus[*] và Cato xứ Utica[*], Hannibal[*], Lucretia[*], Cleopatra[*], Seneca[*]… Nero[*] tự kết liễu mình để không phải rơi vào tay của Otho[*] và quân lính. Ở Hy Lạp, chúng ta có vụ tự hủy hoại nổi tiếng của Demosthenes[*] ; và Empedocles[*] tự lao vào ngọn núi lửa Etna. Aristotle[*] là nhà tư tưởng lớn đầu tiên đưa ra tuyên bố rằng tự tử là một hành động phản xã hội, nhưng theo truyền thuyết, chính ông ấy tự uống thuốc độc sau cái chết của Alexander[*]. Và ở thời hiện đại chúng ta không nên quên nghĩa cử cao đẹp của Bá tước Nogi[*]…”

“Tất cả điều đó không phải là lời biện hộ cho hành động này,” Markham vặn lại. “Luật pháp…”

“À, phải - luật pháp. Trong luật pháp Trung Quốc mọi tội phạm bị xử tử hình có quyền lựa chọn tự sát. Bộ luật được thông qua bởi Quốc hội Pháp vào cuối thế kỷ mười tám xóa bỏ mọi trừng phạt đối vói việc tự tử; và trong Sachsenspiegel[*] - nền tảng chính của luật Teuton - ghi rõ rằng tự tử không phải là một hành động đáng bị trừng phạt. Hơn nữa, đối với những người ủng hộ giáo phái Donatism, việc tự tử của Circumcellions[*] và Patrician[*] được xem là làm hài lòng các thần linh. Và thậm chí trong quyển Utopia của More[*] có một hội nghị tôn giáo thông qua quyền tự kết liễu mạng sống của một cá nhân… Luật pháp là để bảo vệ xã hội, Markham à. Điều gì của việc tự tử khiến cho sự bảo vệ đó khả thi? Chúng ta có nên yêu cầu một chi tiết chuyên môn hợp pháp không, khi mà, làm như vậy, chúng ta thật ra đang để xã hội phơi bày trước hiểm nguy đang diễn ra? Không có luật lệ nào cao hơn những điều trên các sách luật sao?”

Markham hết sức bối rối. Anh ta đứng dậy và bước tới bước lui dọc theo căn phòng, gương mặt anh ta tối sầm với nỗi lo âu. Khi anh ta ngồi lại xuống ghế, anh ta nhìn Vance rất lâu, các ngón tay của anh ta gõ nhịp lên bàn với sự do dự bồn chồn.

“Người vô tội tất nhiên phải được quan tâm,” anh ta nói bằng giọng chán nản. “Dù tự tử là không đúng về mặt đạo đức, tôi có thể thấy được quan điểm của anh rằng đôi khi nó có thể được bào chữa về mặt lý thuyểt.” (Biết rõ Markham, tôi nhận ra anh ta đã chịu nhượng bộ; và tôi cũng nhận ra, lần đầu tiên, anh ta hoàn toàn tuyệt vọng đến mức nào khi đối mặt với tai họa kinh hoàng mà anh ta có trách nhiệm phải xóa sổ nó.)

Vị giáo sư già gật đầu thông cảm.

“Đúng, có vài bí mật xấu xa đến mức thế giới này không nên biết đến thì tốt hơn. Một công lý tối cao thường có thể đạt được mà không cần có luật pháp trừng trị.”

Khi ông ấy vừa dứt lời thì cánh cửa mở ra, và Arnesson bước vào trong phòng.

“Chà, chà. Một hội nghị nữa à?” Anh ta ném cho chúng tôi cái nhìn chế giễu, và ngồi phịch xuống chiếc ghế bên cạnh vị giáo sư. “Tôi tưởng vụ án đã được phán quyết rồi. Không phải vụ tự tử của Pardee đã đặt dấu chấm hết cho chuyện này sao?”

Vance nhìn thẳng vào đôi mắt anh ta.

“Chúng tôi đã tìm được quý cô Muffet nhỏ rồi, anh Arnesson.”

Cặp lông mày của người kia nhướng lên với vẻ thích thú mỉa mai.

“Nghe cứ như trò chơi đố chữ vậy. Tôi nên trả lời cái gì đây: ‘Ngón cái của cậu bé Jack Horner[*] thế nào?’ Hay tôi nên hỏi thăm về sức khỏe của Jack Sprat[*]?”

Vance không thay đổi cái nhìn kiên định của mình.

“Chúng tôi tìm thấy cô bé trong nhà Drukker, bị nhốt trong tủ quần áo,” anh nhấn mạnh, bằng giọng trầm đều.

Arnesson trở nên nghiêm túc, và một nét cau mày xuất hiện trên trán anh ta một cách vô tình. Nhưng điệu bộ này chỉ thoáng qua. Khóe miệng của anh ta từ từ nâng lên thành một nụ cười nhếch mép.

“Cảnh sát các người hiệu quả quá. Tìm ra quý cô Muffet nhỏ sớm thật. Xuất sắc quá.” Anh ta gật gù với vẻ thán phục chế nhạo. “Tuy nhiên, đó là chuyện sớm muộn thôi. - Và nước đi tiếp theo, cho tôi hỏi, là gì vậy?”

“Chúng tôi còn tìm thấy chiếc máy đánh chữ,” Vance tiếp tục, lờ đi câu hỏi. “Và quyển sổ ghi chép của anh Drukker bị đánh cắp nữa.”

Arnesson lập tức đề phòng.

“Thật sao?” Anh ta nhìn Vance bằng ánh mắt dè dặt. “Những món đồ mách lẻo này ở đâu vậy?”

“Trên lầu - ở gác mái.”

“A ha! Xâm nhập gia cư à?”

“Đại loại như vậy.”

“Tuy nhiên,” Arnesson chế giễu, “tôi không thấy anh có bằng chứng chắc chắn chống lại bất kỳ ai. Một cái máy đánh chữ không giống như một bộ quần áo chỉ vừa với một người thôi đâu. Và ai có thể nói quyển sổ của Drukker làm thế nào tìm đường lên gác mái của chúng tôi đươc? - Anh phải làm tốt hơn thế, anh Vance à.”

“Tất nhiên, còn có yếu tố cơ hội. Giám Mục là người đã có mặt lúc xảy ra các vụ án mạng.”

“Đó là bằng chứng phụ trợ hời hợt nhất,” người đàn ông phản đối. “Sẽ không giúp gì nhiều cho việc tuyên án đâu.”

“Chúng tôi sẽ cho thấy tại sao tên sát nhân lại chọn biệt danh là Giám Mục.”

“A! Điều đó chắc chắn sẽ giúp được.” Một đám mây che phủ trên gương mặt Arnesson, và đôi mắt anh ta trở nên hồi tưởng lại. “Tôi cũng đã nghĩ về điều đó.”

“Ồ, thật sao?” Vance quan sát anh ta kỹ càng. “Và còn một mảnh bằng chứng khác tôi chưa nhắc đến. Quý cô Muffet nhỏ có thể sẽ nhận diện ra người đã dẫn cô bé đến nhà Drukker và đẩy cô bé vào trong tủ quần áo.”

“Được đấy! Nạn nhân đã tỉnh rồi sao?”

“Ồ, phải. Thật ra đang khỏe lại. Anh thấy đó, chúng tôi tìm thấy cô bé sớm hơn 24 tiếng so với ý định của Giám Mục.”

Arnesson im lặng. Anh ta đang nhìn chằm chằm xuống hai bàn tay mình, dù đan vào nhau, đang cử động một cách căng thẳng. Cuối cùng anh ta lên tiếng.

“Và nếu, mặc cho tất cả, anh đã sai lầm…”

“Tôi bảo đảm với anh, anh Arnesson,” Vance nói khẽ, “rằng tôi biết ai có tội.”

“Anh rõ ràng làm tôi sợ rồi đó!” Người đàn ông kìm nén bản thân mình, và anh ta trả đũa với sự mỉa mai gay gắt. “Nếu, lỡ như, tôi chính là Giám Mục, tôi sẽ đành chịu thua… Tuy nhiên, khá rõ ràng rằng chính Giám Mục đã đem quân cờ cho bà Drukker lúc nửa đêm; và tôi đến 12 giờ rưỡi mới cùng Belle về đến nhà đêm hôm đó.”

“Nên anh đã nói cho cô ấy. Theo tôi nhớ, anh đã nhìn đồng hồ của mình và nói với cô ấy lúc đó là mấy giờ. - Xem nào: lúc đó là mấy giờ?”

“Đúng thế -12 giờ rưỡi.”

Vance thở dài và giũ tàn tro khỏi điếu thuốc lá.

“Này, anh Arnesson; anh là nhà hóa học giỏi đến mức nào?”

“Một trong những người giỏi nhất,” người đàn ông nhe răng cười. “Còn là chuyên môn nữa. - Thì sao?”

“Khi tôi lục soát gác mái sáng nay, tôi phát hiện ra một tủ quần áo âm tường nhỏ trong đó có người đã điều chế acid hydrocyanic từ kali ferrocyanide. Ở đó có cả mặt nạ chống độc của nhà hóa học, và tất cả dụng cụ. Mùi hạnh nhân đắng vẫn còn lảng vảng quanh đó.”

“Đúng là một kho tàng đấy, gác mái của chúng tôi. Một kiểu sào huyệt của Loki[*], có vẻ vậy.”

“Đó chính là,” Vance nghiêm trọng trả lời, “hang ổ của một linh hồn xấu xa.”

“Hoặc là phòng thí nghiệm của một tiến sĩ Faust[*] thời hiện đại… Nhưng tại sao lại là cyanide[*], anh nghĩ gì?”

“Sự dự phòng, tôi nghĩ vậy. Trong trường hợp gặp rắc rối, Giám Mục có thể ra đi một cách nhẹ nhàng. Mọi thứ đã sẵn sàng rồi, anh biết đấy.”

Arnesson gật đầu.

“Một thái độ khá đúng đắn về phần hắn. Thật ra, hắn rất tử tế. Không để người khác rơi vào phiền toái khi bị dồn vào chân tường. Đúng, rất đúng.”

Giáo sư Dillard ngồi nghe trong suốt cuộc đối thoại xấu xa này với một tay ấn vào mắt mình, như đang đau khổ. Giờ đây ông ấy buồn bã quay sang người mà ông ấy đã nuôi nấng nhiều năm qua.

“Rất nhiều người vĩ đại, Sigurd à, đã biện minh cho tự tử…” ông ấy bắt đầu; nhưng Arnesson cắt ngang lời ông ấy bằng một tiếng cười cay độc.

“Khiếp! Tự tử không cần biện minh. Nietzsche[*] nêu ra sự băn khoăn về cái chết tự nguyện. Aufeine stolze Art sterben, wenn es nicht mehr möglich ist, auf eine stolze Art zu leben. Der Tod unter den veräcktlichsten Bedingungen, ein unjreier Tod, ein Tod zur unrechten Zeit ist ein Feiglings - Tod. Wir haben es nicht in der Hand, zu verhindern, geboren zu werden: aber wir können diesen Fehler - denn bisweilen ist es ein Fehler - wieder gut machen. Wenn man sich abschaffi, tut man die achtungswürdigste Sache, die es giebt: man verdient beinahe damit, zu leben.’ Một người nên chết một cách tự hào khi không còn có thể sống một cách tự hào nữa. Cái chết xảy đến trong những tình huống đáng khinh nhất, cái chết không tự do, cái chết diễn ra không đúng lúc, là cái chết của một kẻ hèn nhát. Chúng ta không có sức mạnh để ngăn ngừa bản thân chúng ta khỏi việc được sinh ra đời; nhưng sai lầm này - đôi khi nó là một sai lầm - có thể sửa chữa nếu chúng ta lựa chọn. Người tự kết liễu bản thân mình, thực hiện hành động đáng quý trọng nhất; người đó hầu như xứng đáng sống vì đã làm như vậy. - Thuộc lòng đoạn văn đó trong quyển ‘Götzen – Dämmerung[*] từ lúc tôi còn trẻ. Không bao giờ quên nó. Một học thuyết đúng đắn.”

“Nietzsche có nhiều tiền nhân nổi tiếng cũng ủng hộ tự tử,” Vance bổ sung. “Zeno Khắc Kỷ[*] để lại cho chúng ta một bài thơ đầy đam mê biện hộ cho cái chết tự nguyện. Và Tacitus[*], Epictetus[*], Marcus Aurelius[*], Cato, Kant, Fichte[*], Diderot[*], Voltaire[*] và Rousseau[*], tất cả đều đã viết lời biện hộ cho tự tử. Schopenhauer kịch liệt phản đối về việc tự tử bị xem là một tội ở Anh… Tuy nhiên, tôi tự hỏi đề tài này có thể được vun đắp hay không. Bằng cách nào đó tôi cảm thấy rằng nó là một vấn đề quá cá nhân cho một cuộc thảo luận học thuật.”

Vị giáo sư buồn bã đồng ý.

“Không ai có thể biết được lòng người ta nghĩ gì trong giờ phút đen tối cuối cùng đó.”

Suốt cuộc thảo luận này Markham càng lúc càng trở nên mất kiên nhẫn và bực bội; còn Heath, dù ban đầu cứng rắn và thận trọng, đã bắt đầu dễ chịu. Tôi không thấy rằng Vance đã có thêm được chút tiến triển nào; và tôi đi đến kết luận rằng anh đã thất bại đáng kể trong việc hoàn thành mục tiêu gài bẫy Arnesson của mình. Tuy vậy, anh không có vẻ lo lắng chút nào. Tôi thậm chí còn có ấn tượng rằng anh hài lòng với cách sự việc đang diễn biến. Nhưng tôi để ý thấy rằng, dù cho vẻ ngoài bình tĩnh, anh đang tập trung cảnh giác. Hai bàn chân anh kéo về sau và giữ thăng bằng; và mọi cơ bắp trên người anh căng ra. Tôi bắt đầu tự hỏi kết quả của hội nghị tồi tệ này sẽ là gì.

Hồi kết đến nhanh chóng. Một sự im lặng ngắn ngủi sau lời nhận xét của vị giáo sư. Thế rồi Arnesson lên tiêng.

“Anh nói anh biết Giám Mục là ai mà anh Vance. Nếu là vậy thì tại sao còn trò lảm nhảm này chứ?”

“Không cần phải gấp gáp.” Vance gần như hờ hững. “Và có hy vọng giải quyết một vài chuyện mơ hồ, - bồi thẩm đoàn bế tắc sẽ không hài lòng như thế, anh biết đấy… À mà này, ly rượu port này tuyệt lắm.”

“Rượu port ư?… À, phải.” Arnesson liếc nhìn những ly rượu của chúng tôi, và chuyển ánh mắt tổn thương sang vị giáo sư. “Từ lúc nào con là người kiêng rượu vậy, thưa thầy?”

Người kia giật mình, lưỡng lự, và đứng dậy.

“Ta xin lỗi, Sigurd à. Ta không nghĩ đến… con không bao giờ uống rượu trước buổi trưa.” Ông ấy đi đến tủ búp phê và, rót thêm một ly khác, đặt nó xuống, với một bàn tay run run, trước mặt Arnesson. Sau đó, ông ấy rót đầy thêm cho những ly khác.

Ông ấy vừa ngồi lại chỗ của mình thì Vance thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên. Anh nửa ngồi nửa đứng lên và nhoài người về phía trước, hai bàn tay anh đặt trên mép bàn, cặp mắt ngạc nhiên nhìn về lò sưởi ở cuối phòng.

“Trời ơi! Tôi chưa bao giờ để ý đến nó trước đây… Thật phi thường!”

Quá bất ngờ và sửng sốt trước hành động của anh, và bầu không khí khá căng thẳng, khiến chúng tôi vô thức quay ngoắt lại và nhìn về hướng ánh mắt mê hoặc của anh.

“Một bức điêu khắc của Cellini[*]!” Anh kêu lên. “Nữ thần của Fontainebleau! Berenson nói với tôi rằng nó đã bị phá hủy vào thế kỷ thứ mười bảy. Tôi từng thấy một bản của nó trong bảo tàng Louvre[*]…”

Gò má của Markham đỏ ửng lên vì cơn phẫn nộ dữ dội; và tôi phải nói rằng chính bản thân tôi đã quen thuộc với tính khí và niềm đam mê đồ cổ quý hiếm của Vance mà cũng chưa bao giờ thấy anh để lộ ra tật xấu không thể bênh vực như vậy. Dường như không thể tin rằng anh lại để chính mình bị phân tâm bởi một món objet - d’art[*] trong thời khắc bi kịch như thể này.

Giáo sư Dillard nhíu mày nhìn anh với vẻ kinh ngạc.

“Anh chọn thời điểm kỳ lạ đấy, anh à, để thể hiện lòng nhiệt tình của mình dành cho nghệ thuật,” là nhận xét gay gắt của ông ấy.

Vance tỏ vẻ bối rối và xấu hổ. Anh ngồi thụp lại xuống ghế, né tránh ánh mắt của chúng tôi, và bắt đầu xoay ly rượu của mình bằng những ngón tay.

“Ông nói khá đúng, thưa ông,” anh lẩm bẩm. “Tôi nợ ông một lời xin lỗi.”

“Nhân tiện, bức điêu khắc này,” vị giáo sư nói thêm, nhằm làm dịu bớt sự nặng nề của lời trách vừa rồi, “chỉ là một bản sao của cái nằm trong bảo tàng Louvre thôi.”

Vance, cứ như muốn che giấu sự bối rối, nâng ly rượu của mình lên môi. Đó là thời điểm hết sức khó chịu: thần kinh của mọi người đều căng thẳng; và, tự động bắt chước theo hành động của anh, chúng tôi cũng nâng ly của mình lên.

Vance nhìn thoáng qua cái bàn và, đứng dậy, đi đến cửa sổ phía trước, anh đứng đó, quay lưng lại căn phòng. Sự bỏ đi vội vã của anh khó hiểu đến mức khiến tôi quay lại nhìn anh đầy ngạc nhiên. Gần như cùng lúc đó mép bàn xô mạnh vào mạn sườn tôi, và cùng lúc là tiếng đổ vỡ của đồ thủy tinh.

Tôi bật người đứng dậy và kinh hoàng nhìn xuống cơ thể bất động nằm sóng soài phía trước chiếc ghế đối diện, một cánh tay và vai vắt ngang qua cái bàn. Theo sau đó là sự im lặng hoang mang và hoảng hốt. Mỗi người trong chúng tôi dường như bị tê liệt trong chốc lát. Markham đứng như một pho tượng, đôi mắt anh ta dán chặt lên bàn; và Heath, nhìn chằm chằm và không thốt nên lời, bám cứng vào lưng ghế của mình.

“Trời ơi!”

Chính tiếng kêu kinh ngạc của Arnesson đã cắt ngang sự căng thẳng.

Markham nhanh chóng đi vòng qua cái bàn và cúi xuống cơ thể của giáo sư Dillard.

“Gọi bác sĩ đĩ, Arnesson,” anh ta ra lệnh.

Vance mệt mỏi quay người khỏi cửa sổ và ngồi thụp xuống một chiếc ghế.

“Không còn gì có thể làm cho ông ấy nữa,” anh nói, với tiếng thở dài thườn thượt mệt mỏi. “Ông ấy đã chuẩn bị cho một cái chết nhanh chóng và không đau đớn khi ông ấy điều chế chất cyanide của mình. - Vụ án Giám Mục đã kết thúc.”

Markham trợn mắt nhìn anh với vẻ ngơ ngác khó hiểu.

“Ồ, tôi đã bán tín bán nghi sự thật kể từ cái chết của Pardee rồi,” Vance tiếp tục, trả lời cho câu hỏi trong đầu của người kia. “Nhưng tôi vẫn không chắc chắn về chuyện đó cho đến tối hôm qua khi ông ấy đích thân treo tội ác lên người anh Arnesson.”

“Hả? Anh nói sao?” Arnesson quay đầu khỏi chiếc điện thoại.

“À, đúng vậy,” Vance gật đầu. “Anh là người nhận hình phạt. Anh đã được chọn làm nạn nhân ngay từ đầu. Ông ấy thậm chí đã gợi ý khả năng phạm tội của anh cho chúng tôi.”

Arnesson không có vẻ gì là ngạc nhiên như mọi người tưởng.

“Tôi đã biết giáo sư ghét tôi,” anh ta nói. “Ông ấy ghen tị gay gắt với sự quan tâm của tôi dành cho Belle. Và ông ấy đang dần mất đi khả năng tri thức của mình - tôi đã thấy điều đó nhiều tháng nay rồi. Tôi đã góp rất nhiều công sức trong quyển sách mới của ông ấy, và ông ấy căm ghét mọi danh hiệu học thuật được trao cho tôi. Tôi đã có ý nghĩ rằng ông ấy là người đứng đằng sau tất cả trò ma quỷ này; nhưng tôi không chắc chắn. Dù vậy, tôi không nghĩ ông ấy lại cố đưa tôi lên ghế điện.”

Vance đứng dậy và, đi đến chỗ Arnesson, chìa bàn tay của mình ra.

“Không có nguy cơ đó đâu. - Và tôi muốn xin lỗi vì cách tôi đã đối xử với anh suốt nửa tiếng đồng hồ vừa rồi. Chỉ đơn thuần là vấn đề chiến thuật thôi. Anh thấy đó, chúng tôi không có bằng chứng thực tế nào cả, và tôi đã hy vọng sẽ buộc ông ấy phải manh động.”

Arnesson cười buồn bã.

“Không cần xin lỗi đâu, anh bạn. Tôi đã biết anh không nhắm vào tôi mà. Khi anh bắt đầu bắt nạt tôi, tôi đã thấy đó chỉ là phương pháp thôi. Không biết mục đích của anh là gì, nhưng tôi đã làm theo ám hiệu của anh hết sức có thể. Hy vọng tôi không phá hỏng mất.”

“Không, không. Anh làm rất tốt.”

“Thế à?” Arnesson nhíu mày với vẻ bối rối sâu sắc. “Nhưng tôi không hiểu là tại sao ông ấy lại uống cyanide trong khi ông ấy nghĩ tôi mới là người mà anh nghi ngờ.”

“Điểm đặc biệt đó chúng ta sẽ không bao giờ biết được,” Vance nói. “Có lẽ ông ấy sợ sự nhận diện của cô bé. Hoặc có thể ông ấy đã nhìn ra trò lừa bịp của tôi. Có lẽ ông ấy bỗng nhiên ghê tởm với ý tưởng bắt anh gánh trách nhiệm… Như chính ông ấy đã nói, không ai biết được lòng người ta nghĩ gì trong giờ phút đen tối cuối cùng đó.”

Arnesson đứng yên tại chỗ. Anh ta nhìn thẳng vào mắt Vance vói sự khôn ngoan sắc sảo.

“Thôi vậy,” cuối cùng anh ta nói; “chúng ta bỏ chuyện đó đi… Dù sao thì cũng cảm ơn anh!”

Chú Thích:

[*] Vua Saul ra lệnh cho người mang gươm giết chết mình vì không muốn chết dưới tay kẻ thù nhưng người mang gươm của ông không dám ra tay. Cuối cùng ông tự dùng gươm kết liễu mình, cả người mang gươm cũng tự tử theo vua.

[*] Ahithophel là cố vấn của vua David. Lúc Absalom nổi loạn, Ahithophel bỏ rơi David và đi theo Absalom. David nhờ người bạn cũ của mình là Hushai đến bên cạnh Absalom để chống lại Ahithophel. Do tầm ảnh hưởng của Hushai đối với Absalom quá lớn, Ahithophel quay về quê ở Giloh, và sau khi sắp xếp xong mọi việc, ông ta treo cổ tự vẫn.

[*] Samson hay Shimshon, Shamshoun, Sampson là một trong 13 vị quan xét của người Israel cổ đại được đề cập đến trong Kinh Thánh Hebrew. Theo Kinh Thánh thì Samson đước Thiên chúa ban cho sức mạnh siêu nhiên, sức mạnh này ẩn chứa trong mái tóc dài của ông. Samson đã lập nhiều chiến công cho người Israel và đã giết rất nhiều quân Philistine. Người Philistine sử dụng chiến thuật mỹ nhân kế, cho nàng Delilah, một phụ nữ Philistine sống ở thung lũng Sorek quyến rũ Samson và Samson đã gục ngã trước sắc đẹp của Delilah. Delilah đã lừa cắt mất mái tóc của Samson, khiến ông mất hết sức mạnh, bị quân Philistine bắt và chọc mù hai mắt. Trước khi bị đem đi hành quyết, Samson cầu xin Thượng đế ban lại sức mạnh cho mình, ông phá sập đền thờ Dagon, chôn vùi nhiều người Philistine và cả chính mình.

[*] Judas Iscariot, theo Tân Ước, là một trong 12 tông đồ của Chúa Jesus. Sau khi phản bội lại Chúa Jesus, Judas đã treo cổ tự vẫn.

[*] Marcus Junius Brutus (85 - 42 TCN) là một thành viên của Viện nguyên lão La Mã thuộc Cộng hòa La Mã. Vào năm 44 TCN, một nhóm nguyên lão nổi loạn do Brutus cầm đầu đã mưu sát thành công hoàng đế Julius Caesar. Năm 42 TCN, Brutus thất bại ở trận Philippi. Nhận thay việc đầu hàng và bị bắt giữ là không thể tránh khỏi, Brutus đã tự tử.

[*] Marcus Porcius Cato Uticensis (95 - 46 TCN), còn được gọi là Cato xứ Utica, là một chính trị gia trong những năm cuối của nền cộng hòa La Mã. Người ta nhớ đến ông, vì sự ngoan cường và bền chí, đặc biệt là trong cuộc nội chiến lâu dài của ông chống lại Julius Caesar. Sau khi bị Julius Caesar đánh bại hoàn toàn trong trận Thapsus, Cato đã tự sát.

[*] Hannibal Barca (247 - 183 TCN): một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Khi bị phản bội và bị đem nộp cho những người La Mã, Hannibal đã uống thuốc độc tự sát.

[*] Lucretia bị cưỡng hiếp bởi Sextus Tarquinius (con trai của vua Lucius Tarquinius Superbus) nên đã tự tử bằng cách lấy dao găm tự đâm vào người sau khi nói với những người thân về những gì đã xảy ra với mình, cái chết của bà là nguyên nhân cho cuộc nổi loạn lật đổ nền quân chủ La Mã lúc bấy giờ.

[*] Cleopatra VII Philopator (69 - 30 TCN), được sử học thế giới gọi đơn giản là Cleopatra, một trong những nhân vật nổi tiếng nhất lịch sử thế giới, một nữ Pharaoh của Ai Cập cổ đại. Thất bại trong trận Actium trước quân đội của Đế chẽ La Mã dưới sự lãnh đạo của Octavianus, Marcus Antonius, lúc này là chồng của Cleopatra, đã tự sát. Sau đó, Cleopatra cũng tự sát bằng cách để rắn độc cắn vào người.

[*] Lucius Annaeus Seneca (4 TCN - 65): triết gia người La Mã thuộc trường phái triết học khắc kỷ và là chính khách, nhà biên kịch và là một tên tuổi lớn của nền văn học La Mã. Ông từng là thầy giáo và cố vấn cho hoàng đế Nero. Ông đã bị ép buộc phải tự tử vì bị cho là đồng lõa trong âm mưu ám sát hoàng đế Nero.

[*] Nero Claudius Caesar Augustus Germanicus (37 - 68): vị hoàng đế thứ năm và cũng là cuối cùng của triều đại Julio-Claudian, trị vì từ năm 54 tới 68. Nero được chú ông, hoàng đế Claudius, nhận làm con nuôi và được thừa kế ngai vàng vào năm 54, sau khi Claudius qua đời.

[*] Marcus Salvius Otho Caesar Augustus (32 - 69): hoàng đế của Đế quốc La Mã, trị vì trong vòng ba tháng (từ ngày 15/1 đến 16/4 năm 69). Ông là vị hoàng đế thứ hai trong Nam tứ đế của nền văn minh La Mã cổ đại. Khi đội quân của ông thất bại hoàn toàn tại Cremona năm 69, Otho khuyên gia đình và bạn bè tìm đường thoát thân, còn mình thì tự sát một ngày sau đó. Cái chết của Otho khiến cho La Mã tránh được một cuộc nội chiến.

[*] Demosthenes (384 - 322 TCN): chính khách và nhà hùng biện xuất chúng người Hy Lạp. Ông dành phần lớn cuộc đời sôi nổi của mình nhằm kêu gọi chống lại sự bành trướng của Macedonia. Sau khi vua Philipos II của Macedonia chết, Demosthenes đã đóng một vai trò chủ chốt trong cuộc nổi dậy chống lại tân vương xứ Macedonia, Alexander Đại đế, nhưng đã thất bại và bị đàn áp khốc liệt. Khi Alexander Đại đế qua đời, người kế tục ông ở Hy Lạp, Antipatros, đã cho người truy lùng Demosthenes để đề phòng một cuộc nổi loạn nữa. Demosthenes đã tự sát năm 322 TCN để khỏi bị một tay chân của Antipatros là Archias xứ Thurii bắt giữ.

[*] Empedocles (khoảng 490 - 430 TCN): nhà triết học Hy Lạp tiền Socrates. Empedocles được nhớ đến như là người khởi xướng cho thuyết nguồn gốc vũ trụ tạo bởi bốn nguyên tố cổ điển, có nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến cái chết của ông. Một truyền thuyết nói rằng ông tự lao vào ngọn núi lửa Etna để chứng minh cho các đệ tử của mình rằng ông đã bất tử; ông tin rằng mình sẽ trở thành một vị thần sau khi bị lửa thiêu.

[*] Aristotle (384 - 322 TCN): nhà triết học và bác học thời Hy Lạp cổ đại, học trò của Plato và thầy dạy của Alexander Đại đế. Di bút của ông bao gồm nhiều lĩnh vực như vật lý học, siêu hình học, thi văn, kịch nghệ, âm nhạc, ngôn ngữ học, kinh tế học, chính trị học, đạo đức học… cùng với Plato và Socrates, Aristotle là một trong ba trụ cột của văn minh Hy Lạp cổ đại.

[*] Alexander Đại đế (356 - 323 TCN), hay Alexandras III của Macedonia, là vị vua vĩ đại của đế chế Macedonia, nhưng ít dành thời gian cho việc trị quốc tại quê nhà Macedonia. Trong suốt triều đại của mình, ông chủ yếu dành thời gian cho các cuộc chinh phạt, và được xem là một trong những chiến lược gia quân sự vĩ đại nhất trong lịch sử. Sau khi thống nhất các thành bang Hy Lạp cổ đại dưới sự cai tri của vua cha Philipos II, Alexander chinh phục đế chế Ba Tư, bao gồm cả Tiểu Á, Syria, Phoenicia, Gaza, Ai cập, Bactria và Lưỡng Hà và mở rộng biên cương đế chế của ông đến xa tận Punjab thuộc Ấn Độ ngày nay.

[*] Nogi Maresuke (1849 - 1912): đại tướng lục quân của Nhật Bản. Ông là một nhân vật nổi bật trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật. Nogi và vợ thực hiện nghi thức mổ bụng tự sát (seppuku) ngay sau khi đám tang của Thiên hoàng Minh Trị rời khỏi cung điện để thể hiện sự trung thành với hoàng đế Nhật Bản.

[*] Cuốn sách về luật quan trọng nhất của Đế quốc La Mã Thần Thánh.

[*] Nhóm dị Thiên Chúa giáo cực đoan ở Bắc Phi vào đầu và giữa thế kỷ thứ 4. Họ đánh giá cao sự tử vì đạo và có một lòng sùng kính đặc biệt đối với những người tử vì đạo. Họ thường tấn công binh lính La Mã và những người có vũ trang với mục đích khiêu khích để bị những người này giết chết và biến họ thành người tử vì đạo.

[*] Từ dùng để chỉ một nhóm tầng lớp thống trị ở thời La Mã cổ đại.

[*] Thomas More (1478 - 1535): luật sư, nhà triết học xã hội, tác giả, chính khách và nhà nhân văn Phục hưng người Anh. Utopia là tác phẩm nổi tiếng của Thomas More, được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Latin vào năm 1516 và đến năm 1551 mới được Ralph Robinson dịch sang tiếng Anh và xuất bản; bản tiếng Việt có tựa là ‘Utopia - Địa đàng trần gian’ được xuất bản năm 2006 bởi Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn.

[*] “Little Jack Horner” (Cậu bé Jack Horner): bài đồng dao được in trong tập “Đồng dao Mẹ Ngỗng” nội dung nói về cậu bé Jack Horner ngồi ăn bánh Giáng sinh, cậu cho ngón cai vào trong bánh và móc ra được quả mận.

[*] “Jack Sprat”: bài đồng dao được in trong tập “Đồng dao Mẹ Ngỗng” nội dung nói rằng Jack Sprat không ăn béo và vợ anh ta không ăn nạc nên cả hai người ăn hết sạch dĩa thức ăn.

[*] Trong thần thoại Bắc Âu, Loki là một gã khổng lồ đẹp trai nhưng gian ác. Bản tính của Loki là một ác thần, ưa chọc phá người khác, nên đã gây nhiều phen sóng gió cho các vị thần, và cuối cùng gây ra ngày tận thế Ragnarok.

[*] Johann Georg Faust (khoảng 1480 - 1541): nhà giả kim, nhà chiêm tinh, nhà ảo thuật người Đức. Có nhiều giai thoại về cuộc đời ông thông qua nhân vật tiến sĩ Faust được lưu truyền trong dân gian như một huyền thoại: người bán linh hồn cho quỷ dữ.

[*] Cyanide hay Xyanua là tên gọi các hóa chất cực độc có ion [C≡N]-

[*] Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 - 1900): nhà triết học người Phổ. Ông bắt dầu sự nghiệp như là một nhà ngữ văn học và viết nhiều bài phê bình yề tôn giáo, đạo đức, các vấn đề văn hóa đương thời, và triết học. Các tác phẩm của Nietzsche nổi bật với phong cách viết của ông, thường mang tính ẩn dụ và nhiều nghịch lý hơn là mức độ thông thường của các bài luận triết học.

[*] “Götzen - Dammerung oder Wie man mit dem Hammer philosophirt” (Hoàng hôn của những thần tượng, hay, Làm thế nào để triết lý với một cây búa) là một quyển sách của Friedrich Nietzsche, được viết vào năm 1888, và được xuất bản vào năm 1889. Bản tiếng Việt có tựa là “Buổi hoàng hôn của những thần tượng hay Làm cách nào triết lý với cây búa” được xuất bản năm 2006 bởi Nhã Nam và NXB Vănhọc.

[*] Zeno xứ Citium (khoảng 334 - 262 TCN): nhà triết học người Hy Lạp. Ông là người sáng lập ra chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism). Trường phái khắc kỷ cho rằng mọi cảm xúc hủy hoại đều bắt nguồn từ những sai lầm trong đánh giá, và một nhà hiền triết, người có “trí tuệ và đạo đức phi phàm” sẽ không phải trải qua những cảm xúc như vậy, bởi họ biết làm chủ cảm xúc và tình cảm của mình.

[*] Publius Cornelius Tacitus (khoảng 56 - 120): sử gia người La Mã. Hai tác phẩm lớn của ông là Annals (Biên niên nử) và Histories (Lịch sử) ghi chép về triều đại của các hoàng đế La Mã Tiberius, Claudius, Nero và những hoàng đế trị vì vào Năm tứ đế.

[*] Epictetus (khoảng 50 - 135): triết gia theo chủ nghĩa khắc kỷ. Ông sinh tại Phrygia (nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ).

[*] Marcus Aurelius Antoninus Augustus (121 - 180): hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 161 đến khi ông mất vào năm 180. Ông là vị hoàng đế cuối cùng trong thời kỳ Ngũ hiền đế, và cũng được xem là một trong những nhà hiền triết kiệt xuất của trường phái khắc kỷ. Tác phẩm “Meditations” (Suy ngẫm), được ông viết bằng tiếng Hy Lạp, là một tác phẩm kinh điển của triết học khắc kỷ.

[*] Johann Gottlieb Fichte (1762 - 1814): triết gia người Đức. Ông là một trong những nhân vật sáng lập của phong trào triết học được biết dưới tên Chủ nghĩa duy tâm Đức, vốn phát triển từ những bài viết về triết lý và đạo đức của Immanuel Kant. Fichte thường được xem là một người mà triết học của ông đã bắc cây cầu giữa các tư tưởng của Kant với nhà duy tâm người Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel.

[*] Denis Diderot (1713 - 1784): nhà văn và nhà triết học người Pháp.

[*] Frangois-Marie Arouet (1694 - 1778), nổi tiếng qua bút danh Voltaire, là một tác giả, bình luận gia, nhà thần luận và triết gia người Pháp.

[*] Jean-Jacques Rousseau (1712 - 1778), sinh tại cộng hòa Geneva, là một nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng có ảnh hưởng lớn tới Cách mạng Pháp 1789, sự phát triển của lý thuyết xã hội và sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc. Rousseau cũng có nhiều đóng góp cho âm nhạc cả trên phương diện lý luận và sáng tác. Ông cũng viết tiểu thuyết và đóng góp quan trọng cho trào lưu lãng mạn trong văn học. Tác phẩm “Khế ước xã hội” của ông đã có nhiều ảnh hưởng tới triết học phương Tây.

[*] Benvenuto Cellini (1500 - 1571): thợ kim hoàn, nhà điêu khắc, nhạc sĩ, nhà văn người Ý.

[*] Louvre: viện bảo tàng nghệ thuật và lịch sử nằm tại Quận 1, thành phố Paris, Pháp.

[*] Objet - d’art (tiếng Pháp): đồ mỹ nghệ.

[*] Phát hiện sau đó là tay cầm vàng khá nặng, dài gần 8 inch (20 cm), khá lỏng lẻo và có thể dễ dàng tháo ra khỏi cây gậy. Tay cầm này nặng gần 2 pound (0,9 kg) và, như Vance đã quan sát, tạo thành một cái “dùi cui” có hiệu quả cao. Dù nó có được mở ra cho mục đích đã được nói đến hay không, thì hoàn toàn chỉ là sự phỏng đoán.