← Quay lại trang sách

Vó ngựa xông pha (Dân sử thời Tây Sơn)-Hương Giang Thái văn Kiểm

Thân tặng Văn hữu Hồ Uyển

Dân biểu Hậu duệ Vua Quang Trung

I- Thân thế và công nghiệp nhà Tây Sơn.

1.- Địa Linh Nhân Kiệt

(Bao gồm nguồn gốc sông Lại Giang)

Một thời thơ ấu xa xưa, nhằm lúc thanh bình trước khi xảy ra biến cố lớn lao với trận thế chiến, tôi đã được may mắn theo cha đi xe đò từ Đức Phổ (Quảng Ngãi) vào Bình Định, ngang qua Sa Huỳnh, Tân Quan, Sông Lại, Phù Mỹ, Phù Cát, Gò Găng, An Nhơn, Tuy Phước, Bình Định, Quy Nhơn, rồi từ đó trở ngược lại thuê xe đò đi về phía Tây, theo Quốc lộ số 19 lên tới Sông Côn, An Khê (Tây Sơn) xuyên qua xưởng dệt Delignon ở Phú Phong, nghe tiếng máy chạy cả hàng trăm máy dệt tinh xảo với mấy trăm thợ dệt ngày đêm cần cù làm việc, cung cấp lụa là cho dân chúng Bình Phú, Khánh Thuận còn dư thì đưa vào Nam và đưa ra tới Huế cung cấp cho giới trung lưu.

Thời đó, trong dân dã, nơi đồng ruộng và trên xe đò, thường nghe hát ca dao:

Nón ngựa Gò Găng,

Tơ lụa Phú Phong,

Bún Song Thần An Thái.

Đậu ngự Nhơn Ngãi.

Dừa trái Tân Quang [1]

Xoài tượng Hưng Long.

Mặc ai mơ táo ước hồng,

Tình quê em giữ vững lòng trước sau.

Tiếng hát quê mùa tròn ấm của cô gái Bình Định, vọng lên từ đồng quê cho tới phố phường đông đúc, xe pháo tấp nập, bán buôn hàng hóa đủ các thứ, chứng tỏ rằng Bình Định là một địa phương siêng năng và trù phú.

Đó chỉ là một nhận xét phiến diện, là vì ngoài sự cần mẫn trong thớ thịt và huyết quản, dân Bình Định cũng tỏ ra xuất sắc trong tâm tình và lý trí, trong nhiều lãnh vực khác: như là thi văn, học thuật, mỹ thuật, văn nghệ, võ thuật, bát bội... thì không nơi nào bằng, kể từ khi Đào Duy Từ (1572-1634) vượt sông Gianh tiến về Nam, truyền bá Hát Tuồng và Võ Nghệ, hai môn pháp thuật cổ truyền phát xuất từ Đàng Ngoài, được Đào Quốc Công và Chúa Sãi chung sức phát triển tại Đàng Trong, nhằm chế ngự những tham vọng của Chúa Trịnh ở phương Bắc.

Những lúc trăng lên trên vườn dừa, cô gái Bình Định cũng thấy dào dạt tâm tình, đón gió hiu hiu từ Đại dương thổi lại, xuyên qua những lá dừa ngửa nghiêng với nhạc đệm, bèn thốt lên những lời ca trữ tình rất lãng mạn:

Dưới vườn dừa lưa thưa trăng rọi,

Mảnh chắp mảnh rời, em lặn lội trong trăng,

Lội trong trăng em băng qua cồn cát,

Xào xạc bụi bờ, man mác sương sa,

Sương sa cho tới sương tan,

Tinh nồng nghĩa nặng em càng thương anh...

Sông Lại Giang

Trên kia có nhắc đến tên một con sông tên Lại mà sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là Lại Giang, hàm ý sông này có nhiều con Rái bơi lội kiếm ăn quanh năm. Con Rái là một giống vật mà người xưa cho là linh thiêng, vì thấy nó ưa lạy, lúc tìm được mồi cá, mang lên bờ sông, đặt cá trước mặt, vái lạy rồi mới chịu ăn, như để tỏ lòng biết ơn Trời Đất đã đoái thương nó, đã tận tình giúp nó kiếm ra món ăn, nhất là những lúc cơ hàn, mùa đông giá rét.

Cho nên, sách xưa gọi giống Rái là Tế vật thú, con thú biết tế Trời với con vật đã bắt được. Cũng có sách gọi là Lại tế ngư, con Rái biết tế lạy con cá trước khi ăn, như là muốn xin lỗi nó vậy. Sách xưa cũng ghi rằng thuở trước, người đi săn bắn trong rừng, trên sông và dọc theo bờ biển mà gặp phải trường hợp này, thì dù cho gặp mùa đông giá rét, thiếu ăn, càng cảm thấy xúc động trong lòng, bèn thu xếp cung tên, quay lưng đi nơi khác, dù cho bụng đói, cũng cam tâm tha sống cho một sinh vật đang ở trong cơn ngặt nghèo! Người mà biết cư xử với loài vật như thế, với đức Nhân toàn vẹn, mới là xứng danh: Nhân Ư Vạn Vật Chí Linh! Có làm được một cử chỉ như thế thì con người mơi xứng đáng đứng trên mọi loài vật trên đời này.

Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, quyển Bình Định, sông Lại Giang cũng goi là Lại Dương, ở phía Nam lỵ sở phủ Hoài Nhân, rộng 83 trượng, sông sâu nước trong, có hai nguồn: Một nguồn từ núi Man thuộc nguồn Trà Bình về phía Tây bắc huyện Bồng Sơn, chảy về phía Nam qua thủ sở bên Đốc Chính, đến thôn Thanh Lương, chuyển sang phía Đông đến bến Trường Tân (tục gọi là bến Đồng Dài, rộng hơn 20 trượng) ở đây có đồn thủ Trường Tân, có khe núi từ phía Tây nam chảy vào, lại chảy về phía Đông đến bến thôn Phú Văn: Một nguồn từ khe núi trong sách Man về phía Tây Nam huyện, chảy qua thôn Hội Đăng, các núi Tổng Vinh, Lỗ Đố và đồn thủ Đình Chỉ cũ, đến thôn Nhân Sơn, đến đây có nguồn Hạ Lý, Húc Tắc ở thôn Nghĩa Điền phía Nam ven núi chảy vào (tục gọi là nước họp), Li chảy đến thôn Hương Sơn, đến đây có đồn thủ Thượng Lý, Ô Kim thuộc thôn Nghĩa Điền, nước khe núi chảy qua thôn Bình Sơn, cùng nước Kim Sơn, Phú Hữu chảy từ phía Đông họp vào, lại chảy qua bến Đồng Khế thuộc thôn Hội Tỉnh, đến thôn Tân Thịnh, thì có nước khe núi Mạn Lăng (giáp địa với huyện Phú Mỹ) chảy vào, lại chảy qua bến Mộc Bài, rồi ngoặc về phía Đông qua thôn Phú Văn, đến thôn Trung Lương, lại chảy về phía Đông qua bến Lại Dương thuộc thôn Trung An, thì chia thành hai nhánh: một nhánh chảy về phía Đông bắc 10 dặm, qua địa phận thôn An Thái, lại chảy 6 dặm đến bến Tân Quan, lại chảy 9 dặm rồi đổ vào cửa biển Kim Bồng; một nhánh chảy về phía đông, qua bến Lại Dương làm sông Lại Dương, rồi đổ vào cửa biển An Dự. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), liệt vào hàng sông lớn, chép trong điển thờ. Lại xét: sông Tân Quan từ thôn An Thái (trước là An Quang) trở xuống, nay bồi đắp thành ruộng, chỉ còn đường cũ phỏng một trượng, nước sâu chừng một thước, mà thôi, từ chợ Lộ Ân trở xuống sâu hơn.

Thế là đất nước Việt Nam ta hình dáng như một con rồng vĩ đại đang uốn mình hai ngoai trên bán đảo Đông Dương, phía Tây trùng điệp núi non hiểm trở, với dãy Trường Sơn hùng vĩ và phía Đông là Nam Hải tiếp nối Thái Bình Dương, sóng dậy vang hùng với cá côn cá kình vẫy vùng trong biển lớn. Còn phía giữa, từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, là 75 triệu dân Lạc Việt chung sống với 61 sắc tộc, Kinh Thượng đề huề, trường kỳ Nam tiến, gặp lúc sơn hà nguy biến, lúc nào cũng có anh hùng hào kiệt phất cờ gióng trống, giữ vững biên cương.

Chính trong khung cảnh địa linh nhân kiệt ấy, mà dân tộc ta trong cảnh loạn ly, tam liệt ngũ phân, đã phát sinh ra, dù trong một thời gian ngắn, một kỳ tướng Nguyễn Huệ danh bất hư truyền.

Hơn một trăm năm sau, 1886 phong trào Cần Vương lại nổi dậy nơi đây, hòa đồng với toàn dân ba miền và chiến sĩ cách mạng Mai Xuân Thưởng (1860-1887) đã để lại bài thơ trào đầy hùng khí:

Không tính làm chỉ cuộc mất còn,

Nợ trai trả đặng ấy là khôn.

Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước,

Đá tạc lòng trung núi mấy hòn.

Tái ngắt một gian xương tợ giá.

Đỏ lòa bia sắt máu là son.

Rồi đây ngọc luật đưa Xuân lại,

Một gốc Mai già nảy rậm non.

2.- Quê hương và gia thế Tây Sơn

Chúng ta có thể lấy năm 1558 là thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1524-1613) rời bỏ đất Bắc để tránh né Chúa Trịnh, với một đoàn người tùy tàng khá đông tiến về Nam, vượt khỏi sông Gianh để kiến lập một giang sơn mới, dưới sự điều khiển của 9 Chúa kế tiếp từ đó cho tới năm 1777 đánh dấu cuối cùng của chúa Định Vương (1765-1777), thuộc nhà Nguyễn sơ, như một thời đại Nam Bắc phân tranh, cộng cả thảy là 219 năm.

Thêm một thời kỳ phân tranh nói trên, có cuộc khởi binh của Nguyễn Nhạc từ năm 1771 và cuộc dây nghiệp của nhà Nguyễn Tây Sơn (1778-1801), cộng là 14 năm xưng đế cho câu sấm:

“Đầu cha lấy làm chân con,

Mười bốn năm tròn hết số thời thôi”.

Chiết tự chữ Hán, trên đầu chữ Quang (Trung) 光 中 và dưới chân chữ Cảnh (Thịnh), 景 盛 có chữ Tiểu 小. Có nghĩa là “nhỏ bé và ngắn ngủi” (đoản mệnh).

Thời kỳ loạn lạc Nam Bắc phân tranh vào giữa thế kỷ 17, quân nhà Nguyễn gốc Gia Miêu (Thanh Hóa), vượt sông Gianh tiến vào Nghệ An, chiếm bảy huyện. Sau đó do sự tranh chấp hai tướng Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật, quân Nguyễn phải triệt thoái khỏi Nghệ An. Và họ mang theo một số tù binh và nông dân vào Nam, như một thứ chiến lợi phẩm, hoặc là một loại dân công, cần thiết cho sự khai khẩn đất đai cho vùng Trung Nam.

Trong số người bắt buộc di dân ấy, thuộc huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), có ông tổ bốn đời của Nguyễn Huệ, vốn họ Hồ. Vào năm 1786, Nguyễn Huệ, ông “Tướng Nhà Trời” (theo lời dân gian gọi hồi đó, kể cả người Tàu gọi ông là “Thiên Tướng”, còn người Chàm gọi tên là Poh Huệ, tức là vua Huệ), bèn dẫn quân ra xứ Nghệ, tìm kiếm cội nguồn gia tộc và nhận ra gia phả họ Hồ ở làng Thái Lão, huyện Hưng Nguyên làm đồng tộc, chọn Thái Lão làm Tổ quán. Ba năm sau, trong lúc tiến quân ra Bắc đánh Tàu, Nguyễn Huệ truyền lịnh cho dân làng Thái Lão, tu tạo Tổ miếu để phụng tự. Như thế thì họ Hồ rất có thể cùng họ với Hồ Quý Ly, và con là Hồ Hán Thương của Nhà Hồ (1400-1407), rồi trải qua nhiều biến cố lịch sử, con cháu đã di tản từ Bắc vào Nam. Ngoài ra, Hồ Quý Ly xưng là hậu duệ của vua Đường Ngu bên Tàu, cho nên đặt nước Nam là Đại Ngu.

Những người họ Hồ ấy, do lệnh của Chúa Nguyễn mà di cư vào miền Bình Phú, tức là vùng Vijaya và miền Khánh Thuận, tức là vùng Kauthara-Panduranga, trong đó thổ dân Chàm chia ra đại khái làm hai phe: phe Dừa và phe Cau. Phe Dừa phía Bắc, phe Cau phía Nam. Phe Dừa (Clan du Cocotier) khởi đầu từ Tân Quan (Bình Định) chạy vô tới Sông cầu, còn phe Cau (Clan de l’Aréquier), bao gồm phần đất từ Ba Ngòi chạy vô thấu Phan Thiết. Dân ca còn ghi lại vài câu như sau:

Công đâu, công uổng công thừa?

Hơi đâu gánh nước tưới dừa Tân Quan!

Đại ý người ta nói dừa Tân Quan nhiều vô số kể, hơi sức đâu mà tưới! Người ta cũng thừa biết rằng loại dừa tự nó mọc nhiều rễ sâu xuống đất, từ đó hút nước tự nuôi chóng lớn và vững vàng chống đỡ với nắng hạn gió mưa, bão táp quá nhiều dọc miền duyên hải.

Nói về Cau thì tự nhiên dính với Trầu, vì theo cổ tích thì từ hòn đá vôi, mọc lên cây cau và từ gốc cây cau mọc lên cây trầu yểu điệu, uyển chuyển bò lên quấn quít thân cây cau cho tới đọt, từ đọt ấy tỏa ra rất nhiều lá sum suê quây quần bên trên ngọn, như cái lọng che nắng đội mưa cho cả gia đình, tuy ba là một.

Truyện Trầu Cau do tình cờ của lịch sử, mà sẽ dính tới họ Hồ, đặc biệt là Nguyễn Nhạc, mà chúng ta sẽ nói sau. Bây giờ thì nói theo sử sách, Hồ Phi Phúc đã lấy tên vợ là Nguyễn thị Đồng, là người cùng xã Phú Lạc, cách xa với trang trại Tây Sơn, huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định. Địa danh này do vua Gia Long, sau khi dẹp xong Tây Sơn, mới đặt tên là Bình Định. Còn Quy Nhơn là phiên âm địa danh Chiêm ngữ Cri Viny, còn lại địa danh Chiêm ngữ Cri Bannoy, đã được Việt hóa thành Trà Bàn, hoặc Chà Bàn, rồi phiên âm ra Hán tự thành Đồ Bàn, là vì lầm lẫn chữ Trà... và chữ Đồ... viết hơi giống nhau, chữ này chỉ hơn chữ kia chỉ một nét mà thôi!

Tuy sống lâu ở nơi này, mà Hồ Phi Phúc vẫn nhớ thương quê cha đất tổ là xứ Nghệ An, cho nên lúc vợ ông sinh ra ba người con trai liên tiếp, ông đã có ý định đặt tên cho ba con với ba ngọn núi của xứ sông Hồng, núi Lam, gọi là Đại Nhạc, Đại Huệ và Lữ Sơn, với họ vợ mình, tức là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Thế là trong số 99 ngọn Hồng Lĩnh, họ Hồ đã chọn ba ngọn đặc sắc nhất, để đặt tên cho ba con trai nối dõi tông đường.

Theo giáo sư Phan Huy Lê, “từ ấp Tây Sơn thuộc Thượng Đạo (đường đi xuyên Cao nguyên) Hồ Phi Phúc đã dọn về quê ở Phú Lạc, rồi lại dời sang Kiên Mỹ. Phú Lạc, Kiên Mỹ và Thuận Nhãi là ấp Kiên Thành ngày xưa, nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.

Miền này ở dưới đèo An Khê, và còn được gọi là Tây Sơn Hạ Đạo, tức là quê hương thứ hai trên đất Đàng Trong và là nơi sinh trưởng của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Dưới thời nhà Nguyễn, dân làng Kiên Mỹ vẫn bí mật thờ cúng ba vị lãnh tụ Tay Sơn. Gần đây có bến Trường Trầu, là nơi Biện Nhạc vừa làm Biện Lại lo việc tuần tiễu (Cảnh sát) canh phòng thu thuế cho Nhà Nước thuở đó, vừa buôn trầu nguồn xuôi ngược trên dòng Sông Côn”.

Nơi đây còn truyền lại câu hò rất tình tứ giữa trai thanh gái lịch:

Cây me bến cũ đò xưa

Dẫu không tình nghĩa

Thì cũng đón đưa cho trọn tình!

Nói tới trầu mà không nhắc tới cau cũng chưa đủ, cho nên thời tiền chiến, lúc tôi theo cha vào Tây Sơn thăm cô ruột “lấy chồng Bình Định cho dài đường đi” làm Lãnh Binh thành ấy, rồi về hưu, tôi đã ghi chép mấy cây hò dân dã rất ngộ nghĩnh như sau:

Trai hò: Bánh cả mâm, sao em kêu là bánh ít?

Trầu cả chợ, sao em gọi là trầu không?

Trai nam nhi không đối đặng,

Xin gái má hồng thử đối coi!

Cô gái suy nghĩ hồi lâu, đành chịu bí bèn nảy ra ý kiến hát một bài đố rắc rối cũng không kém, để thử tài trai:

Trái cau lửa, sao anh gọi là cau không nóng?

Tóc dợn sóng, sao mà sóng không trào?

Trai nam nhi mà đối đặng.

Gái má đào xin theo.

Lại thêm hai câu này nữa, mô tả một vài khía cạnh đặc trưng của xã hội thời xưa ấy, nhắc lại một trường hợp rất khó xử, mà rốt cuộc cũng tìm ra giải pháp ổn thỏa:

Mẹ ơi ông Chánh đòi hầu.

Ông Phó đòi vợ, biết nhận cau trầu tay ai?

Cả hai phía đều tranh giành như Sơn Tinh và Thủy Tinh đời thượng cổ. Cả hai đều có khuyết điểm và ưu điểm. Rốt cuộc mẹ cô đã suy nghĩ và cân nhắc kỹ lưỡng về trường hợp gay cấn này, bèn khuyên cô phải chịu uy thế và nhận cau trầu hầu ông Chánh! Cô gái cưng của mẹ đã suốt đêm trằn trọc suy tư, nghĩ đi nghĩ lại nát óc, không tài nào ngủ được. Cô thao thức suốt đêm tới sáng, thấy mặt trời ló dạng qua song cửa sổ và các tàu lá cau run rẩy với ngọn gió đông. Cô bèn ngồi dậy, qua phòng bên kia gọi mẹ:

Mẹ ơi! Ông Chánh đòi hầu.

Mua chanh chùm kết gội đầu cho trơn!

Cả ba anh em Tây Sơn đều có vợ cả và nhiều vợ hầu. Riêng Nguyễn Nhạc có một bà vợ hầu gốc thượng du Ba Na (Bahnar), còn Nguyễn Huệ làm vua như chúng ta đều biết, ra Bắc Hà diệt Trịnh phò Lê, đã cưới thêm bà vợ Bắc là Ngọc Hân công chúa, gái cưng của vua Lê Hiển Tông. Có người nói rằng gia đình của Tây Sơn có tới bảy anh chị em. Người anh Cả mà phương Nam gọi là anh Hai, là Nguyễn Nhạc thì dân gọi là anh Hai Trầu, tiếp theo Nguyễn Huệ được dân gọi là chú Ba Thơm (hoa huệ vốn là hoa thơm, như lời giải thích của Huệ với thầy giáo Hiến), còn lại người thứ ba (út), thì gọi là thầy Tu Lữ, vì thời kỳ niên thiếu Lữ có theo đạo sĩ học Lão giáo, là phép tu luyện bí truyền.

Trong số mấy anh em, Nhạc hay chữ nho nhất đám, viết chữ đẹp và uy dũng, xem người và chữ biết là tay hảo hớn, ưa chỉ huy và xếp đặc. Còn Nguyễn Huệ thì tướng mạo rất uy nghi, da mặt hơi mụn, tóc đen và hơn quăn, cặp mắt sáng ngời như tỏa điện quang, tiếng nói như sấm vang, thân hình vạm vỡ, da hơi ngăm, điển hình giống như người Mường Lạc đã hùng cứ miền Bắc Đông Dương, cũng như Đinh Tiên Hoàng, Lê Lợi, Mai Hắc Đế, Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm... đều là giống Mường Lạc.

Bà vợ đầu tiên của Nguyễn Huệ là Phạm thị Liên quê ở Quy Nhơn, và một bà họ Bùi là anh em cùng cha khác mẹ với quan Thái sư Bùi Khắc Tuyên và quan Hình bộ Thượng thư Bùi văn Nhật trong thịnh thời Tây Sơn. Năm 30 tuổi (1789) bà được phong Chính cung Hoàng hậu. Như thế là bà họ Phạm sinh vào khoảng 1759, tức kém thua Nguyễn Huệ phỏng chừng 6-7 tuổi.

Bà họ Bùi đã có với Huệ năm con: ba trai hai gái. Ba con trai là Quang Toản, Quang Bàn, Quang Thiệu. Quang Toản được lập làm Thế Tử, người kế sự nghiệp hiển hách của vua Quang Trung, thì không được mấy xuất sắc. Bà họ Phạm mất ngày 29 tháng 3 và chôn ngày 25 tháng 6 năm 1791, mộ chôn dưới chân núi Kim Phụng, phía Tây cố đô Huế.

Theo Giáo chủ Serad viết thư ngày 30 tháng 4 năm 1791, còn tàng trữ nơi Văn khố Hội Truyền Giáo Hải Ngoại, tập Tonkin AMEP, trang 1433, ở 128 Rue du Bac, Paris Quận 7, thì dân Bắc Hà được lệnh cung tiến về Phú Xuân các thứ vải sáp, trầm hương, nhựa nhám... để chế thành chất “matis” thật tốt bền và khử trùng, ướp xác cho lâu bền.

Cũng do sự mất mát này, mà vua Quang Trung, vì quá thương tiếc bà vợ từ thuở hàn vi tần tảo sớm hôm, lắm lúc sinh ra cuồng nộ, khiến cho một số giáo sĩ Tây phương lúc đó đang truyền đạo ở Phú Xuân rất lo sợ cho thân phận mình.

3.- Nguyễn Huệ cưới Công chúa Ngọc Hân.

Mùa Hè năm 1786, sau khi đánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Huệ mang đại quân ra Bắc với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh và ông đã thực hiện nhanh chóng sứ mạng đó.

Vua Lê Hiển Tông, sau 47 năm làm vua bù nhìn, đón nhận sự chiến thắng của Nguyễn Huệ một cách nửa mừng mà nửa lại lo. Đồng thời vua đã phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Phù Chính Dực Vũ Uy Quốc Công.

Rồi qua trung gian của Nguyễn Hữu Chỉnh đã biết rằng vua Lê đã có tới sáu người con gái, mà người xinh đẹp đoan trang và học vấn đầy đủ nhất là Công chúa Ngọc Hân. Nguyễn Huệ rất bằng lòng cưới Ngọc Hân, đưa về Huế sủng ái nồng nàn, chung sống với bà họ Phạm cho tới năm 1791, tháng 6 lúc bà ta mãn phần. Hồi đó Nguyễn Huệ được vua Lê trao cho Phủ Lớn Tây Long gần Hồ Tây, và nơi đây sẽ là nơi tụ hội cho cặp uyên ương trai tài gái sắc.

Mấy hôm sau thì Nguyễn Huệ và Ngọc Hân bái từ

vua cha, và từ đó cuộc đời của một tiểu thư cành vàng lá ngọc đã gắn liền với sự nghiệp áo vải cờ đào của người anh hào tuấn kiệt xuất thân từ nơi thôn dã. Sau khi Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế năm 1789, Công chúa Ngọc Hân được phong làm Bắc Cung hoàng hậu. Sau sáu năm hương lửa thì vua Quang Trung băng hà (16-9-1792), rồi bảy năm sau thì bà cũng mất (1799), được vua con là Cảnh Thịnh truy tặng miếu hiệu Như Ý Trang Thận Trinh Thất Vũ Hoàng Hậu.

Thuở sinh tiền, Vũ Hoàng Hậu, mặc dầu sinh ra nơi điện ngọc đền vàng, lầu son gác tía, vẫn ghi nhớ lời mẹ dạy khi nhón gót lên xe hoa để về Phủ Tây Long nơi Hà thành ngàn năm văn vật.

Trai tay không cũng không nhờ vợ

Gái chín đụn cũng phải nhờ chồng!

Ngọc Hân có hai con với Quang Trung: Một trai và một gái. Chúng ta biết rằng: Ngoài bài “Ai Tư Vãn”, một áng văn tuyệt tác của thời Tây Sơn và bài “Văn Tế vua Quang Trung”, cả hai bài đều thống thiết và xúc động đến tâm can.

Ngọc Hân còn làm bài “Chúc Thọ Vua Quang Trung” năm 40 tuổi lúc đình thần bá quan văn võ tổ chức lễ Tứ Tuần Đại Khánh cho nhà vua tại Phú Xuân vào năm 1792. Và đây là một mẫu văn trích bài Chúc Thọ bằng chữ Nôm:

“Nay gặp khánh tiết mừng tuổi thọ Hoàng đế, khúc nhạc thanh tương ưng luật hợp tiết, còn hoa đang độ, cây ngọc đưa hương, cây bích đào dâng quả trường sinh, trăng bạc ngả ánh trong hồ băng lại nở hoa buổi sáng.

Mây mà sắc tía nồng đượm mà khuê phòng hương nức, khí lành sáng tỏ mà áo xiêm thêm sắc, kính cẩn dâng bài biểu chúc mừng.

Cúi nghĩ lấy khí lành làm điểm tốt, tưng bừng màu sắc con phụng con lân, đầy khắp thiên hạ về cõi hư không sao Dục sao Chẩn. Điện Quế truyền hương, sân tiên tràn điều mừng.

Kính nghĩ Hoàng Đế Bệ Hạ, tài cao thiên cổ, đức hợp cả trời đất. Tuân mệnh trời trừ gian diệt bạo, vũ công chấn động cả muôn phương, hùng khí Tây Sơn đã tạo nên sự nghiệp đế vương, ở cõi giao dã phía đông đã định xong quy mô của nước nhà. Mặt trời đỏ rạng mà nghiêm đáng sao Thọ tinh chiếu sáng mà thiên hạ đều cùng ngưỡng lên trông mong mường tựa sao Xu sao Bắc Đẩu điện vây, ánh nắng nổi lên chen mừng Vạn Thọ. Cửa trời mây mờ sắc trông thấu triệt mặt kính ngàn thu. Bốn mùa thường điều hòa khiến cái đức của vua đẹp như ngọc và sáng như đuốc, trong muôn năm mãi chiếc âu vàng.

Hạ thần đức thẹn với thơ Quan Thư, ngượng ngùng với Cựu Mộc. Trong nội thất theo hầu được ngồi cùng bên, với áo xiêm lộng lẫy.

Vái Bệ Hạ mong tuổi tính bằng thiên niên kỷ, khởi đầu là mùa xuân tám ngàn năm. Chốn nội tình kề sát nghe nhạc thiều, cầu mong phúc âm nước Nhà được vạn năm vô hạn.

Ngọc Hân kính bái”.

Ngoài ra vua Lê Hiển Tông đã gả công chúa út là Ngọc Bình cho Nguyễn Quang Toản. Nhà Tây Sơn mất Nguyễn Ánh đưa Ngọc Bình vào Huế làm thứ phi, sau này sinh Quảng Oai Quận Công và Thường Tín Quận Công. Do đó mà dân gian đã truyền ca dao:

Số đâu có số lạ lùng

Con vua mà lấy hai chồng làm vua!

4.- Những bí mật và nghi vấn về cái chết của vua Quang Trung:

Trong bài này, chúng tôi không muốn nhắc lại công nghiệp hiển hách và chiến công oanh liệt của Nguyễn Huệ Quang Trung mà người đương thời, kể cả người Tàu, ưa gọi là ông “Tướng Nhà Trời” tức là Thiên Tướng, vì lẽ sử sách Ta, Tàu và Tây đã viết quá nhiều rồi, hầu như không còn gì để nói thêm.

Riêng về cái chết của Nguyễn Huệ năm 1792 lúc vừa tròn 40 tuổi thì nên tìm hiểu thêm. Sử gia nhà Nguyễn gọi chứng bệnh xâm xoàng của Nguyễn Huệ là huyết vựng. Ngày nay chúng ta có thể hiểu rằng đó là do áp huyết cao làm cho xây xẩm mặt mày, ngã tê như thể trúng gió nặng, có thể bất tỉnh, đứt mạch máu, gây xuất huyết não, bán thân bất toại (hémiplégie), hoặc đứng tim mà chết.

Hình như chứng bệnh này đã phát hiện từ lâu, do những lo lắng về quốc sự, việc chinh chiến không ngừng giữa Tây Sơn và Chúa Nguyễn, kể cả Nguyễn Nhạc nữa. Đúng là thời kỳ tam liệt ngũ phân của nước Nam ta. Lại có giả thuyết về cái chết của Nguyễn Huệ là có thể do thân thuộc của Ngọc Hân từ ngoài Bắc vào, tìm cách đầu độc vua Quang Trung, nhất là sau khi có những vận động bằng thơ văn chính thức của vua gửi sang Tàu cho vua Càn Long xin cưới hỏi Công chúa nhà Thanh và xin hoàn lại Lưỡng Quảng cho nước Nam ta, là vì xứ ấy xưa kia thuộc quyền Triệu Việt, với quốc hiệu là Nam Việt.

Lại còn có một giả thuyết thứ hai nữa là: Năm 1789, khi Thành Lâm sứ giả được nhà Thanh cử sang Thăng Long trao sắc phong cho vua Quang Trung, Càn Long có tặng cho vua Quang Trung chiếc áo màu có thêu kim tuyến bảy chữ: “Xa Tâm Chiết Trục Đa Điền Thử” không ai hiểu ý nghĩa của các đại tự trên chiếc áo đó. Cho đến năm 1792, khi vua Quang Trung chết, Càn Long có làm một bài thơ tặng, trong đó có câu thứ bảy là: “Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật” có nghĩa là bảy chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm. Cũng không hiểu được bảy chữ gì đã gây ra niềm xót xa của vua Càn Long? Và tại sao vua Càn Long cứ nhắc mãi chiếc áo?

Nhớ lại năm 1789, khi tặng áo, Càn Long có thơ trong đó có câu: “Phát Dị Nam Bang Y Dũ Quan” có nghĩa là mũ áo không khác gì nước Nam.

Mãi về sau những nhà chiết tự mới đoán ra thâm ý của vua Càn Long đã dùng lời thơ mà nhắc khéo việc vua nước Nam khỏi phải cống hiến người vàng tử trận Chi Lăng (1427), đời Lê đã giết hại Liễu Thăng, chưa nói chi tới việc nước Nam gửi người làm vua giả (Phạm Công Trị 1790) sang Tàu yết kiến vua Càn Long, vua Tàu tưởng thật, vẫn cung cấp mọi tiện nghi và rất nhiều tặng phẩm cho vua ta.

Sau cùng, nhà chiết tự đã đoán ra ý nghĩa thâm sâu của bảy chữ “Xa Tâm Chiết Trụ Đa Điền Thử” có nghĩa là chữ Xa (Xe), và chữ Tâm (Lòng) ghép lại trên dưới thành chữ Huệ Chiết Trục là gãy trục (xe nhà vua), còn ruộng thì nhiều chuột (Đa Điền Thử), ý nói rằng Huệ gãy trục xe, sụp đổ trong năm Chuột, tức là năm Nhâm Tý. Theo Tây Sơn Thực Lục, Lê Quý Dật Sử và Phan Huy Ích trong bài thơ “Thu Phụng Quốc Tang Cảm Thuật” đều ghi ngày 30 tháng 7 năm Nhâm Tuất (19-9-1792) là ngày quy tiên của Quang Trung Nguyễn Huệ.

Chúng ta không dám nghĩ vua Càn Long có bùa phép gì nhưng rất có thể vua Càn Long, hoặc cận thần của ông, là một nhà thuật số tiên tri giỏi, đã cảm hoài đoản mệnh của vua Quang Trung.

Paris (Chiêu Anh Các)

Nguyên Đán Quý Mùi, Février 2003

Chú thích:

[1] Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, “Tân Quan” chứ không phải “Tam Quan”. Có lẽ lâu ngày chữ Tân Quan biến đổi thành chữ Tam Quan.