← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 32 BẰNG CHỨNG TỪ MÁY QUAY

Khi từ không gian mở chói lòa ánh sáng ban ngày bước vào, phòng chiếu phim trông hết sức u ám, đáng sợ. Địa điểm này chắc chắn là một sự lựa chọn có tính toán, nhằm phá bỏ sự bình tĩnh của kẻ có lẽ là tên tội phạm thông minh nhất từng đem tài nghệ của mình ra đối chọi với các phương thức khoa học của Craig Kennedy.

Đây là một căn phòng nhỏ, dài và không được rộng cho lắm, cùng với một phần trần tương đối thấp. Để tránh mỏi mắt, các bức tường được sơn màu sẫm và không thấy có một màu tươi sáng nào ngoại trừ một khoảng trắng khá vuông vức ở phía đằng xa, tức chiếc màn nơi các thước phim sẽ được trình chiếu. Đèn đóm được bật rất mờ. Làm như vậy là để không có sự tương phản mạnh giữa ánh sáng hắt ra từ những hình ảnh chiếu trên màn chiếu trong phim và ánh đèn bên trong căn phòng giữa lúc thay cuộn. Thiết kế như vậy cũng lại nhằm mục đích hạn chế nhức mỏi mắt cho các nhân viên có nhiệm vụ liên tục kiểm tra phim trong những giai đoạn sản xuất khác nhau của nó.

Ghế được đóng chặt xuống dưới sàn nhà, sắp xếp theo những hình lưỡi liềm tí hon và được đặt sao cho không gây cản trở hình ảnh chiếu đến từ phía đằng sau. Có hai máy chiếu tất cả để thay phiên nhau chiếu các cuộn phim, và trong lúc một máy đang được luồn phim thì máy còn lại sẽ chạy. Nhờ vậy, quá trình chiếu phim được diễn ra liên tục. Chúng được đặt trong một buồng chống cháy hay một căn phòng tách biệt, chỉ kết nối với căn phòng xem phim tí hon thông qua các khe hở trên tường và một kiểu cửa lỗ mà nhân viên chạy máy chiếu có thể dùng để nói hay nhận mệnh lệnh.

Ngay bên dưới mấy khe hở thông vào trong căn buồng là một chiếc bàn, bên trên có một cây đèn có chụp, một bệ đặt kịch bản, và một nút tín hiệu. Đây là nơi nhân viên lên phim và biên tập viên sẽ ngồi, theo dõi bộ phim mình đang làm và ghi chép lại các thay đổi, đánh dấu những đoạn hành động thừa cần cắt bỏ, hay những đoạn tiêu đề hoặc khung lời thoại cần bỏ đi. Khi có tín hiệu, anh chạy máy chiếu có thể được yêu câu dừng lại ở bất cứ đoạn nào, hay cho bật phim, hay tua lại và chiếu đi chiếu lại một đoạn bất kỳ. Đèn đóm bên trong căn phòng được điều khiển từ bên trong buồng và cả bởi một công tắc ở ngay bên cạnh cửa. Một chiếc điện thoại trên bàn cho phép họ kết nối với bất cứ bộ phận nào tại trường quay, hay với các sàn giao dịch trong thành phố, để có thể liên hệ với nhân viên cấp cao của công ty trong lúc xem phim.

Lúc chúng tôi bước vào tôi thử nghiên cứu những gương mặt trong này, nhưng nhận thấy đấy là một công việc vô ích, bởi vì ánh sáng quá tù mù. Kennedy ngồi xuống bên chiếc bàn nhỏ, bật ngọn đèn có chụp lên và ra hiệu cho Mackay đặt chiếc túi du lịch xuống để anh có thể mở nó ra và xem những thứ chứa bên trong. Thế rồi Mackay ra đứng bên cửa, một bàn tay đặt trong túi, và tôi nhận ra rằng bên dưới lớp áo của mình, anh ủy viên công tố quận đang nắm chặt lấy một món vũ khí, sẵn sàng đương đầu với mọi rắc rối. Tôi tiến tới gần để sẵn sàng hỗ trợ Kennedy nếu cần thiết. Lúc Kennedy lấy chiếc chìa khóa của mình ra, mở khóa chiếc túi, im lặng bao trùm căng thẳng đến mức chỉ cần một bàn tay hay bàn chân hơi khẽ nhúc nhích, một hơi thở vô cùng nhẹ thốt ra là sẽ nghe thấy được luôn.

Đầu tiên Kennedy lôi các cuộn phim ra. Lúc ngước lên nhìn, anh thấy mặt anh nhân viên chạy máy chiếu tại cửa lỗ trên bức tường và lần lượt đưa chúng cho anh ta.

"Đây là hai phần ghi hình đoạn mở đầu của câu chuyện, phân cảnh từ số một cho đến số mười ba của 'Nỗi kinh hoàng Màu đen', được nối vào với nhau theo đúng trình tự, nhưng không có phụ đề. Một phần được in từ âm bản của người quay phim chính, Watkins. Phần còn lại cũng vẫn là những phân cảnh ấy, nhưng do nhân viên quay phim khác ghi hình. Chúng ta sẽ cho chiếu cả hai, nhưng giữa mỗi phần nhớ đợi hiệu lệnh của tôi. Hiểu chứ?"

"Vâng, thưa anh!"

"Giờ tôi sẽ cho anh hai cuộn có chứa bản in âm bản lấy từ cả hai máy quay ghi hình tại thời điểm Werner chết. Chúng cũng sẽ được chiếu theo cách tương tự lúc tôi ra hiệu cho anh. Sau đó thì sẽ có hai mẫu phim rất ngắn, chiếu cảnh âm mưu sát hại anh Shirley. Hiện tại chúng đang được khẩn trương đưa qua phòng thí nghiệm, và lúc chúng tôi đã sẵn sàng xem thì chúng sẽ được mang đến cho anh. Cuối cùng...", Kennedy dừng lại, và lúc anh lôi mấy cuộn âm bản của bộ phim rắn ra, tôi có thể thấy anh lưỡng lự không muốn để chúng rời tay mình, dù chỉ trong vòng một vài giây, "... chỗ âm bản này sẽ là cảnh cao trào nho nhỏ của tôi. Nó... nó quý giá lắm đấy, thế nên xin hãy cẩn thận."

"Anh... anh muốn chiếu ÂM BẢN ư?", anh chạy máy chiếu hỏi.

"Vâng. Người ta bảo với tôi rằng có thể làm được như vậy, ngay cả với âm bản cũ và mỏng manh như thế này, nếu anh biết đường cẩn thận."

"Tôi sẽ cẩn thận, thưa anh! Anh bấm nút đó một lần để dừng phim và hai lần để chiếu tiếp. Một chốc nữa tôi sẽ sẵn sàng ngay." Vừa nói anh ta vừa biến đi mất dạng, và chẳng bao lâu sau, chúng tôi nghe thấy tiếng xì xì không lẫn vào đâu được của các đèn hồ quang bên trong máy chiếu của anh ta.

Kennedy cúi xuống và lấy ra từ chiếc túi những chiếc phong bì nhỏ có chứa mớ dao bỏ túi và giũa móng tay, bộ phong bì đựng các mẫu máu, miếng lụa anh đã cắt ra từ tấm rèm treo tại Tarrytown, mẫu vải tí hon anh cắt ra từ chiếc khăn tắm do tôi phát hiện thấy bên trong nhà vệ sinh của trường quay này, và một chiếc kính hiển vi. Tôi đoán món đồ cuối cùng là để tạo hiệu ứng.

Khắp xung quanh bên trong cảnh tranh tối tranh sáng này, tôi có thể thấy gương mặt của bọn họ trong lúc họ nghển cổ lên để theo dõi chúng tôi. vẻ từ tốn của Kennedy và phong thái chắc chắn của anh hẳn đã khiến cho kẻ nào đó trong số đám khán giả nho nhỏ này phải sợ hãi. Kennedy thường xuyên sử dụng các thiết bị khoa học giấu kín để phát hiện ra những nét bộc lộ cảm xúc không rõ rệt của những người cùng tham gia với anh trong một buổi hội họp kiểu như thế này. Nó sẽ cho phép anh so sánh phản ứng của họ trong quá trình điểm lại các bằng chứng, mang lại cho anh một thứ có thể coi là bằng chứng rất rõ ràng về tội lỗi của ai đó. Chỉ riêng việc anh không chuẩn bị những thứ như thế đã đủ để cho tôi thấy anh tự tin đến nhường nào.

Một hồi lâu sau, anh bắt đầu bài thuyết trình của mình, trông chẳng khác nào đang đứng tại một trong những lớp ở trường đại học của mình, như thể vấn đề đặt ra trước mắt chỉ là một phản ứng hóa học.

"Thưa các vị, tôi không cần phải nói với mọi người rằng chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên hết sức khoa học." Tông giọng của anh nghe rất nhàn nhã, lãnh đạm, bình thản. "Ngay chính nghề nghiệp của các vị, nghề làm phim ảnh, với mọi khía cạnh liên quan đến ghi hình và điện lực, với sự kết hợp giữa nghệ thuật và kịch và cơ khí, cũng đã thể hiện được điều ấy rồi, nhưng...", anh dừng lại để nhấn mạnh, "... bây giờ tôi muốn nói về nghề nghiệp của chính tôi, nghề phát hiện và ngăn chặn tội ác.

Có lẽ giới tội phạm nói chung sẽ là tầng lớp đầu tiên trong xã hội nhận ra toàn bộ lợi ích mà khoa học hiện đại mang lại. Các ngân hàng và những tổ chức kinh doanh, các thám tử và những lực lượng cảnh sát, mọi giai cấp trong xã hội đã bị đẩy vào thế buộc phải cố gắng bắt nhịp với sự phát triển của tội ác mang tính khoa học. Điều đó đúng đến mức nhiều người thậm chí còn đinh ninh rằng chừng nào kẻ phạm tội đủ thông minh và đủ cẩn thận, gã hay ả đó có thể thoải mái bất tuân luật pháp, có thể hoàn toàn trốn tránh sự trừng phạt của công lý.

May mắn thay, sự thật đúng chuẩn thì lại trái ngược với điều ấy. Khoa học đã vươn rộng ra nhiều lĩnh vực. Chẳng hạn như với một chiếc kính hiển vi, nguyên một thế giới mới sẽ mở ra trước mắt người thám tử được huấn luyện bài bản.

Ngày nay, tất cả mọi người đều đã biết rằng khám xét bàn tay và ngón tay là một quy trình hết sức hữu hiệu đối với công việc xác minh danh tính của tội phạm và chứng minh một kẻ tình nghi đã có mặt tại hiện trường vụ án. Tất nhiên, thứ tôi đang nhắc đến là dấu vân tay. Nhưng dấu vân tay chỉ là một yếu tố nhỏ trong lĩnh vực điều tra. Đám tội phạm của chúng ta biết rằng cần phải đeo găng tay, hay chùi sạch bất cứ bề mặt nhẵn nào để loại bỏ dấu vân tay. Khi làm như vậy, chúng tin rằng mình đã qua mặt được kính hiển vi hoặc chiếc kính lúp bỏ túi.

Trên thực tế, rất ít người nghĩ đến một cách lấy bằng chứng khác từ đầu ngón tay, nhưng đối với dân làm khoa học thì đó là một phương pháp khả dĩ, và nó không chỉ thực tế mà còn hiệu quả vô cùng. Dần dần tất cả các chuyên gia trong lĩnh vực tội phạm học sẽ công nhận nó. Thứ tôi đang nhắc đến bây giờ là phần cặn bên dưới móng tay.

Quả thật là ta sẽ phải rất ngạc nhiên khi biết có bao nhiêu thứ luồn được xuống dưới móng tay và vào trong các ngóc ngách của lớp biểu bì." Kennedy chỉ vào mớ giũa móng tay và dao bỏ túi đặt trong khung ánh sáng được chụp lại vuông vắn trước mặt mình. "Chúng ta sẽ có thể ý thức được rất rõ giá trị của việc kiểm tra cặn móng tay khi nhận ra rằng tất cả mọi người đều mang theo một mẫu vật của mọi thứ chất liệu mình động vào thông qua chất cặn kia. Khi chạm vào một mảnh vải, ngay cả nếu chỉ chạm rất nhẹ thôi, cũng sẽ khiến cho ta lấy đi một chút phần sợi của nó. Tương tự, không ít thì nhiều, các móng tay sẽ để lại một phần chất cặn tích tụ được trên những thứ được dùng để làm sạch chúng, chẳng hạn như lưỡi dao hay giũa móng tay, và ta vẫn có thể xác minh được danh tính chúng dựa trên đó. Bên dưới kính hiển vi, chẳng thứ gì trên đời này lại không thể dùng làm bằng chứng được bởi vì nó quá nhỏ cả.

Thông qua việc phân tích các chất cặn ấy...", Kennedy dừng lại, và căn phòng nhỏ im phăng phắc, "... chúng ta sẽ biết được rằng thứ nào ở đó là đúng, và thứ nào có vấn đề. Hiện tại, thứ có vấn đề là điều chúng ta cần quan tâm. Ngày đầu tiên chúng tôi có mặt tại trường quay, mới chỉ bốn ngày trước thôi, và ngay sau khi cô Lamar bị sát hại, anh Jameson đã phát hiện ra một chiếc khăn tắm bên trong nhà vệ sinh ở tầng hai của tòa văn phòng. Trên chiếc khăn tắm đó là những đốm vàng thư hoàng, chất dùng để trang điểm, như thể nó đã được một nam hay nữ diễn viên nào đó dùng để chùi mặt hay lau tay. Những đốm đó không quan trọng. Tuy nhiên, có những đốm khác với bản chất khác hẳn, cùng với vết máu và một vệt ố, cho thấy rằng một mũi kim tiêm đã được chùi vào chiếc khăn kia trước khi nó bị quăng vào trong giỏ."

Kennedy rướn tới trước. Mắt anh lia khắp các gương mặt. "Chiếc khăn tắm đó là một manh mối nguy hiểm." Giờ thì giọng anh đã có thêm sắc thái nghiêm trọng. "Riêng mình chiếc khăn tắm đó đã cung cấp cho tôi bằng chứng để giúp kết án tên tội phạm trong vụ việc này. Ngày hôm nay, tôi để cho tất cả mọi người cùng biết rằng tôi đã sở hữu nó, và gã hay ả thủ phạm ngay lập tức hiểu nó sẽ có giá trị đối với tôi như thế nào. Để kiếm thêm manh mối, tôi cố tình tạo ấn tượng là tôi vẫn chưa phân tích các đốm bẩn hay vệt máu. Tôi muốn chiếc khăn tắm bị ăn cắp, và để phục vụ mục đích ấy, tôi đặt chiếc túi chứa nó vào trong một tủ khóa và để mặc chiếc tủ khóa đó, không canh chừng gì cả. Tôi đã bôi lên chiếc khăn tắm một thứ chất gây khó chịu và hoảng sợ - thuốc gây ngứa - không phải vì nghĩ rằng sẽ có ai đó đủ ngớ ngẩn để vừa đi vừa gãi sồn sột trước mắt tôi, mà là vì muốn kẻ đó tin rằng mưu đồ của tôi là như vậy, đồng thời muốn đẩy hắn - hay ả - vào thế phải lập tức rửa tay và, quan trọng hơn, muốn bắt hắn hay dọa cho hắn vì sợ mà phải làm sạch các móng tay của mình.

Tôi đã thành công. Trên một trong những chiếc giũa hoặc lưỡi dao ở đây, tôi đã phát hiện ra và nhận diện được các sợi vải của chiếc khăn tắm đó. Tôi chưa biết nhân vật đó là ai, nhưng tôi biết ký hiệu Mackay đã ghi ra bên ngoài chiếc phong bì nhỏ, và khi tôi nói cho Mackay biết ký hiệu ấy là gì, anh ta sẽ nêu tên thủ phạm."

"Anh Kennedy!" Manton nôn nóng nói. "Mọi chiếc khăn tắm trong trường quay đều giống hệt nhau. Tôi mua tất cả bọn chúng cùng một lúc. Chất vải cũng sẽ chẳng khác gì nhau hết. Anh đã nói với tôi tên bảy người, trong đó có cả bản thân tôi, bị tình nghi đã thực hiện những... những vụ án mạng này. Các kết luận của anh có thể sẽ rất không công bằng - và có thể sẽ dẫn đến một vụ án oan nghiêm trọng."

Kennedy không chút nao núng. "Bên cạnh chất thuốc gây ngứa, chiếc khăn tắm này còn được tẩm kỹ một chất hóa học không màu, gây biến đổi kết cấu của chất vải theo cách khiến cho chúng có thể dễ dàng được phân biệt với vải của những chiếc khăn khác dưới kính hiển vi. Ông có hiểu không, ông Manton?"

Nhà quảng bá không hó hé thêm câu gì nữa.

"Vậy chiếc khăn tắm này có liên quan gì đến vụ án? Đơn giản là đây!" Kennedy nhấc lên một mẫu tí hon mà anh đã cắt ra từ nó. "Chất độc được sử dụng để giết cô Lamar là nọc độc rắn." Anh dừng lại, và âm thanh đầu tiên tôi nghe thấy là tiếng rì rầm lan tỏa khắp đám khán giả của anh. "Những đốm trên chiếc khăn tắm là chất kháng nọc độc. Sử dụng nọc độc là một việc cực kỳ nguy hiểm. Gã - hay ả - thủ phạm không đem tính mạng ra đặt cược, mà hắn tiêm chất kháng nọc độc cho mình, chống lại bất cứ tác động nào của nọc độc. Các vết tích trên chiếc khăn tắm là vết tích lưu lại từ mũi kim được kẻ đó sử dụng để tiêm phòng cho bản thân.

Nếu để ý lắng nghe tôi, các vị sẽ hiểu tầm quan trọng của việc ấy. Thứ sát hại cô Lamar là vết xước gây ra bởi một mũi kim, giấu kín bên trong cặp rèm treo mà cô ấy phải bước qua trong lúc đóng phân cảnh tại thư viện của ông Phelps. Tôi sẽ chứng minh để các vị thấy điều ấy lúc trình chiếu đoạn phim cho các vị xem. Vào đêm sau hôm cô ấy chết, một kẻ nào đó đã đột nhập vào trong căn phòng tại Tarrytown kia và lấy mũi kim mang đi. Trong lúc gỡ mũi kim ra, kẻ ấy đã tự cào xước bản thân. Trên tấm rèm treo, tôi đã tìm thấy một số vệt máu tí hon." Kennedy dừng lại để giơ mảnh lụa nặng lên. "Tôi đã phân tích chúng và phát hiện ra rằng bản chất huyết thanh của máu đã có sự thay đổi rất nhỏ. Tôi đã chứng minh được rằng máu của kẻ lấy mũi kim đi có chứa chất kháng nọc độc, và nếu cần thiết tôi có thể chứng minh vệt máu ấy là của cùng kẻ đã quệt mũi kim vào chiếc khăn tắm trong trường quay."

Kennedy bấm chiếc nút đặt trước mặt mình hai lần. "Bây giờ tôi muốn các vị chứng kiến, thực sự chứng kiến cách cô Lamar chết."

Đèn đóm tắt hết, và rồi thước phim nhấp nháy xuất hiện trên màn chiếu phía trước chúng tôi, trưng ra phân cảnh mở đầu u ám và bí ẩn của "Nỗi kinh hoàng Màu đen". Chúng tôi thấy chiếc đèn pin rọi đi rọi lại, và cuối cùng là đến ngón tay cùng với phần cánh tay theo sau của Stella lúc cô tẽ cặp rèm treo ra. Khi đến cảnh quay cận cảnh, chúng tôi thấy cảnh cô bước vào được lặp lại, bởi lẽ bộ phim chỉ đơn thuần được ghép lại với nhau chứ không được "sắp bộ" hay cắt tỉa gì cả. Theo sau đó là toàn bộ những cảnh hành động khác, cho đến tận lúc cô ngã gục lên thân mình Werner trên sàn nhà. Trước khi nhân viên quay phim ngừng quay, Manton lao vào, và cảnh ông ta cúi xuống bên cô được ghi hình lại.

Giọng của Kennedy căng lên một cách đầy kịch tính, bởi vì không một ai trong số chúng tôi lại không rúng động cả tâm hồn khi nhìn tấn thảm kịch được tái hiện.

"Các vị có để ý thấy vẻ kinh hãi trên mặt cô ấy lúc cô ấy la lên không? Liệu đó có thực sự là nỗi kinh hãi không? Nếu ban nãy theo dõi, các vị hẳn sẽ để ý thấy một động tác rùng mình nhẹ lúc cô ấy quệt tay vào lớp lụa. Trong đúng tích tắc ấy, cô ấy không hề diễn xuất. Thứ khiến cho cô ấy la lên là cơn đau, không phải nỗi kinh hoàng giả tảng. Âm mưu này quỷ quyệt ở chỗ nó rất cẩn thận che giấu chính hành động ấy - tiếng kêu mà cô ấy chắc chắn sẽ phải thốt lên. Giờ tôi sẽ ra hiệu cho anh chạy máy chiếu bật lại cũng cảnh ban nãy, nhưng mà là hình thu từ máy quay khác, hãy quan sát thật kỹ nhé. Hãy để ý chất độc dần dần phát tác, để ý cách cô ấy ép mình phải gồng người lên diễn tiếp, không hề nhận ra rằng cái chết đã gần kề, để ý cách cô ấy cuối cùng cũng ngã gục xuống vì không còn kiểm soát được bản thân thêm một khoảnh khắc nào nữa."

Trong lúc thước phim thứ hai được chiếu, một bầu không khí im lặng căng thẳng và hãi hùng tràn ngập bên trong căn phòng. Thủ phạm là ai? Kẻ nào lại có thể nhẫn tâm đến độ không hề lên tiếng trước một cảnh tượng như vậy?

"Còn bây giờ...", Kennedy liếc nhìn xung quanh trong ánh đèn tù mù, được bật lên giữa lúc đổi sang chiếu thước phim khác,"... tôi sẽ chiếu các phân cảnh đã được ghi lại trong buổi tiệc và cho các vị thấy Werner chết như thế nào."

Những phân cảnh của buổi tiệc nối đuôi nhau lóe lên trước mặt chúng tôi. Anh lên phim không thực sự hiểu rõ ý của Kennedy và đã chập hết tất cả mọi thứ vào với nhau. Chúng tôi chứng kiến kỹ năng đạo diễn tuyệt vời của Werner, người không hề nhận ra rằng đây sẽ là những giây phút ngắn ngủi cuối cùng của mình trên đời. Đồng thời, chúng tôi còn lĩnh hội được vẻ đẹp của khu bối cảnh và ảo ảnh tạo ra từ những chiếc gương và tài nghệ bày bố người của ông. Ấy nhưng chẳng có lấy một âm thanh nào vang lên hết, bởi vì chúng tôi biết rằng đây là một thảm kịch, một sự kiện nghiệt ngã mà không ai bào chữa nổi.

Werner đứng dậy từ chỗ ngồi của mình. Ông đề nghị nâng ly. Ông uống hết chỗ nước trong ly của mình. Thế rồi biểu cảm của ông chuyển thành ngạc nhiên, và từ đó chuyển sang sợ hãi và hiểu ra sự tình, và ông đổ gục xuống sàn nhà.

Giọng của Kennedy vang lên, ngắt ngang bộ phim. Nhưng vì bị thước phim ấy tác động quá mạnh mẽ, tôi thấy giọng anh cứ như đang vọng lại từ một nơi xa xôi nào đó.

"Chất độc được sử dụng để giết ông Werner là chất độc botulin. Nó được chọn lựa bởi lẽ hiệu lực của nó sẽ chỉ có thể được chẩn đoán là chứng ngộ độc thực phẩm bình thường. Lúc theo dõi đoạn phim in ra từ âm bản của máy quay thứ hai, các vị sẽ nhận thấy nó phát tác nhanh chóng đến chừng nào. Nó là chất độc tinh khiết, được nhỏ vào trong ly của ông ta từ trước khi rượu được rót."

Một lần nữa, cái chết của ông đạo diễn xấu số được tái hiện lại trước mắt chúng tôi.

"Ông ta như thể bị một tia chớp tàng hình quật ngã," Craig thốt lên, "không chút nhân từ, không một cơ hội, không chút ăn năn! Tại sao? Để tôi nói cho các vị nghe. Bởi vì ông ta nghi ngờ, đúng hơn là biết, thủ phạm là ai. Bởi vì ông ta đã theo chân một kẻ ra tận Tarrytown vào đêm mũi kim được gỡ bỏ khỏi tấm rèm treo. Bởi vì ông ta là một mối hiểm họa đối với sinh mạng kẻ đó!"

Kennedy quay sang anh chạy máy chiếu. "Mấy phân cảnh kia được gửi xuống chưa?"

"Rồi, thưa anh!"

"Tốt lắm!" Kennedy lại quay về phía chúng tôi. "Từng có, hay nói đúng hơn là vẫn có, một người khác nghi ngờ danh tính của tên tội phạm. Ngày hôm nay, một âm mưu sát hại Shirley đã được triển khai. Shirley sẽ không nói mình nghi ngờ ai, bởi lẽ anh ta không có bằng chứng cụ thể, ấy nhưng chính nhờ sự nghi ngờ đơn thuần đó mà anh ta đã suýt soát thoát khỏi số phận của Stella Lamar và Werner." Kennedy bấm nút. "Hãy chứng kiến âm mưu sát hại người đàn ông đóng vai "Nỗi kinh hoàng Màu đen."

Do được cho xuất xưởng một cách quá chóng vánh, bản in này có chất lượng khá tồi, trông cứ như một "bản sao". Nhưng dẫu sao, hai khung cảnh hết sức ngắn ngủi được in vội để phục vụ buổi trình chiếu này còn ly kỳ và lôi cuốn hơn, sinh động hơn bất cứ thứ gì được ghi lại trong một cuộn phim tin tức tại một rạp chiếu phim.

"Nhìn mà xem!" Kennedy thốt lên. "Anh ta thò bàn tay vào một bên túi, anh ta lục lọi, lưỡng lự, sau đó tìm thấy chiếc lọ ở túi bên kia. Kẻ bỏ thuốc độc vào trong lọ đã để nó vào nhầm túi. Thước phim cho thấy rất rõ ràng điều ấy. Máy quay chứng minh rằng đây không phải là một nỗ lực tự sát. Ấy nhưng thuốc độc được sử dụng lại là benladon, được lựa chọn bởi lẽ nạn nhân này đã mua một ít thứ thuốc ấy, thế nên nó sẽ khiến cho ta tưởng rằng anh ta đã tự sát."

Chúng tôi ngồi lắng nghe trong im lặng, kinh hoàng vô cùng.

"Vẫn còn một vấn đề nữa," một lúc sau Kennedy nói tiếp. "Vụ hỏa hoạn bên trong hầm chứa âm bản sáng hôm nay do một kẻ phóng hỏa gây ra. Một số người trong nhóm chúng ta đã được tôi chứng minh cho thấy và đồng tình rằng một quả bom làm từ phospho ướt và phim cũ đã được ai đó dùng thủ đoạn đặt vào bên trong hầm chứa từ bốn ngày trước, cùng ngày Stella Lamar bị sát hại. Do tính toán sai lệch, chỗ phospho khô rất chậm, và cho đến tận ngày hôm nay vụ hỏa hoạn mới diễn ra. Nhờ đó mà tôi hiện đang nắm trong tay một thước phim âm bản mà nhiều khả năng kẻ sát nhân rất muốn tiêu hủy đi. Thực tình mà nói, tôi tin rằng động cơ hắn lập mưu gây ra vụ hỏa hoạn bên trong hầm chứa chính là để tiêu hủy nó." Anh quay sang anh chạy máy chiếu, "sẵn sàng cho chiếu âm bản chưa?"

"Rồi, thưa anh!"

Kennedy bấm nút, và khi máy chiếu cho thước phim xuất hiện trên màn chiếu, tôi được chứng kiến một thứ mà từ trước đến nay chưa bao giờ từng hình dung ra. Tất cả những thứ màu trắng thì lại hóa đen, và mọi thứ màu đen thì lại chuyển thành trắng. Hai thái cực ấy hòa lẫn vào với nhau theo một cách thức rất lạ lùng. Thực tình mà nói, xem một đoạn phim âm bản được trình chiếu là một trải nghiệm rất kỳ quái, và tôi dán mắt vào như bị mê hoặc.

"Đây là một bộ phim được thực hiện với sự cộng tác của tiến sĩ Nagoya thuộc viện nghiên cứu Castleton, và tôi được ông Manton nói cho biết rằng đây là một trong những bộ phim về rắn hay nhất từng được sản xuất." Kennedy nói thật nhanh để đảm bảo chúng tôi nghe hết được lời giải thích của anh, và sẽ không cần phải để cho âm bản bị các bánh xích bên trong máy chiếu mài mòn thêm một lần nào nữa. "Tôi cho chiếu thước phim này để cho các vị được chiêm ngưỡng bọn rắn chuông, chủng rắn cung cấp thứ nọc độc được dùng để giết cô Lamar, và để các vị hình dung được kiến thức về nọc độc rắn của kẻ sát nhân từ đâu mà ra."

Đúng lúc ấy, tiến sĩ Nagoya, người tôi gần như chẳng tài nào nhận ra trong bộ phim đảo màu, nắm lấy một con rắn đuôi chuông. Đó là một cảnh quay cận cảnh, và chúng tôi có thể thấy con bò sát thò chiếc lưỡi chẻ đôi của nó ra, tìm cách mổ vào tay ông người Nhật, bấy giờ đang siết chặt quanh cổ nó. Và rồi một người khác bước vào trong khung hình, cầm theo một chiếc lọ. Con rắn ngay lập tức tấn công lọ thủy tinh. Ngay khi nó vừa làm thế, chúng tôi có thể thấy mấy giọt nọc độc nhỏ vào trong lọ.

Theo sau là một loạt các tình tiết khác, và có mấy cảnh đủ loại và chủng rắn khác nữa, từ những loài độc cho đến những loài hết sức vô hại. Tuy nhiên, cảnh quan trọng là lúc ghi hình nọc độc.

"Bật đèn lên!"

Anh chạy máy chiếu lại bấm công tắc thêm một lần nữa, cho ngưng thước phim lại, đồng thời bật đèn đuốc trong phòng chiếu phim lên. Kennedy bước tới trước và quay lại nhìn chúng tôi.

"Bên trong hầm chứa có âm bản ấy." Anh nói nhanh. "Trên phim có đề tên một người làm biên tập viên. Kẻ nào đó biết rằng bằng chứng cho thấy hắn sở hữu kiến thức về rắn rết này có thể sẽ trở thành một mắt xích quan trọng, góp phần trói chặt hắn lại. Nếu đây mà là một cuộn phim dương bản thay vì âm bản, các vị hẳn sẽ nhận ra 'trợ lý' của tiến sĩ Nagoya là ai. Có hai động cơ khiến hắn cho nổ hầm chứa - để phá hoại công ty và để bảo vệ bản thân mình. Trên thực tế, toàn bộ chỗ âm bản còn lại đều đã bị hủy hoại. Chỉ thuần túy nhờ tình cờ mà tôi giữ lại được thước phim này - đúng thứ hắn muốn tiêu hủy."

Tất cả mọi người nín thở chờ đợi động thái tiếp theo của Kennedy. Bất chợt Kennedy đỏ rần mặt lên. Tôi có thể thấy anh đã thực sự trở nên giận dữ.

"Ngồi bên trong căn phòng này," anh thốt lên, "là một kẻ vô đạo đức, máu lạnh, bất nhân nhất tôi từng biết. Ấy vậy mà hắn vẫn giữ im lặng, vẫn tin rằng mình có thể chống lại các bằng chứng khoa học chứng minh tội ác của hắn. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa nhắc đến bằng chứng thật chứng minh hắn là kẻ có tội.

Kennedy nhặt một chiếc phong bì nhỏ lên, chiếc có chứa một mẫu máu. "Trong vụ nổ sáng hôm nay, một số người các vị đã bị kính rơi cứa phải. Các vị hẳn sẽ nhớ là tôi đã băng bó cho vết thương của các vị, cẩn thận làm sạch mỗi vết và thấm hết máu đi. Nhờ đó, tôi kiếm được một mẫu máu của tất cả mọi người ngoại trừ cô Loring và anh Shirley. Sau đó, tôi lại thu thập được mẫu máu từ cả hai người bọn họ, mặc dù họ không hề hay biết. Thế là tôi đã có một mẫu máu từ tất cả những người có liên quan, hay có thể dính líu đến các vụ án mạng."

Anh liếc nhìn xung quanh, nhưng thậm chí ngay cả khi ấy, vẫn chẳng ai bộc lộ ra dấu hiệu gì trông rõ là có tội cả.

"Tôi đã phân tích chúng, và có một mẫu cho thấy người được tôi lấy mẫu này đã được tiêm chất kháng nọc độc. Ký hiệu trên phong bì của nó cũng tương tự như ký hiệu trên chiếc phong bì chứa mẫu vải của chiếc khăn tắm, tức đây là một bằng chứng kép. Thêm nữa, tôi sẵn sàng chứng minh rằng nó cũng chính là mẫu máu vấy trên tấm rèm treo." Anh quay sang tôi. Bất thình lình giọng anh nghe sắc như một cây roi. "Walter, ra thế chỗ Mackay tại cửa và nhận lấy vũ khí của anh ta đi. Đừng cho ai ra ngoài cả. Mackay, ra đây tôi nhờ!"

Một thoáng sau, anh ủy viên công tố quận rướn tới trước. Anh ta liếc nhìn ký hiệu do Kennedy chỉ, sau đó thì thầm một cái tên. Liền sau đó, Kennedy đứng dậy. "Tôi biết ngay mà," anh lẩm bẩm.

Anh lớn tiếng nói với tất cả chúng tôi.

"Đây là một kẻ luôn mưu tính gây án, miễn sao hắn tin mình sẽ có thể thoát tội - luôn mưu tính chuyện giết người! Hắn không chỉ thực hiện một vụ án mạng thứ hai và lên kế hoạch thực hiện một vụ thứ ba nhằm che đậy vụ thứ nhất mà còn gài bằng chứng chống lại gần như tất cả các vị. Hắn thả chiếc ống bóng vào trong xe của McGroarty để đổ tội cho một ai đó trong số bốn người. Hắn thản nhiên ăn cắp một hộp thuốc lá để đặt nó vào nơi có thể được tìm thấy sau vụ cháy phim và tạo sự nghi ngờ.

Hắn có cớ gì để thực hiện tất cả những hành động ấy? Thứ xúi giục hắn chính là lòng ghen tị. Một lòng ghen tị vô cùng hẹp hòi, vô cùng nguyên thủy. Hắn không chỉ sẵn sàng giết Stella Lamar, mà còn tìm cách phá hủy mọi thước phim âm bản có mặt cô ấy. Hắn ghen tị với sự thành công của cô ấy, thành công hơn cả hắn, ghen tị với việc cô ấy thích những người khác, thích hơn mức cô ấy thích hắn. Vụ ly dị của cô ấy là do chính tay hắn đưa đẩy, đơn thuần bởi hắn tin nó sẽ làm tổn thương và hạ nhục cô ấy, chứ không vì bất cứ lý do nào khác.

Khi có vẻ chẳng thứ gì ngăn được hành trình leo lên đỉnh cao của cô ấy, khi hắn nhận ra rằng cô ấy cũng tham vọng chẳng kém gì hắn, và điều duy nhất cô ấy quan tâm đến là địa vị trong thế giới điện ảnh của mình, hắn sử dụng những phương thức xảo quyệt, những mưu chước ngấm ngầm, gây ra bất bình và khích lệ những mối bất hòa để phá hoại công ty đã làm nên tên tuổi của cô ấy. Cuối cùng... hắn giết cô ấy - gian xảo chờ cho đến khi cô ấy đang đóng đoạn cao trào trong tác phẩm tuyệt đỉnh của mình, các phân cảnh mở đầu trong bộ phim 'Nỗi kinh hoàng Màu đen'."

Trong giọng của Kennedy xuất hiện vẻ cay đắng. "Nếu mà là hồi trước, tôi sẽ chẳng đời nào tin rằng một người..."

Bất chợt phòng chiếu phim chìm vào trong bóng tối. Ai đó đã nhấn vào công tắc trên tường cạnh tôi. Tôi bước lùi về phía khung cửa, giơ sẵn vũ khí của mình lên để chống lại bất cứ nỗ lực bỏ trốn nào.

Gần như cùng lúc ấy, có tiếng một cuộc vật lộn. Kennedy đã lao tới trước từ trong bóng tối, biết rất rõ vị trí tên tội phạm, không chút lo sợ.

Một tiếng hét vang lên, và tôi nhận ra nó được thốt ra từ họng Enid. Tôi lần mò tìm công tắc, nhưng anh chạy máy chiếu bên trong căn buồng đã đoán được ý tôi. Ngay khi luồng ánh sáng đầu tiên bừng lên, tôi thấy Kennedy đã đẩy ngược kẻ địch của mình lùi vào hàng ghế trước. Tôi gần như nghe thấy được tiếng xương sống hắn kêu răng rắc.

Tôi liếc thấy gương mặt hắn và há hốc mồm ra trước sự cuồng nộ đầy sát khí của hắn, trong lúc tên kia vật lộn và tìm cách thoát ra khỏi thế bị tóm bởi gọng kìm sắt của Kennedy.

Enid là người đầu tiên đến bên cạnh Kennedy. Với một vẻ mặt mà phải mãi về sau tôi mới phân tích ra nổi, cô tìm cách cào cấu phần mặt không được bảo vệ của kẻ sát nhân, bấy giờ đang giần giật với một cơn giận bất lực.

"Mi đã viết mẩu giấy đề nghị cô ấy gặp mi tại phòng trà," Kennedy lẩm bẩm, mắt nheo lại đầy vẻ hung hãn, "... bởi vì mi biết cô ấy sẽ chết trước thời điểm ấy. Mi đã tự phòng vệ trước mũi kim tẩm độc gài trong rèm treo. Tuy nhiên... chính máu của mi đã kết tội mi - Millard ạ!"

*

Chú thích:

- Một cuộn phim tiêu chuẩn giai đoạn đầu thập niên 1920, thường sẽ có thời lượng mười một phút. Phim năm cuộn sử dụng năm cuộn phim liền nhau, có thời lượng khoảng một tiếng.

- Nút thắt Gordias: theo truyền thuyết Hy Lạp, chiếc xe bò lần đầu chở Gordias đến xứ Phrygia - nơi về sau ông lên ngự trị - được buộc vào một cây cột bằng một nút thắt vô cùng phức tạp, và người nào tháo được nó ra sẽ trở thành vua toàn cõi châu Á. Alexander Đại Đế tháo nó bằng cách dùng kiếm chặt đứt nó đi.

- Film lab là một phòng tráng, in, và hiệu chỉnh lại film trước khi làm thành film hoàn chỉnh.

- Seken: một loại tiền Do Thái cổ.

- Longfellow: tức Henry Wadsworth Longfellow, một nhà thơ người Mỹ giai đoạn thế kỷ 19.

- Excelsior: tức thăng tiến trong tiếng Latinh. Đây cũng là tiêu đề một bài thơ nổi tiếng của Henry Longfellow.

- Bamum: tức Phineas Taylor Barnum, người sáng lập ra rạp xiếc Barnum & Bailey.

- Lá thư bị đánh cắp: tên gốc The Purloined Letter, một truyện ngắn trinh thám của Edgar Allan Poe.

- Mohammed và ngọn núi: một câu ngạn ngữ cổ, gốc là nếu ngọn núi không chịu xuống gặp Muhammad, Muhammad sẽ phải leo lên trên núi. Phiên bản người hành hương và thánh địa Mecca của Enid là do cô tự sáng tạo ra.

- Goodwin: tức Nathaniel Carl Goodwin, nam diễn viên Hollywood với năm đời vợ.

- Griffith: tức David Wark Griffith, một đạo diễn nổi tiếng người Mỹ.

- Yama Yama: ý chỉ “The Yama Yama Man”, bài hát hài hước trong vở kịch The three twins.

- Mansfield: tức Richard Mansfield, một diễn viên sân khấu nổi tiếng với vai diễn bác sĩ Jekyll và ông Hyde.

HẾT