← Quay lại trang sách

2. Những ngọn tháp quỷ của Alicante

Ở đây không có phép thuật, Clary nghĩ khi cô và chú Luke đi vòng quanh khu đất trống tới lần thứ ba, một khu đất có thể được trưng dụng làm khu đậu xe mới cho con đường của thành phố New York. Chiếc xe tải chẳng biết phải đậu vào đâu, và một nửa đường đầy những chiếc xe đậu san sát. Cuối cùng, chú Luke dừng xe trước một vòi phun nước và gạt cần về số mo với một tiếng thở dài. “Đành vậy,” chú nói. “Báo cho họ biết cháu đã tới. Chú sẽ mang va li cho cháu.”

Clary gật đầu, nhưng chần chừ khi chạm tay tới tay cầm cửa. Bụng dạ cô chộn rộn vì căng thẳng, và cô ước, không phải lần đầu tiên, rằng chú Luke sẽ đi với cô. “Cháu cứ nghĩ rằng lần đầu tiên cháu ra nước ngoài, ít nhất cháu cũng phải có hộ chiếu.”

Chú Luke không cười. “Chú biết cháu lo lắng,” chú nói. “Nhưng sẽ ổn thôi mà. Nhà Lightwood sẽ chăm sóc tốt cho cháu.

Cháu đã nói với chú câu đó cả triệu lần rồi, Clary nghĩ. Cô vỗ nhẹ vai chú Luke trước khi nhảy khỏi xe. “Hẹn gặp lại chú.”

Cô cẩn trọng đi trên con đường đá nứt vỡ, âm thanh huyên náo của dòng phương tiện đi lại càng lúc càng xa khi cô càng lúc càng gần với cửa nhà thờ. Lần này, cô mất một lúc lâu để nhìn xuyên qua lớp ảo ảnh của Học Viện. Như thể gần đây nhà thờ công giáo này đã được phủ thêm một lớp ngụy trang như một lớp sơn mới vậy. Dùng đầu óc để gạt bỏ nó đi khá khó, thậm chí còn gây đau đớn. Cánh cửa gỗ cao cao tỏa sáng như thể mới được đánh véc-ni.

Trong không gian có mùi là lạ, giống như mùi ozone và mùi khen khét. Nhíu mày, cô đặt tay lên quả đấm cửa. Tôi là Clary Morgenstem, một trong những Nephilim, và tôi yêu cầu được bước chân vào Học Viện-

Cửa bật mở. Clary bước vào trong. Cô nhìn quanh, chớp mắt, cố nhận xem cái gì cho cô cảm giác khác biệt về không gian bên trong nhà thờ. Cô nhận ra khi cửa chính đóng lại sau lưng, nhốt cô trong khung cảnh u tối chỉ được thắp sáng bởi ánh sáng nhờ nhờ từ ô cửa sổ hoa hồng cao cao phía tiên. Cô chưa từng ở trong Học Viện khi không có hàng ngàn ánh lửa nhỏ xíu trên những giá nến nằm dọc hành lang giữa hàng ghế nguyện.

Cô lôi ngọn đèn phù thủy trong túi ra và giơ lên. Viên đá bừng sáng, tỏa đi hàng ngàn tia sáng qua những kẽ tay. Nó rọi qua những góc nhà thờ khi cô tiến tới thang máy gần bệ thờ trống không và bực bội nhấn nút.

Không có gì xảy ra. Sau nửa phút, cô ấn nút một lần nữa - và lần nữa. Cô ép tai vào cửa thang máy và nghe ngóng. Không có một tiếng động. Học Viện tối om và im lìm, giống như một con búp bê máy mà trái tim cơ khí đã ngừng hoạt động.

Giờ trống ngực đập dồn dập, Clary vội vã trở lại hành lang và đẩy cánh cửa nặng trịch mở. Cô đứng trên những bậc cửa trước của nhà thờ, hoảng hốt nhìn quanh. Bầu trời đã chuyển sắc sẫm của màu xanh cô ban, mùi khét bắt đầu nặng nề hơn. Chẳng nhẽ có hỏa hoạn? Chẳng nhẽ các Thợ Săn Bóng Tối đã di tản sao? Nhưng nơi này vẫn chẳng mảy may bị tổn hại...

“Không phải hỏa hoạn đâu.” Một giọng nhỏ nhẹ, dịu dàng và quen thuộc vang lên. Một dáng hình cao cao bước ra khỏi bóng tối, mái tóc mái dựng ngược một cách vô duyên. Anh ta mặc áo véc lụa đen bên ngoài áo sơ mi xanh ngọc bích lấp lánh, trên những ngón tay gầy đeo đầy những chiếc nhẫn đá quý sáng loáng. Tất nhiên, anh ta đang đi đôi giày đắt tiền và trên người rắc khá nhiều kim tuyến.

“Magnus?” Clary thì thầm.

“Tôi biết cô đang nghĩ gì,” Magnus nói. “Nhưng không có hỏa hoạn. Cái mùi đó là sương mù địa ngục - một dạng khói quỷ bị phù phép. Nó ngăn cản hiệu lực của một số loại phép thuật nhất định.”

“Sương mù quỷ? Vậy là có…”

“Một vụ tấn công vào Học Viện. Đúng. Ngay đầu giờ chiều. Những Kẻ Lầm Đường - có lẽ là vài tá.”

“Jace,” Clary thì thào. “Nhà Lightwood…”

“Khói địa ngục ngăn khả năng chiến đấu chống lại Kẻ Lầm Đường của tôi. Của họ nữa. Tôi đã mở Cổng Dịch Chuyển để đưa họ tới Idris.”

“Nhưng không ai bị thương chứ?”

“Madeleine,” Magnus nói. “Madeleine bị giết. Tôi xin lỗi, Clary.”

Clary ngồi sụp xuống bậc thềm. Cô không biết nhiều về người phụ nữ đó, nhưng cô Madeleine có chút quan hệ với mẹ - mẹ thực sự, một Thợ Săn Bóng Tối kiên cường trong chiến đấu mà Clary không hề biết đến.

“Clary?” Chú Luke đang bước trên đường nhỏ dẫn qua bóng tối đang dần buông xuống. Chú đang xách va li của Clary. “Sao thế?”

Clary đang ngồi bó gối trong khi Magnus giải thích. Đằng sau nỗi buồn thương của cô cho cái chết của cô Madeleine, cô đang có cảm giác an tâm tội lỗi. Jace vẫn ổn. Nhà Lightwood vẫn ổn. Cô thầm nhắc đi nhắc lại. Jace vẫn ổn.

“Kẻ Lầm Đường,” chú Luke nói. “Chúng bị giết hết chưa?”

“Không hết được.” Magnus lắc đầu. “Sau khi tôi đưa nhà Lightwood đi qua Cổng Dịch Chuyển, lũ Kẻ Lầm Đường đã giải tán; chúng không có hứng thú với tôi. Lúc tôi đóng Cổng Dịch Chuyển, chúng đã cút hết.”

Clary ngẩng đầu. “Cổng Dịch Chuyển đã đóng? Nhưng - ông vẫn thể đưa tôi tới Idris, đúng không?” cô hỏi. “Ý tôi là, tôi có thể đi qua Cổng Dịch Chuyển và tới gặp nhà Lightwood ở đó, đúng không?”

Chú Luke và Magnus nhìn nhau. Chú Luke đặt va li xuống.

“Magnus?" Clary cao giọng hỏi, chính bản thân còn thấy giọng mình chói tai. “Tôi phải đi.”

“Cổng Dịch Chuyển đã đóng rồi, Clary”

“Vậy mở cái khác!”

“Không dễ thế đâu,” pháp sư nói. “Clave canh gác mọi lối vào bằng phép thuật tới Alicante rất cẩn mật. Với họ, thủ đô là nơi linh thiêng - nó giống như Vatican của họ, Tử Cấm Thành của họ. Không một cư dân của Thế giới Ngầm nào được phép đặt chân vào khi chưa được họ cho phép, người thường cũng vậy.”

“Nhưng tôi là Thợ Săn Bóng Tối!”

“Hơi hơi thôi,” Magnus nói. “Hơn nữa, những tòa tháp ngăn cản mọi Dịch Chuyển dẫn thẳng tới thành phố. Nếu tôi mở cổng Dịch Chuyển đi qua Alicante, tôi phải báo trước để họ đón cô ở bên kia. Nếu tôi tự ý gửi cô qua, điều đó vi phạm Luật, và tôi không muốn gặp rắc rối vì cô, bánh quy ạ, dù bản thân tôi thích cô thế nào.”

Clary nhìn từ gương mặt khó xử của Magnus tới gương mặt mệt mỏi của chú Luke. “Nhưng tôi cần tới Idris,” cô nói. “Tôi cần giúp mẹ. Phải có cách tới đó chứ, một cách nào đó không liên quan tới Cổng Dịch Chuyển.”

“Sân bay gần nhất cách đây một đất nước,” chú Luke nói. “Nếu chúng ta có thể vượt biển - khả năng “nếu” đó rất khó - chúng ta sẽ phải di chuyển một đoạn đường dài và nguy hiểm, qua đủ loại lãnh thổ của cư dân Thế Giới Ngầm. Chúng ta sẽ phải mất nhiều ngày.

Mắt Clary nóng lên. Mình sẽ không khóc, cô tự nhủ. Mình sẽ không.

“Clary.” Giọng chú Luke thật nhẹ nhàng. “Chúng ta sẽ liên lạc với nhà Lightwood. Chúng ta sẽ cho họ mọi thông tin cần thiết để họ có thể lấy được thuốc giải cho mẹ Jocelyn của cháu. Họ có thể liên lạc với Fell-”

Nhưng Clary đã đứng dậy, lắc đầu. “Phải là cháu,” cô nói. “Cô Madeleine nói Fell không muốn nói chuyện với ai khác.”

“Fell? Ragnor Fell?” Magnus nhắc lại. “Tôi có thể gửi thư cho ông ta. Cho ông ấy biết người ông ta cần gặp là Jace.”

Chú Luke đã bớt lo lắng đôi chút. “Clary, cháu có nghe thấy không? Với sự giúp đỡ từ Magnus-”

Nhưng Clary không nghe thêm chút nào về sự giúp đỡ từ Magnus. Cô không muốn nghe thêm gì hết. Cô đã tưởng cô sẽ đi cứu mẹ và giờ cô chẳng biết làm gì hơn ngoài ngồi bên giường bệnh, nắm lấy bàn tay thiếu sức sống của mẹ và hy vọng một ai đó, ở một nơi nào đó, có thể làm điều cô không thể làm.

Cô loạng choạng bước xuống, gạt chú Luke sang bên khi chú cố nắm lấy tay cô. “Cháu cần ở một mình một lúc.”

“Clary-” Cô nghe chú Luke đang gọi tên cô, nhưng cô vẫn lao đi về phía bên kia nhà thờ. Cô thấy mình đang đi trên nhánh rẽ tới khu vườn nhỏ ở phía đông Học Viện, về phía bốc mùi than và khói - và một thứ mùi đậm đặc, khó chịu ẩn sau nó. Mùi của ma thuật. Trong vườn vẫn còn sương mù, rải rác đây đó chút ít như những dải mây quấn trên khóm hồng đây đó hay dưới một tảng đá. Cô có thể thấy nơi đấy bị cày lên do trận ẩu đả - và trên đó vẫn còn một vết máu khô sậm bên chiếc ghế đá, vệt máu mà cô không muốn nhìn lâu.

Clary quay đâu đi. Và ngừng lại. Ở đó, trên tường nhà thờ, có những dấu ấn không lẫn đi đâu được của phép thuật của chữ rune, đang ra ánh sáng xanh lá nhạt, nóng trên nền đá xám. Chúng tạo thành hình vuông, giống như một viền sáng quanh một cánh cửa khép hờ-

Cổng Dịch Chuyển.

Cái gì đó bên trong cô dường như đang quặn lại. Cô nhớ tới những ký hiệu khác, tỏa sáng một cách nguy hiểm trên bề mặt kim loại trơn nhẵn của con tàu. Cô nhớ con tàu đã rùng mình như thế nào khi gẫy làm đôi, màn nước đen của dòng East River tràn vào ra sao. Chúng chỉ là những chữ rune, cô nghĩ. Những ký hiệu. Mình có thể vẽ chúng. Nếu mẹ mình nhốt bản thể của Cốc Thánh bên trong một mẩu giấy thì mình có thể tạo ra một Cổng Dịch Chuyển.

Cô cảm nhận đôi chân đang mang cô tới bức tường nhà thờ, bàn tay cô đang nhét vào trong túi để lấy thanh stele. Mừng vì tay không hề run, cô ấn đầu mũi thanh stele lên đá.

Cô nhắm chặt mắt và, bên trong bóng tối sau mí mắt, bắt đầu dùng tâm trí vẽ nên những đường vòng ánh sáng. Những đường nét nói với cô về lối vào, về việc được mang đi trong những cơn gió lốc, về việc di chuyển và tới những nơi xa xôi. Những đường nét hợp thành một chữ rune duyên dáng như một chú chim. Cô không biết liệu đã từng có chữ rune này hay đây là một chữ rune do chính cô sáng tạo ra, nhưng giờ nó tồn tại như luôn luôn tồn tại.

Cổng Dịch Chuyển.

Cô bắt đầu vẽ, những dấu ấn nhảy nhót trên đầu thanh stele thành những đường đen như than đá. Bức tường đá kêu xì xèo, khiến cô chỉ ngửi thấy mùi cay cay của a xít cháy. Ánh sáng xanh lam bỏng rát càng lúc càng sáng rực sau mí mắt nhắm chặt. Cô cảm nhận được hơi nóng phả lên mặt, như thể đang đứng trước một đống lửa. Với một tiếng thở dốc cô hạ tay xuống, mở mắt ra.

Chữ rune cô vẽ trông như một đóa hoa đen nở rộ trên tường đá. Khi cô quan sát, những đường nét của nó dường như đang tan ra và thay hình đổi dạng. Giờ nó trở thành một khung cửa phát sáng, cao hơn Clary khoảng vài foot.

Cô không thể nào rời mắt khỏi khung cửa. Nó tỏa ra ánh sáng sẫm màu hệt như Cổng Dịch Chuyển sau tấm rèm nhà Quý Bà Dorothea. Cô vươn tay tới - rồi rụt lại. Cô buồn bã nhớ ra, để sử dụng được Cổng Dịch Chuyển, cô phải tưởng tượng được nơi muốn tới. Nhưng cô chưa từng tới Idris. Tất nhiên, cô đã từng nghe kể về nó. Một nơi với những thung lũng xanh rì, với cánh rừng già và dòng nước trong vắt, với những con hồ và ngọn núi, và Alicante, thành phố của những ngọn tháp pha lê. Cô có thể tưởng tượng ra nó trông như thế nào, nhưng khi sử dụng loại phép thuật này thì tưởng tượng thôi là chưa đủ. Giá mà-

Cô đột nhiên hít một hơi sâu. Nhưng cô đã thấy Idris. Cô đã thấy nó trong giấc mơ và cô biết, không hiểu vì sao, rằng đó là giấc mơ có thực. Sau cùng, trong giấc mơ Jace đã nói gì với cô về Simon nhỉ? Rằng cậu không thể ở lại vì “nơi đó dành cho người sống”? Và không lâu sau đó, Simon đã chết-

Cô nhớ lại giấc mơ nọ. Cô đã nhảy trong sảnh đường khiêu vũ của Alicante. Những bức tường màu vàng và trắng với mái nhà trong suốt như kim cương. Ở nơi đó có đài phun nước - một chiếc đĩa bạc với tượng nàng tiên cá ở trung tâm - và đèn trang hoàng trên những thân cây ngoài ô cửa sổ, còn Clary mặc chiếc áo nhung xanh, đúng như lúc này.

Như thế cô vẫn còn trong mơ, cô vươn tay về phía Cổng Dịch Chuyển. Một luồng ánh sáng rực rỡ tỏa rộng từ nơi ngón tay cô chạm vào, cánh cửa mở tới một nơi tràn ngập ánh sáng. Cô thấy mình đang nhìn vào xoáy nước vàng đang từ từ, chậm rãi hình thành nên những hình ảnh cô nhận ra được - cô nghĩ mình có thể thấy những ngọn núi, một góc trời mờ xa-

“Clary!” Đó là chú Luke, hớt hải chạy trên con đường mòn, đeo tấm mặt nạ của giận dữ và phật lòng. Đằng sau chú, Magnus đang rảo bước tới, đôi mắt mèo sáng như kim loại dưới ánh sáng nóng của Cổng Dịch Chuyển đang tỏa rộng khắp khu vườn. “Clary, dừng lại! Các kết giới nguy hiểm lắm! Cháu sẽ chết đấy!”

Nhưng chẳng có gì có thể ngăn nổi cô. Đằng sau Cổng Dịch Chuyển, ánh sáng vàng đang càng lúc càng sáng hơn. Cô nghĩ tới những bức tường vàng của Đại Sảnh trong giấc mơ, ánh sáng vàng chiếu tới những tấm gương kính và được phản chiếu đi khắp. Chú Luke nói sai rồi; chú không hiểu năng khiếu của cô, về khả năng của nó - những kết giới đã có là gì khi bạn có thể tạo ra thực tế cho bạn chỉ bằng vài ba nét vẽ? “Cháu phải đi,” cô vừa hét trả lời vừa tiến lên phía trước, những ngón tay duỗi ra. “Chú Luke, cháu xin lỗi-”

Cô tiến tới - và với một cú nhảy cuối cùng, đẹp mắt, chú đã đứng bên cô, nắm lấy cổ tay cô, ngay khi Cổng Dịch Chuyển dường như đang nổ tung xung quanh họ. Giống như một cơn lốc xoáy đủ làm cây bật gốc, lực tác động nhấc bổng họ. Clary thoáng nhìn thấy lần cuối cùng những chiếc xe và những tòa nhà của Manhattan cuộn tròn rồi dần rời xa cô, biến mất trong luồng gió mạnh vùn vụt đang tóm lấy cô, thổi bay cô đi, cổ tay cô vẫn nằm gọn trong cái nắm tay chắc như gọng kìm của chú Luke, chui vào trong vòng hỗn mang của sắc vàng kia.

Simon bị đánh thức vì tiếng nước vỗ từng đợt. Cậu ngồi thẳng dậy, sự hoảng hốt đột ngột đóng băng trong lồng ngực – lần cuối cùng cậu tỉnh dậy vì tiếng sóng, cậu là tù nhân trên con tàu của Valentine và âm thanh rì rào nhẹ nhàng kia đưa cậu trở lại cái khoảnh khắc kinh hoàng khi đó một cách tức thì như bị dội một gáo nước lạnh vậy.

Nhưng không - chỉ cần nhìn nhanh xung quanh cậu đã biết rằng cậu đang ở nơi hoàn toàn khác. Ít nhất, cậu được nằm trong tấm chăn mềm mại trên chiếc giường gỗ rộng rãi tại một căn phòng nhỏ sạch sẽ có những bức tường sơn màu xanh lam nhạt. Những tấm rèm tối màu che ngang ô cửa sổ, nhưng ánh sáng nhàn nhạt chiếu quanh viền là đủ cho đôi mắt ma cà rồng nhìn mọi thứ rõ ràng. Trên sàn đặt tấm thảm sáng màu và bên kia tường là một chiếc tủ chạn gương.

Bên cạnh giường còn có một chiếc ghế tựa. Simon ngồi dậy, chiếc chăn rơi xuống và cậu nhận ra hai điều: thứ nhất, cậu vẫn mặc chiếc quần bò và áo phông như khi tới Học Viện gặp Jace; thứ hai, cái người ngồi trên ghế tựa đang ngủ gà ngủ gật, tay chống đầu ngủ, mái tóc dài đen đổ xuống như chiếc khăn choàng đính diềm.

“Isabelle,” Simon gọi.

Đầu cô nàng ngẩng phắt lên như chiếc hộp hề-lò-xo dọa trẻ con, đôi mắt choàng tỉnh. “Ối! Cậu dậy rồi!” Cô nàng ngồi thẳng dậy, vuốt tóc lên. “Jace sẽ mừng lắm đây. Bọn mình cứ tưởng cậu sắp chết.”

“Chết?” Simon nhắc lại. Cậu cảm thấy chóng mặt và có chút buồn nôn. “Vì gì?” Cậu chớp mắt nhìn quanh phòng. “Mình trong Học Viện à?” cậu hỏi, và nhận ra ngay khi vừa thốt lên lời, rằng đó là điều không thể. “Ý mình là - chúng ta ở đâu thế?”

Vẻ khó chịu thoáng hiện trên gương mặt Isabelle. “Ơ - vậy là cậu không nhớ ra chuyện xảy ra tại khu vườn?” Cô nàng lo lắng kéo phần diềm móc quanh đệm ghế. “Những Kẻ Lầm Đường tấn công bọn mình. Có rất nhiều, và khói địa ngục khiến cho bọn mình khó lòng chống trả. Magnus mở Cổng Dịch Chuyển, và bọn mình đang lao vào đó thì mình thấy cậu tiến tới. Cậu vấp- vấp phải cô Madeleine. Và ngay sau cậu có một Kẻ Lầm Đường khác; chắc chắn cậu không nhìn thấy hắn nhưng Jace thì có. Anh ấy cố lôi cậu đi, nhưng đã quá muộn. Con dao của Kẻ Lầm Đường đã đâm trúng cậu. Cậu chảy máu - rất nhiều. Thế rồi Jace giết chết Kẻ Lầm Đường và tóm cậu lôi qua Cổng Dịch Chuyển cùng anh ấy,” Isabelle kể xong, nói liến thoắng tới mức các từ cứ dính vào nhau và Simon phải căng tai mà nghe. “Và bọn mình đã ở bên kia, và để mình nói cho cậu nghe, mọi người rất ngạc nhiên khi Jace đi qua cùng với cậu toàn thân đẫm máu. Quan Tổng Tài không hề hài lòng chút nào.”

Miệng Simon khô khốc. “Một Kẻ Lầm Đường đã đâm mình?” Không thể. Nhưng rồi, cậu đã từng lành lặn như cũ, sau khi Valentine cắt cổ cậu. Nhưng, ít ra cậu phải nhớ chứ. Lắc đầu, cậu cúi xuống nhìn khắp người. “Ở đâu?”

“Để mình chỉ cho cậu.” Cậu cực kỳ bật ngờ khi một lát sau Isabelle đã ngồi lên giường bên cạnh cậu, bàn tay mát lạnh của Isabelle đặt lên phần cơ hoành. Cô kéo áo cậu lên, để lộ ra phần ổ bụng trắng xanh, bị chia đôi bởi một đường đỏ mảnh. Nó không đáng là một vết sẹo. “Đây,” cô nói, ngón tay lướt nhẹ trên đó. “Cậu không đau sao?”

“K-không.” Lần đầu tiên Simon nhìn thấy Isabelle, cậu thấy cô quá lộng lẫy, quá rực rỡ, tràn đầy nhựa sống, sinh khí cùng năng lượng, và cậu những tưởng cuối cùng đã tìm được một cô gái có ánh sáng có thể xua đi hình ảnh Claiy luôn luôn in sâu trong trí óc cậu. Ngay đúng lúc cô để cậu biến thành chuột trong bữa tiệc của Magnus Bane thì cậu nhận ra ánh sáng nơi Isabelle quá chói lọi đối với một gã con trai bình thường như cậu. “Không hề đau chút nào.”

“Bụng cậu không đau nhưng mắt tôi thì đang nhức đây này,” một giọng lạnh tanh vui vẻ phát ra ở ngưỡng cửa. Jace. Anh bước tới êm ru khiến ngay cả Simon cũng chẳng nghe thấy; đóng cửa lại sau lưng, anh ta cười trong khi Isabelle kéo áo Simon xuống. “Gạ gẫm một gã trai ma cà rồng trong khi hắn ta còn yếu không thể chống trả được hả, Iz?” anh hỏi. “Anh chắc chắn điều đó phải vi phạm ít nhất một điều luật trong Hiệp Định.”

“Em chỉ cho cậu ấy chỗ bị đâm thôi,” Isabelle cự nự, nhưng cô nàng đã lật đật trở lại ghế. “Chuyện gì đang xảy ra dưới lầu thế?” cô hỏi. “Mọi người vẫn hoảng à?”

Nụ cười rời khỏi khuôn mặt Jace. “Mẹ Maryse sẽ tới Gard cùng chú Patrick,” anh nói. “Clave đang họp và Malachi nghĩ sẽ tốt hơn nếu mẹ...tự mình...giải thích.”

Malachi. Patrick. Gard. Những cái tên xa lạ quay mòng mòng trong đầu óc Simon. “Giải thích cái gì?”

“Giải thích về cậu,” Jace đáp cụt lủn. “Giải thích vì sao chúng tôi mang một ma cà rồng tới Alicante, à mà, điều đó hoàn toàn vi phạm Luật.”

“Tới Alicante? Chúng ta đang ở Alicante?” Một đợt sóng hoảng hốt thực sự tràn qua Simon, nhưng nhanh chóng bị thay thế bởi cảm giác đau đớn chạy dọc thân người. Cậu cúi gập người, thở dốc.

“Simon!” Isabelle vươn tay, trong đôi mắt đen lộ rõ sự hoảng hốt. “Cậu ổn không?”

“Đi đi, Isabelle.” Simon, tay nắm thành quyền ấn chặt lên bụng, ngước nhìn Jace, giọng nài nỉ. “Bảo Izzy đi đi.”

Isabelle chùn người lại, nét mặt hiện rõ sự tổn thương. “Được rồi. Tôi đi. Cậu không phải nhắc hai lần.” Cô đứng phắt dậy và rời khỏi phòng, đóng sầm cửa lại. Jace quay sang nhìn Simon, đôi mắt màu hổ phách không biểu lộ cảm xúc. “Chuyện gì thế? Tôi nghĩ cậu đã lành rồi chứ.”

Simon giơ tay lên vẫy cậu con trai kia đi. Vị tanh tanh cháy bỏng trong cổ họng cậu. “Không phải do Isabelle,” cậu rên rỉ. “Tôi không bị thương… chỉ là tôi…đói thôi.” Cậu cảm thấy má đang nóng dần. “Tôi mất máu, vì thế... tôi cần bù máu.”

“Tất nhiên,” Jace nói, bằng cái giọng của một người vui vẻ trước một sự việc thú vị, nếu không muốn nói là trước một hiện tượng khoa học. Chút lo lắng đã rời bỏ gương mặt anh, được thay thế bằng cái gì đó với Simon giống như sự khinh miệt vui thích. Simon nhận thấy cảm giác bực bội đang cuộn trào trong dạ dày, và nếu cậu không đang bị suy nhược, cậu sẽ nhảy khỏi giường và lao ngay vào cậu con trai kia. Nhưng, như thường lệ, điều cậu có thể làm chỉ là thở dốc. “Quỷ tha ma bắt anh đi, Wayland.”

“Wayland, đúng không?” Cái vẻ hứng thú chưa từng rời khỏi gương mặt Jace, nhưng đôi tay anh đã lần tới cổ và bắt đầu kéo khóa áo.

“Không!” Simon lùi lại giường. “Tôi không quan tâm tôi đói thế nào. Tôi không...uống máu anh...lần nữa.”

Miệng Jace giần giật. “Làm như tôi cho phép ấy.” Anh ta cho tay vào trong túi áo khoác và lôi ra cái chai thủy tinh. “Tôi nghĩ cậu sẽ cần cái này,” anh nói. “Tôi vắt máu từ vài ba pound thịt tươi trong bếp. Đó là điều tốt nhất tôi có thể làm.”

Simon cầm lấy cái chai bằng đôi tay đang run dữ dội khiến cậu con trai kia phải mở nắp hộ anh. Chất lỏng bên trong bốc mùi quá nồng - quá ít vị máu và quá nhiều muối không đúng như khẩu vị của cậu, và qua cái mùi khó chịu ấy Simon biết miếng thịt đó đã để trong bếp vài ba ngày rồi.

“Eo,” cậu nói sau khi nhấp vài ngụm. “Máu chết.”

Lông mày Jace nhướn lên. “Không phải lúc nào cũng là máu chết sao?”

“Máu động vật để càng lâu vị sẽ càng tệ,” Simon giải thích. “Máu tươi vẫn tốt hơn.”

“Nhưng cậu chưa từng uống máu tươi. Đúng không?”

Simon nhướn mày đáp lại.

“À, tất nhiên là trừ máu tôi,” Jace nói. “Và tôi tin máu tôi tuyệt cú mèo.”

Simon đặt cái chai không lên tay ghế bên giường. “Hình như anh bị chập mạch ở đâu đó thì phải,” cậu nói. “Tôi đang nói về khoản đầu óc.” Miệng cậu vẫn còn nếm được vị máu hỏng, nhưng cảm giác đau đớn đã qua đi. Cậu cảm thấy tốt hơn, khỏe hơn, như thể máu là liều thuốc tiên chữa bệnh tức thì, một liều thuốc mà cậu phải uống để sống. Cậu tự hỏi liệu nó có giống với nghiện heroin không. “Vậy là tôi ở Idris.”

“Chính xác hơn là ở Alicante,” Jace nói. “Thủ đô. Thành phố duy nhất, thực sự đấy.” Anh bước tới cửa sổ và kéo rèm. “Nhà Penhallow không tin chúng tôi,” anh nói. “rằng mặt trời không gây ánh hưởng gì tới cậu. Họ treo những tấm rèm chắn sáng này lên. Nhưng cậu nên nhìn này.”

Đứng dậy khỏi giường, Simon tới đứng cạnh Jace bên khung cửa sổ.

Một vài năm trước mẹ cậu đã đưa cậu và chị gái đi du lịch tời Tuscany[3] - một tuần với những đĩa pasta ú ụ mang hương vị là lạ, những ổ bánh mì nhạt thếch, một miền quê đất nâu và mẹ cậu đã đi trên những con đường hẹp ngoằn ngoèo, cố gắng hết mức để tránh cho chiếc xe Fiat của họ không đâm vào những dãy nhà cổ kính xinh đẹp mà họ tới thăm quan. Cậu nhớ đã dừng trên sườn đồi ở phía bên kia San Gimignano, một thị trấn với những ngôi nhà màu đồng đỏ và những ngọn tháp kiêu hãnh vươn thẳng lên bầu trời. Nếu quang cảnh cậu đang nhìn ngắm gợi cho cậu lại điều gì, thì chính là về nơi đó; nó quen mắt thật đấy, nhưng lại là một quang cảnh xa lạ cậu chưa từng chiêm ngưỡng trong đời.

[3] Tuscany là một vùng của Italia, với thủ phủ là Florence

Cậu đang nhìn qua ô cửa sổ tầng trên của một ngôi nhà hẳn là cao lắm. Nếu cậu ngước nhìn lên, cậu có thể thấy mái hiên đá nhô ra và khoảnh bầu trời trên đó. Đối diện là một căn nhà khác, không cao bằng, và giữa chúng là một con kênh hẹp, nước đen vì trời tối, ba cây cầu bắc qua ở đôi chỗ - tiếng nước cậu nghe thấy lúc trước hóa ra bắt nguồn từ đây. Căn nhà có vẻ được xây ở lưng chừng đồi - bên dưới nó là những căn nhà đá màu mật ong, nằm rải rác dọc những con đường nhỏ, dừng lại tại rìa một vòng tròn màu xanh lá - một khu rừng, được bao quanh bởi những ngọn đồi rất xa; từ đây trông chúng giống như những dải lụa xanh và nâu điểm xuyết đôi ba nét chấm phá màu vàng của mùa thu. Đằng sau những ngọn đồi là những dãy núi tuyết phủ nhấp nhô cao thấp.

Những cảnh tượng đó chẳng có gì kỳ lạ; điều lạ là đây đó ngay trong thành phố, như thể được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, là những ngọn tháp, có chóp cấu tạo bằng một thứ nguyên liệu trắng bạc phản chiếu ánh nắng lấp lánh, vươn thẳng lên trời. Chúng giống như những lưỡi dao găm sáng loáng rạch toang bầu trời và Simon nhận ra cậu đã nhìn thấy loại nguyên liệu này ở đâu: trong những món vũ khí cứng giống pha lê mà các Thợ Săn Bóng Tối thường mang bên mình, thứ họ gọi là con dao thiên thần.

“Đó là những ngọn tháp quỷ,” Jace nói, trả lời cho câu hỏi chưa thành tiếng của Simon. “Chúng kiểm soát các kết giới bảo vệ thành phố. Nhờ có chúng mà không một con quỷ nào lọt vào Alicante được.”

Qua ô cửa sổ, những luồng không khí mát lạnh và trong lành, một loại không khí cậu không bao giờ được hít thở ở New York tràn vào: nó chẳng có mùi vị, không lẫn chút bụi bẩn, khói thải, kim loại hay mùi người. Chỉ không khí mà thôi. Simon hít sâu một hơi không cần thiết trước khi quay sang Jace; có một vài thói quen thuộc về kiếp người thật khó lòng bỏ trong ngày một ngày hai. “Hãy nói với tôi,” cậu nói, “rằng không phải ngẫu nhiên mà anh lôi tôi tới đây. Nói với tôi rằng việc này không liên quan tới việc anh muốn ngăn Clary tới đây cùng anh.”

Jace không nhìn nhưng ngực phập phồng lên xuống một lần, rất nhanh, như khi người ta thở dài chán nản. “Đúng,” anh nói. “Tôi tạo ra một đống chiến binh Lầm Đường, cho chúng tấn công Học Viện và giết chết cô Madeleine và và suýt lấy mạng toàn bộ chúng tôi, chỉ để giữ Clary ở nhà đấy. Và lạ chưa kìa, kế hoạch độc ác của tôi của tôi đang thành công.”

“Ừm, nó đang thành công,” Simon nhỏ nhẹ nói. “Đúng không?”

“Nghe này, ma cà rồng,” Jace nói. “Giữ Clary tránh xa Idris là kế hoạch. Mang cậu tới đây thì không. Tôi mang cậu qua Cổng Dịch Chuyển chỉ vì nếu tôi bỏ cậu lại trong tình trạng máu chảy đầm đìa và bất tỉnh nhân sự, những Kẻ Lầm Đường sẽ giết cậu.”

“Anh có thể ở lại cùng tôi…”

“Chúng sẽ giết cả hai chúng ta. Tôi không biết ở đó có bao nhiêu kẻ nữa, khi sương mù địa ngục vẫn còn đó. Ngay đến tôi cũng chẳng thể đẩy lùi một trăm Kẻ Lầm Đường.”

“Tuy nhiên,” Simon nói, “tôi cá rằng việc thú nhận điều đó khiến anh đau lòng.”

“Cậu là đồ vô ơn,” Jace nói mà không thay đổi giọng điệu, “thậm chí khi so sánh ở mức độ cư dân Thế Giới Ngầm. Tôi cứu mạng cậu và phá luật để làm điều đó. Tôi phải nói thêm, đây không phải lần đầu tiên. Cậu ít ra phải tỏ chút biết ơn chứ.”

“Biết ơn?” Simon cảm nhận những ngón tay đang bấm vào lòng bàn tay. “Nếu anh không lôi tôi tới Học Viện, tôi cũng không thể ở đây. Tôi chưa bao giờ đồng ý với chuyện này.”

“Ồ có chứ,” Jace nói, “khi cậu nói sẽ làm bất cứ điều gì vì Clary. Đây là bất cứ điều gì đấy.”

Trước khi Simon kịp há miệng đáp trả một câu sâu cay nào đó, ngoài cửa vang lên tiếng cốc cốc. “Xin chào?” Isabelle nói vọng từ bên kia cửa. “Simon, giây phút thăng hoa của cậu qua chưa? Mình cần nói chuyện với Jace.”

“Vào đi, Izzy.” Jace không rời mắt khỏi Simon; trong ánh mắt anh ta có tia giận dữ, và một kiểu thách thức khiến Simon chỉ muốn dùng một thứ thật nặng quăng vào anh ta. Như chiếc xe bán tải chẳng hạn.

Isabelle bước vào phòng với suối tóc đen óng ả và chiếc váy tầng màu bạc. Chiếc áo hai dây màu ngà voi để lộ tay và bả vai, khoe ra những chữ rune bằng mực đen. Simon nghĩ cô nàng thích được khoe những Ấn Ký ở nơi mà không ai nghĩ chúng có gì là kỳ dị.

“Alec đang đi tới Gard,” Vừa vào tới nơi Isabelle liền nói. “Alec muốn nói với anh về Simon trước khi đi. Anh xuống nhà được không?”

“Được thôi.” Jace đi tới cửa; được nửa đường, nhận ra Simon đang đi theo, Jace liền lườm. “Cậu ở lại đây.”

“Không,” Simon nói. “Nếu anh muốn bàn luận về tôi, tôi muốn được mà nghe.” Trong khoảnh khắc, có vẻ cái mặt nạ bình thản khó ưa của Jace sắp nứt; mặt anh ta đỏ lựng và anh ta mở miệng, ánh mắt tóe lửa. Nhưng ngay lập tức, cơn giận biến mất, rõ ràng là nhờ ý chí. Anh ta nghiến răng và mỉm cười. “Được,” anh ta nói. “Đi xuống nhà đi, ma cà rồng. Cậu có thể gặp toàn bộ gia đình vui vẻ.”