2. Những ngọn tháp quỷ của Alicante (tt)
Lần đầu Clary đi qua Cổng Dịch Chuyển, cô thấy mình như bay và mất trọng lượng. Nhưng lần này thì như bị ném vào giữa một cơn lốc xoáy vậy. Gió gào thét xung quanh cô, giằng cô khỏi tay chú Luke và cướp đi tiếng hét vừa rời miệng cô. Cô cảm thấy quay cuồng chui qua tâm của xoáy màu vàng và đen.
Thứ gì đó phẳng, cứng và có màu bạc như mặt gương càng lúc càng gần. Cô lao về phía nó, miệng thét vang còn tay giơ lên che mặt. Cô chạm vào mặt phẳng rồi lao xiên qua, chui vào thế giới của cái lạnh căm căm và nghẹt thở. Cô đang chìm vào trong bóng tối màu xanh đen mịt mùng, cố hít thở, nhưng không thể đưa nổi dù chỉ là một chút dưỡng khí vào phổi, chỉ có cái lạnh băng giá mà thôi-
Đột nhiên cô bị kéo lưng áo lôi ngược lên. Cô điên cuồng quẫy đạp nhưng quá yếu không thể chống cự nổi. Nó đẩy cô lên và bóng tối màu chàm xung quanh cô chuyển dần sang xanh lam nhạt rồi vàng khi cô chui khỏi mặt nước - nó là nước - và hít lấy hít để. Hoặc cố. Thay vào đó, cô nghẹt nước và khạc nhổ, những chấm đen nhảy múa trước mắt. Cô đang bị lôi đi trong dòng nước, rất nhanh, rêu cuốn và kéo cổ tay cổ chân cô - cô vặn người trong vòng tay đang giữ cô và thoáng liếc thấy một thứ gì đó ghê sợ, không phải sói cũng chẳng phải người, tai nhọn như mũi dao còn môi vén lên để lộ hàm răng sắc nhọn trắng ởn. Cô cố hét, nhưng chỉ có nước tràn vào.
Một lúc sau, cô rời khỏi mặt nước và bị ném lên nền đất cứng ẩm ướt. Có bàn tay đặt lên vai cô, ấn rịt mặt cô xuống đất. Bàn tay đó vuốt lên lưng cô, hết lần này tới lần khác, tới khi ngực cô đau thắt và cô ho ra được chút nước.
Cô vẫn còn đang khạc nhổ khi bàn tay đó lại lật cô nằm ngửa. Cô đang nhìn chú Luke, chỉ là một bóng đen tương phản với bầu trời xanh cao điểm mây trắng. Nét thanh lịch cô thường thấy trên gương mặt chú đã biến mất; chú không còn giống sói nữa, nhưng chú đang giận. Chú kéo cô vào tư thế ngồi, lắc cô thật mạnh, hết lần này tới lần khác, tới khi cô thở hổn hển và yếu ớt đẩy chú. “Chú Luke! Dừng lại! Chú đang làm đau cháu...”
Tay chú buông vai cô. Thay vào đó, một tay chú nắm chặt lấy cằm cô, buộc cô phải ngẩng đầu, đôi mắt chú quan sát nét mặt cô. “Nước,” chú nói. “Cháu ho hết nước ra chưa?”
“Cháu nghĩ hết rồi,” cô thều thào. Giọng cô yếu ớt vang ra khỏi cổ họng sưng đau.
“Thanh stele của cháu đâu?” chú hỏi, và khi cô chần chừ, giọng chú nghiêm khắc hơn. “Clary. Thanh stele của cháu. Tìm đi.”
Cô rời khỏi vòng tay chú và sờ lần túi áo ướt, trái tím chùng xuống khi những ngón tay chẳng cầm được gì ngoài thứ gì đó ươn ướt. Cô ngước gương mặt thê thảm lên nhìn chú Luke. “Cháu nghĩ cháu làm rơi nó xuống hồ rồi.” Cô sụt sịt. “Thanh...thanh stele của mẹ cháu...”
“Jesus, Clary.” Chú Luke đứng dậy, vô thức siết tay sau đầu. Chú cũng ướt như chuột lột, nước rỏ xuống thành dòng từ chiếc quần bò và áo khoác vải flannel dày sụ. Cặp kính chú thường đeo trễ xuống sống mũi đã biến đâu mất. Chú ủ rũ nhìn cô. “Cháu ổn rồi,” chú nói. Đó không phải một câu hỏi. “Ý chú là, bây giờ thì ổn. Cháu thấy khỏe không?”
Cô gật đầu. “Chú Luke, sao thế? Vì sao chúng ta lại cần thanh stele của cháu?”
Chú Luke chẳng nói chẳng rằng. Chú đang nhìn quanh như mong lượm lặt được vài tin tức từ khu vực xung quanh. Clary nhìn theo. Họ đang đứng bên bờ cái hồ kha khá lớn và khá rộng. Nước hồ màu xanh lam nhạt, lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Cô tự hỏi liệu đây có phải nguồn ánh sáng vàng cô nhìn thấy qua Cổng Dịch Chuyển không. Giờ khi đang ở bên thay vì ở trong hồ, cô chẳng thấy cái hồ này có nguy hiểm nào. Nó được bao quanh bởi những ngọn đồi xanh rì điểm xuyết những hàng cây đang bắt đầu chuyển sang màu đỏ nhạt và vàng. Xa xa sau những ngọn đồi là những ngọn núi cao ngất, đỉnh núi phủ kín trong băng tuyết.
Clary rùng mình. “Chú Luke, khi chúng ta ở dưới nước - chú có hóa thành sói không? Cháu nghĩ cháu thấy-“
“Phần sói của chú bơi tốt hơn phần người,” Chú Luke đáp cụt ngủn. “Và khỏe hơn. Chú phải lôi cháu trong nước, và cháu không hợp tác nhiều.”
“Cháu biết,” cô nói. “Cháu xin lỗi. Chú không- chú không cần đi cùng cháu.”
“Nếu chú không đi, giờ cháu đã chết rồi,” chú thẳng thừng nói. “Magnus đã nói với cháu, Clary. Cháu không thể sử dụng Cổng Dịch Chuyển để tiến vào Thành Phố Pha Lê trừ khi có người đợi cháu ở bên kia cổng.”
“Magnus chỉ nói điều đó vi phạm Luật. Ông ta đâu có nói nếu cháu cố tới đó cháu sẽ bị nảy ra.”
“Anh ta đã nói với cháu là xung quanh Alicante có chăng kết giới để phòng có người Dịch Chuyển tới. Không phải lỗi của anh ta khi cháu quyết định nghịch thứ phép thuật mà cháu hầu như chẳng có tẹo teo kiến thức nào. Cháu có sức mạnh không có nghĩa là cháu biết cách sử dụng nó.” Chú nhăn mặt.
“Cháu xin lỗi,” Clary lí nhí đáp. “Chỉ là - mà chúng ta ở đâu đây?”
“Hồ Lyn,”' chú Luke trả lời. “Chú nghĩ Cổng Dịch Chuyển đã đưa chúng ta tới gần thành phố nhất mức nó có thể rồi thả chúng ta xuống. Chúng ta đang ở ngoại vi Alicante.” Chú nhìn quanh, lắc đầu nửa vì hứng khởi nửa vì mệt mỏi. “Cháu đã làm được, Clary. Chúng ta đã ở Idris.”
“Idris?” Clary nói và đứng đực mặt phóng tầm mắt sang bên kia hồ. Mặt hồ đang nháy mắt với cô bằng ánh mắt màu xanh da trời không hề gợn sóng. “Nhưng- chú nói chúng ta ở ngoại ô Alicante. Cháu không thấy thành phố đâu.”
“Chúng ta cách đó hàng dặm.” Chú Luke bảo. “Cháu có thấy mấy ngọn đồi đằng xa không? Chúng ta phải leo qua đó; thành phố ở bên kia đồi. Nếu chúng ta có xe, chúng ta có thể đến đó trong một tiếng, nhưng vì chúng ta phải đi bộ nên có thể chúng ta sẽ mất cả buổi chiều.” Chú nheo mắt nhìn bầu trời. “Chúng ta nên đi thôi.”
Clary thất vọng cúi nhìn mình. Viễn cảnh đi bộ rạc cả cẳng trong tình trạng quần áo ướt rượt chẳng ngon lành gì cho cam. “Không có cách nào khác-”
“Cách khác cho chúng ta hả?” chú Luke nói, và có sự bực bội vang lên trong giọng chú. “Cháu có ý kiến gì không Clary, vì cháu là người đưa chúng ta tới đây?” chú chỉ ra phía hồ. “Đường kia dẫn về phía những ngọn núi. Chỉ đi được vào những ngày hè oi nóng. Giờ mà đi, chúng ta chỉ tổ đóng băng đến chết trên đỉnh.” Chú quay người, chỉ ngón tay sang hướng khác. “Hướng kia dẫn hàng dặm vào trong rừng. Rừng già kéo dài tới tận biên giới. Trong rừng không hề có dân cư, ít nhất là không có con người. Vượt qua Alicante có các trang trại và nhà của người dân thôn quê. Có thể chúng ta có thể rời khỏi Idris, nhưng chúng ta vẫn phải vượt qua thành phố. Một thành phố, chú phải nói thêm, nơi những cư dân Thế Giới Ngầm không được chào đón gì cho cam.”
Clary há hốc miệng nhìn chú. “Chú Luke, cháu không biết-”
“Tất nhiên là cháu không biết. Cháu không biết tí gì về Idris. Cháu còn chẳng quan tâm tới Idris. Cháu chỉ buồn vì bị bỏ lại, giống một đứa nhỏ và cháu giận dỗi. Và giờ chúng ta ở đây. Lạc đường, lạnh cóng và-” Chú ngừng nói, mặt cau lại. “Đi thôi. Chúng ta bắt đầu đi.”
Clary đi theo chú Luke dọc theo bờ hồ Lyn trong im lặng thảm hại. Khi họ đi, mặt trời hong khô làn da và mái tóc cô, nhưng chiếc áo khoác nhung ngấm nước như miếng bọt biển. Nó treo trên người cô như một tấm rèm bằng chì nặng chình chịch trong khi cô dò dẫm qua những tảng đá và bùn, vội vã cố theo kịp những sải chân dài của chú Luke. Cô đã thử nói chuyện vài lần, nhưng chú Luke vẫn cương quyết giữ im lặng. Cô chưa từng làm điều gì quá tệ hại tới mức một lời xin lỗi không làm nguôi ngoai cơn giận của chú. Lần này có vẻ, chuyện hoàn toàn khác.
Những đỉnh đồi càng lúc càng cao hơn khi họ tiến lại gần, điểm xuyết những điểm tối màu như những vệt sơn màu đen. Khi Clary nhìn gần hơn, cô nhận ra chúng là những hang đá. Vài cái có vẻ khá sâu, ngoằn ngoèo dẫn vào trong bóng tối. Cô tưởng tượng ra dơi và những sinh vật có móng vuốt xấu xí đang trú ẩn trong màn đen mà rùng cả mình.
Cuối cùng, con đường mòn dắt ngang qua đỉnh đồi dẫn họ tới một con đường rải sỏi khá rộng. Hồ bị bỏ lại sau lưng họ, nhuộm màu chàm dưới ánh chiều chạng vạng. Con đường dẫn ngang qua đồng cỏ xanh rì kéo dài qua những ngọn đồi nhấp nhô đằng xa. Trái tim Clary chùng xuống; thành phố vẫn chẳng thấy đâu.
Chú Luke đang nhìn về phía những ngọn đồi với vẻ thất vọng rõ rệt “Chúng ta ở xa hơn chú tưởng. Đã quá lâu rồi-”
“Có thể nếu chúng ta tìm thấy một con đường lớn hơn,” Clary gợi ý, “chúng ta có thể vẫy xe, hoặc bắt xe vào thành phổ hay-“
“Clary. Ở Idris không có ô tô.” Nhìn thấy vẻ ngơ ngác của cô, chú Luke cười mà chẳng vui vẻ gì cho cam. “Những kết giới làm hỏng các cỗ máy cơ khí. Hầu hết các đồ công nghệ- điện thoại, máy tính, những gì đại loại thế - đều vô dụng ở đây. Alicante được thắp sáng - và cấp điện - chủ yếu nhờ đèn phù thủy.”
“Ồ,” Claiy nói lí nhí, “Vậy- giờ chúng ta còn cách thành phố bao xa?”
“Đủ xa.” Không nhìn cô, chú Luke vuốt cả hai tay lên mái tóc cắt ngắn. “Có điều này chú cần nói với cháu.”
Clary căng thẳng. Tất cả những gì Clary muốn lúc trước là chú Luke nói chuyện với cô; còn giờ cô chẳng muốn nữa. “Được mà chú-”
“Cháu có để ý,” chú Luke nói, “rằng không hề có thuyền bè trên hồ Lyn - không có bến thuyền - không một dấu hiệu nào cho thấy người dân Idris có lưu thông trên hồ?”
“Cháu cứ tưởng vì nơi đó xa khu dân cư.”
“Không phải. Nó chỉ cách Alicante vài giờ đi bộ- Thật ra là, cái hồ đó-“ chú Luke ngừng nói và thở dài. “Cháu có bao giờ để ý tới hình ảnh trên sàn thư viện của Học Viện New York?”
Clary chớp mắt. “Cháu có, nhưng cháu không biết đó là cái gì.”
“Đó là hình thiên thần trồi lên từ lòng hồ, cầm trên tay chiếc cốc và thanh kiếm. Đó là mô típ quen thuộc trong trang trí của Nephilim. Truyền thuyết kể rằng Thiên Thần Raziel đã nổi lên từ hồ Lyn khi lần đầu tiên xuất hiện trước Jonathan Thợ Săn Bóng Tối, Nephilim đầu tiên, và trao cho ông ta những Bảo Bối Thiên Thần. Kể từ đó, cái hồ đó-”
“Là thánh địa?” Clary nhắc bài.
“Bị nguyền rủa,” chú Luke nói. “Không hiểu sao nước hồ lại là thuốc độc với Thợ Săn Bóng Tối. Nó không gây tổn thương cho cư dân Thế Giới Ngầm - Tiên Tộc gọi hồ Lyn là Mộng Kính và họ uống nước hồ vì cho rằng, nó cho họ thấy sự thực. Nhưng nếu một Thợ Săn Bóng Tối uống nước hồ thì sẽ rất nguy hại. Nó gây ra ảo giác, sốt cao- nó có thể làm cho người ta phát điên.”
Clary thấy lạnh toàn thân. “Đó là lý do chú bắt cháu khạc hết nước ra.”
Chú Luke gật đầu. “Và đó là lý do chú muốn cháu tìm thanh stele. Với chữ rune trị thương, chúng ta có thể đẩy lùi ánh hưởng của nước hồ. Không có nó, chúng ta phải đưa cháu tới Alicante nhanh nhất có thể. Ở đó có thuốc thang, thảo dược có thể giúp cháu, và chú biết người chắc chắn có chúng.”
“Nhà Lightwood?”
“Không phải nhà Lightwood.” Giọng chú Luke rất cương quyết. “Người khác. Một người chú biết.”
“Ai?”
Chú lắc đầu. “Chúng ta hãy cầu nguyện người đó chưa rời đi trong mười lăm năm qua.”
“Nhưng cháu tưởng Luật cấm những người thuộc Thế Giới Ngầm tới Alicante khi chưa được cho phép.”
Nụ cười trả lời của chú là chút gì đó nhắc cho cô nhớ đến một chú Luke đã đỡ cô khi cô của thuở nhỏ ngã khỏi khung leo trèo trong công viên, một chú Luke luôn che chở cho cô. “Một vài Luật là để cho người ta vi phạm.”
Ngôi nhà của gia đình Penhallow nhắc Simon nhớ tới Học Viện - cả hai đều cho cậu cái cảm giác kiến trúc và đồ nội thất thuộc về một thời đại khác. Hành lang và cầu thang hẹp, làm từ đá và gỗ tối màu, còn những ô cửa cổ thì cao thon, nhìn ra khung cảnh thành phố. Ngôi nhà được trang trí đậm dấu ấn Á châu: tấm bình phong giấy của Nhật đặt ở tầng một, những bình sứ Trung Hoa nằm trên bậu cửa sổ. Trên tường treo khá nhiều tranh lụa vẽ những cảnh hẳn thuộc về truyền thuyết của Thợ Săn Bóng Tối, nhưng theo phong cách phương Đông - những vị thủ lĩnh vung cao con dao thiên thần sáng loáng được vẽ một cách ước lệ bên cạnh những sinh vật giống rồng và những con quỷ mắt lồi đồng tử dọc.
“Cô Penhallow - cô Jia - đã từng điều hành Học Viện Bắc Kinh. Cô ấy cứ chạy đi chạy lên giữa nơi đây và Tử Cấm Thành,” Isabelle giải thích khi Simon dừng lại ngắm nghía một bức hình. “Và nhà Penhallow là gia đình dòng dõi lâu đời. Rất giàu.”
“Nhìn là biết,” Simon lầm bầm và ngước nhìn những trúc đài treo buông rủ những viên pha lê trong suốt như những giọt lệ.
Jace, đi sau một bước, cằn nhằn. “Đi nhanh lên. Chúng ta không dẫn tua tham quan lịch sử ở đây.”
Simon bỏ qua câu móc máy khó chịu đó và quyết không để bụng. Cậu rảo bước đi hết cầu thang; chân cầu thang dẫn vào một căn phòng lớn. Nó là một sự kết hợp kỳ lạ giữa những thứ mới lạ và những thứ cổ kính: một khung cửa sổ kính trang trí hướng về phía dòng kênh, và một bản nhạc đang phát ra từ chiếc máy sterio đặt ở góc khuất nào đó. Nhưng ở đây không có TV, không có các chồng DVD hay CD, và chẳng hề có bất cứ món đồ thường thấy ở phòng khách nào hết. Thay vào đó là những chiếc ghế tựa đệm lưng xếp quanh lò sưởi lớn đang cháy lách tách.
Alec đứng bên lò sưởi, khoác trên mình bộ đồ đi săn của Thợ Săn Bóng Tối, tay đeo găng da. Anh ta ngước nhìn khi Simon bước vào phòng và nhăn nhó thường lệ, nhưng không nói gì.
Ngồi trên đi-văng là hai thiếu niên Simon chưa từng gặp, một nam và một nữ. Cô gái trông như có mang một chút dòng máu châu Á, với mái tóc đen mượt mà được kéo gọn ra sau, nét mặt tinh nghịch đáng yêu. Cái cằm xinh xắn của cô nàng nhỏ như cằm mèo. Cô ta không hẳn là xinh đẹp, nhưng lại khiến người ta yêu thích không thể rời mắt.
Cậu trai tóc đen ngồi bên cạnh còn cuốn hút hơn. Chiều cao của cậu ta chỉ tương đương với Jace nhưng lại có vẻ cao hơn hẳn, kể cả khi ngồi; cậu ta có dáng người thanh mảnh nhưng rắn chắc, với khuôn mặt trắng xanh, thanh lịch và bồn chồn, thể hiện rõ trên đôi gò má và đôi mắt đen. Có gì đó quen thuộc tới kỳ lạ về cậu con trai này, như thể Simon đã từng gặp rồi vậy.
Cô gái lạ lên tiếng trước. “Đây là ma cà rồng đó à?” Cô ta nhìn Simon từ trên xuống dưới như đang đánh giá. “Tôi chưa từng nhìn một ma cà rồng gần tới mức này- không xét những ma cà rồng em muốn giết.” Cô gái nghiêng đầu. “So với một cư dân của Thế Giới Ngầm, trông cậu ta cũng được đấy chứ.”
“Cậu tha lỗi cho chị ấy nhé; chị ấy mang gương mặt của thiên thần và tính cách của quỷ Moloch,” cậu trai cười, đứng dậy nói. Cậu ta chìa tay cho Simon. “Tôi là Sebastian. Sebastian Verla. Và đây là chị họ tôi, Aline Penhallow. Aline-”
“Chị không bắt tay cư dân Thế Giới Ngầm,” Aline nói, trở lại tư thế dựa người vào đệm ghế. “Các người biết đấy, những ma cà rồng, chúng không có linh hồn.”
Nụ cười biến mất trên gương mặt Sebastian. “Aline-”
“Đúng mà. Chính vì thế họ không thể soi mình trong gương, hoặc bước đi dưới ánh mặt trời.”
Vô cùng khoan thai, Simon bước lùi lại về phía vệt nắng chiếu qua ô cửa sổ. Cậu cảm thấy ánh mặt trời nóng rực trên lưng, trên tóc. Cái bóng kéo dài và đen của cậu phủ trên nền nhà, gần chạm tới chân Jace.
Aline hít một hơi nhưng không nói gì. Sebastian mới là người lên tiếng trong khi đôi mắt đen tò mò nhìn Simon. “Vậy là sự thực. Nhà Lightwood đã nói, nhưng tôi không nghĩ-”
“Rằng chúng tôi nói thật?” Jace nói, lần đầu tiên kể từ khi họ đặt chân xuống dưới nhà. “Chúng tôi không nói dối về những điều thế này. Simon là-độc nhất vô nhị.”
“Em từng hôn cậu ấy,” Isabelle nói, không hẳn với một ai.
Đôi lông mày của Aline nhướn tít lên. “Họ thực sự để em làm mọi điều em muốn ở New York, đúng không?” cô ta nói, có vẻ vừa hoảng hốt vừa ghen tị. “Lần cuối cùng chị gặp em, Izzy, em thậm chí còn chẳng buồn cân nhắc-”
“Lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, Izzy lên tám,” Alec nói. “Nhiều chuyện đã thay đổi. Giờ, vì mẹ mình đi vội nên cần có người mang giấy tờ và hồ sơ tới hộ mẹ mình. Mình là người duy nhất tròn mười tám, vì thế mình là người duy nhất được tới dự phiên họp của Clave.”
“Bọn em biết,” Isabelle nói, ngồi xuống một chiếc ghế. “Anh đã nói với bọn em có khoảng, ờ, năm lần ấy mà.”
Alec, đang ra vẻ trịnh trọng, lờ tít đi. “Jace, cậu đã mang chàng ma cà rồng tới đây, vì thế cậu phải lo liệu cho cậu ta. Đừng để cậu ta ra ngoài.”
Chàng ma cà rồng, Simon nghĩ. Không phải Alec không biết tên cậu. Cậu đã từng có lần cứu mạng Alec. Giờ cậu là “chàng ma cà rồng.” Thậm chí với Alec, một người có xu hướng sưng sỉa hầu như mọi nơi mọi lúc, cách xưng hô đó vẫn là quá đáng. Có lẽ việc đặt chân tới Idris đã gây ảnh hưởng gì tới anh ta. Có thể Alec cảm thấy cần chứng tỏ tính- cách-Thợ Săn Bóng Tối hơn ở đây.
“Đó là lý do cậu lôi mình xuống đây để nói chuyện hả? Không để chàng ma cà rồng ra ngoài? Đằng nào mình chẳng làm.” Jace ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Aline, và cô ta có vẻ hài lòng. “Tốt hơn hết cậu nên tới Gard và trở về. Chúa mới biết chúng tớ có thể gây ra cảnh trụy lạc thế nào khi không có cậu dẫn lối chỉ đường.”
Alec nhìn Jace với vẻ anh lớn-luôn-bình-tĩnh. “Cố hoãn cái sự sung sướng đó lại. Tớ sẽ trở lại trong nửa tiếng nữa.” Anh biến mất sau khung cửa hình vòm dẫn ra một hành lang dài; từ đâu đó xa xa, tiếng cửa đóng lách cách vọng lại.
“Anh không nên trêu chọc Alec,” Isabelle nói và nhìn Jace một cách nghiêm túc.
“Bố mẹ thực sự để Alec quản lý chúng ta.”
Aline, Simon không thể nào không để ý, đang ngồi sát gần Jace, vai chạm vai, thậm chí khi mà chiếc ghế còn khá rộng rãi. “Cậu có bao giờ nghĩ kiếp trước Alec là một bà già sống với chín mươi con mèo, lúc nào cũng hò hét đuổi cổ mấy đứa nhỏ hàng xóm tránh xa vườn nhà bà ta không? Vì tớ nghĩ vậy đấy,” anh nói và Aline cười khúc khích. “Chỉ vì cậu là người duy nhất có thể tới Gard-”
“Gard là cái gì?” Simon hỏi, mệt mỏi vì không hiểu mọi người đang nói chuyện gì.
Jace nhìn. Gương mặt anh ta vẫn lạnh te, không hề thân thiện; tay anh ta đang đặt lên eo Aline. “Ngồi xuống,” anh nói và hất hàm về cái ghế tựa. “Hay cậu định bay liệng trong góc nhà như dơi?”
Tuyệt. Giờ lại thêm mấy câu nói đùa dơi với chẳng diếc. Simon bực bội ngồi xuống ghế.
“Gard là nơi họp hành chính thức của Clave,” Sebastian nói, rõ ràng đang thương hại Simon. “Nó là nơi Luật được tạo ra và nơi Quan Tổng Tài cùng Điều Tra Viên sinh sống. Chỉ có những Thợ Săn Bóng Tối trưởng thành mới được bước vào nơi đó khi Clave tổ chức phiên họp.”
“Phiên họp?” Simon hỏi, nhớ lại điều Jace đã nói lúc trên nhà. “Ý anh là- không phải vì tôi?”
Sebastian cười. “Không. Vì Valentine và Bảo Bối Thiên Thần. Đó là lý do mọi người ở đây. Để thảo luận xem Valentine sẽ làm gì tiếp theo.”
Jace không nói gì, nhưng nghe thấy tên Valentine, mặt anh cau lại.
“Ờ thì, ông ta sẽ săn lùng Gương Thánh,” Simon nói. “Bảo bối thứ ba, đúng không? Có phải nó ở Idris không? Vì thế nên mọi người ở đây?”
Một khoảng im lặng ngắn trước khi Isabelle trả lời. “Không ai biết Gương Thánh ở đâu. Thật ra, không ai biết nó là gì.”
“Nó là một tấm gương,” Simon nói. “Cậu biết đấy - bằng kính tráng bạc, có thể phản chiếu. Mình đoán thế.”
“Điều Isabelle muốn nói,” Sebastian tử tế giải thích, “là không ai biết chút gì về Gương Thánh. Lịch sử của Thợ Săn Bóng Tối nhắc khá nhiều lần tới nó, nhưng không có nói cụ thể xem nó ở đâu, nó thế nào hoặc, quan trọng nhất, nó có tác dụng gì.”
“Bọn mình đoán Valentine muốn có nó,” Isabelle nói, “nhưng chẳng giúp được gì nhiều vì chẳng ai có thông tin xem nó nằm ở đâu. Các Tu Huynh Câm có thể biết gì đó, nhưng Valentine đã sát hại tất cả. Thế là bọn mình chẳng biết tẹo teo nào hết.”
“Tất cả bọn họ?” Simon ngạc nhiên hỏi. “Mình nghĩ hắn chi giết những Tu Huynh sống tại New York.”
“Thành Phố Xương không thực sự nằm tại New York,” Isabelle nói. “Nó giống như- Nhớ lối vào Triều đình Seelie tại Công Viên Trung tâm chứ? Chỉ vì lối vào nằm ở công viên không có nghĩa là bản thân Triều đình nằm dưới đó. Thành Phố Xương cũng vậy. Có rất nhiều lối vào, nhưng bản thân thành phố-” Isabelle ngừng nói khi Aline vội xua tay ra hiệu im lặng. Simon hết nhìn gương mặt cô gái nọ lại nhìn Jace và Sebastian. Họ đều có vẻ đề phòng, như thể nhận ra họ đã làm sai điều gì: tiết lộ những bí mật của Nephilim cho một cư dân Thế Giới Ngầm. Một ma cà rồng. Không hẳn với một kẻ thù, nhưng chắc chắn là một kẻ không đáng tín cậy.
Aline là người đầu tiên phá vỡ sự im lặng. Đôi mắt đen xinh đẹp của cô nàng dán thẳng vào Simon, cô gái nói, “Vậy- cảm giác trở thành ma cà rồng ấy... nó ra làm sao hả?”
“Aline!” Isabelle có vẻ hoảng hốt. “Chị không thể đi lung tung hỏi mọi người rằng trở thành ma cà rồng có cảm giác thế nào được.”
“Chị chẳng thấy có lý gì lại không được phép cả,” Aline nói. “Cậu ta mới trở thành ma cà rồng, đúng không? Vậy cậu ta phải nhớ cảm giác lúc là người.” Cô ta quay lại với Simon. “Với cậu, máu vẫn có vị máu chứ hả? Hay nó có vị như một thứ khác, giống như nước cam hay gì đó? Vì tôi không nghĩ vị của máu sẽ-”
“Nó giống vị thịt gà,” Simon nói, chỉ để bắt cô ta câm miệng.
“Thật sao?” Aline có vẻ sửng sốt.
“Simon trêu chị đấy, Aline,” Sebastian nói, “mà cũng đúng thôi. Tôi thay mặt chị họ tôi đây xin lỗi cậu lần nữa, Simon. Những người được nuôi lớn ngoài Idris như chúng tôi dù sao cũng quen thuộc với cư dân Thế Giới Ngầm hơn một chút.”
“Nhưng không phải cậu được nuôi dạy tại Idris sao?” Isabelle hỏi. “Tớ tướng bố mẹ cậu-”
“Isabelle,” Jace ngắt lời nhưng đã quá muộn. Gương mặt Sebastian sầm tối lại.
“Bố mẹ tớ đã qua đời,” cậu ta nói. “Một sào huyệt quỷ ở gần Calais- không sao đâu, chuyện xảy ra cũng lâu rồi.” Cậu ta phẩy tay để ngăn những lời bày tỏ sự đồng cảm của Isabelle. “Bác tớ-chị gái của bố Aline - đã nuôi dạy tớ tại Học Viện Paris.”
“Vậy cậu nói tiếng Pháp?” Isabelle thở dài. “Ước gì tớ nói được một ngôn ngữ khác. Nhưng bác Hodge chưa từng nghĩ bọn tớ cần học gì khác ngoài tiếng Hy Lạp cổ và tiếng La-tinh, mà giờ làm gì còn ai nói ba thứ tiếng đó.”
“Tớ còn nói được tiếng Nga và tiếng Ý. Và một chút tiếng Ru-ma-ni, " Sebastian cười khiêm tốn. “Tớ có thể dạy cậu một chút-“
“Tiếng Ru-ma-ni? Thật ấn tượng,” Jace nói. “Không nhiều người dùng ngôn ngữ đó.”
“Anh thì sao?” Sebastian hứng thú hỏi.
“Không hẳn,” Jace nói với nụ cười giả lả mà nhìn qua, Simon biết ngay anh ta đang nói dối. “Tiếng Ru-ma-ni của tôi chỉ giới hạn trong vài cụm từ hữu dụng như, ‘Đây là nọc độc rắn hả?’ và ‘Nhưng trông cô trẻ quá nên không thể nào là một sĩ quan cảnh sát được.’”
Sebastian không cười. Có gì đó trên nét mặt của cậu ta, Simon nghĩ. Nó quá ôn hòa - mọi thứ về cậu ta đều từ tốn, nho nhã - nhưng Simon có cảm giác sự ôn hòa bên ngoài đang che giấu thứ gì đó hoàn toàn ngược lại. “Tôi thích đi đây đi đó,” cậu ta nói, ánh mắt chiếu thẳng vào Jace. “Nhưng được trở lại cũng tốt, đúng không?”
Jace ngừng chơi đùa với những ngón tay của Aline. “Anh có ý gì?”
“Chỉ là không có nơi nào giống với Idris, dù cho Nephilim chúng ta có thể dựng nhà dựng cửa ở những nơi khác khang trang bề thế thế nào. Cậu đồng ý không?”
“Sao cậu lại hỏi tôi?” Giọng Jace lạnh như nước đá.
Sebastian nhún vai. “Ừ thì, anh sống ở đây khi còn nhỏ, đúng không? Và đã nhiều năm rồi anh mới trở về. Hay tôi nhớ sai nhỉ?”
“Cậu không nhớ sai,” Isabelle bực bội đáp. “Jace thích giả vờ rằng mọi người không bàn ra tán vào về anh ấy, kế cả khi anh ấy biết thừa.”
“Chắc chắn là họ phải nói về Jace rồi.” Dù Jace đang lườm Sebastian, nhưng Sebastian chẳng mảy may bối rối. Simon dù không muốn nhưng vẫn có cảm giác khá thích anh chàng Thợ Săn Bóng Tối tóc đen này. Hiếm có người không phản ứng lại trước những lời trêu chọc của Jace. “Những ngày này người ta toàn bàn luận về chuyện đó. Cậu, Bảo Bối Thiên Thần, bố cậu và cô em gái-”
“Clarissa phải đi cùng anh chứ nhỉ?” Aline nói. “Tớ đang mong được gặp em ấy. Có chuyện gì thế?”
Dù nét mặt Jace không thay đổi nhưng anh rút tay khỏi tay Aline, nắm lại thành nắm đấm. “Clary không muốn rời New York. Mẹ em ấy vẫn nằm trong viện.”
Jace chưa bao giờ nói mẹ bọn anh, Simon nghĩ. Luôn luôn là mẹ Clary.
“Lạ thật đấy,” Isabelle nói. “Em cứ tưởng cậu ấy thực sự muốn đi.”
“Clary muốn đi chứ,” Simon nói. “Thật ra-”
Jace đã đứng dậy, quá nhanh đến nỗi Simon không kịp thấy anh ta di chuyển. “À mà anh nhớ ra, anh có chuyện cần nói với Simon. Chuyện riêng.” Anh hất hàm về phía cánh cửa đôi ở cuối phòng, ánh mắt sáng lên vẻ thách thức. “Đi nào, chàng ma cà rồng,” anh nói, bằng cái giọng mà bản năng của Simon biết rằng, việc từ chối sẽ dẫn tới một cuộc ẩu đả. “Chúng ta nói chuyện nào.”