Quang Trung đại đế: Sự nghiệp chung và tình cảm riêng-Nguyễn An Phong
Bình Định cái Nôi phát khởi của phong trào Tây Sơn, thế đất lớn của dân tộc. Vào hậu bán thế kỷ 18, do khí thiêng sông núi của vùng đất địa linh, nhân kiệt kết tụ thành, đã sản sinh và hun đúc nên một bậc anh hùng kiệt xuất Quang Trung đại đế. Ngài đã tung hoành từ Nam ra Bắc, nối liền ba miền đất nước từ Gia Định cho đến Phú Xuân và Thăng Long, thành một quốc gia Việt Nam thống nhất đầu tiên.
Bình Định, rải rác đó đây khắp tỉnh đều có dấu ấn sâu đậm và những di tích lịch sử của nhà Nguyễn Tây Sơn. Đặc biệt là Hoàng đế Thành của vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, ngôi nhà lá nhỏ ở thôn Kiên Mỹ, Bình Khê bên cạnh bờ sông Côn, nơi ba anh em Tây Sơn đã chào đời vào năm 1753 và Bến Trầu, nơi mà Nguyễn Nhạc đã đưa đón khách trong những chuyến đi buôn lịch sử của cái thời hùng khí Tây Sơn còn đang tiềm ẩn. Ở Phú Lạc hiện còn một cái đình nhỏ do dân Bình Khê dựng lên để thờ ba anh em Tây Sơn và trong công viên, vẫn còn cây me cổ thụ và giếng nước lâu đời, là chứng tích quê hương ngày thơ ấu của vị anh hùng dân tộc. Cây me, giếng nước, bến Trầu vẫn tồn tại với nắng mưa và hưng phế của thời gian như một niềm thủy chung qua bao đời của toàn dân Bình Định.
Cây me cũ, bến Trầu xưa,
Không nên tình nghĩa, thì cũng đón đưa cho trọn niềm.
Quang Trung đại đế đã gắn liền với địa danh Tây Sơn và Tây Sơn vĩnh viễn ngàn đời vẫn là niềm kiêu hãnh vô biên của con dân Bình Định và của toàn dân tộc Việt Nam.
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định, cầm roi đi quyền
Bình Định có nhiều sông và núi, phải chăng vì núi không cao và sông không sâu nên Bình Định đã phát về võ mạnh hơn là phát văn. Nói như thế, không có nghĩa Bình Định không có văn tài, một ông tổ hát bội Đào Tấn, một Quách Tấn, một Chế Lan Viên, một Hàn Mặc Tử rồi một Võ Phiến, một Nguyễn Mộng Giác, và một Tạ Chí Đại Trường như là những ngôi sao xa lạ và sáng chói trong vòm trời văn học Việt Nam.
Quang Trung người của lịch sử, một bậc anh hùng cái thế sống giữa hào quang rực rỡ của chiến thắng Đống Đa, không phải là điều để chúng ta bàn luận. Nhưng, nhân kỷ niệm lần thứ 207 Quang Trung đại thắng quân Thanh, chúng ta cùng nhau ôn lại cuộc tấn công thần tốc, chiến tích bình Thanh và sự nghiệp xây dựng đất nước của Ngài như ôn lại một niềm hãnh diện và tự hào của dân tộc và đồng thời cũng rút ra những bài học đoàn kết trong giai đoạn đánh đuổi ngoại xâm và xây dựng đất nước trong giai đoạn hòa bình.
Nhắc nhở giai đoạn lịch sử vẻ vang và oanh liệt này, vì nó đã gắn liền một cách sâu đậm với dòng sinh mệnh của dân tộc chúng ta, chỉ muốn soi rọi thêm một chút ánh sáng vào thời kỳ huy hoàng nhất, nhưng cũng ít được biết nhất trong dòng lịch sử cận đại vì chính sách trả thù nhỏ nhen của triều Nguyễn Gia Long. Họ đã thủ tiêu tận diệt, bôi xóa, vùi lấp và bưng bít toàn bộ di tích, di liệu và sử liệu của nhà Nguyễn Tây Sơn. Ước gì, mỗi năm các Hội Ái Hữu Đồng Hương Bình Định hay các sinh viên ban cao học, tiến sĩ tại các đại học, chọn một góc cạnh nào đó của phong trào Tây Sơn để làm chủ đề cho các đặc san Xuân của hội hoặc làm đề tài nghiên cứu cho luận án sử học, như anh Yokimoto, một sinh viên của trường Đại học Đông Kinh ở Nhật Bản, cách đây hơn mười năm đã xin chiếu khán đáp máy bay tới Việt Nam và tìm đến Gò Đống Đa, để tận mắt chiêm ngưỡng và nghiên cứu, làm thế nào mà Đại đế Quang Trung lãnh đạo quân dân Việt Nam, chỉ mất có 10 ngày đã phá tan 40 vạn quân phu Mãn Thanh, quét sạch bọn chúng ra khỏi bờ cõi Việt Nam.
Quang Trung đại đế mất đi, một mất mát to lớn của triều đại Tây Sơn và cả của dân tộc không lấy gì bù đắp... Ngài mất đi, như một ngôi sao sáng của vòm trời Việt Nam vừa chợt tắt, hoài bão xây dựng đất nước phú cường và đòi lại bảy châu ở Hưng Hóa đành phải bỏ dở dang, để lại muôn vàn khó khăn cho hậu thế. Núi sông còn đó, con cháu của Ngài còn đây, hãy vững niềm tin nhìn vào con đường trước mặt, vì những tấm gương anh hùng thời nào cũng có, họ sẽ nối bước Quang Trung mà xả thân hy sinh cho tiền đồ dân tộc. Lịch sử đang chuyển mình, những Quang Trung thời đại rồi đây sẽ xuất hiện.
Quang Trung là một anh hùng cái thế trong lịch sử, đó không phải là điều để bàn luận... Vậy chúng ta thử lạm bàn xem về cái tình cảm riêng của vị anh hùng dân tộc có một không hai này trong lịch sử Việt Nam, bằng vào những phát kiến mới về lăng mộ, về những người con và về những bà phi của Ngài.
Với quan niệm đa thê của người xưa, vua chúa thường có nhiều cung phi, nên Quang Trung cũng không ra ngoài cái thông lệ ấy. Nhưng nếu chúng ta tìm thấy thêm một số bà phi của Ngài thì sẽ cảm thấy thích thú và ngạc nhiên hơn, nhưng không nỡ hẹp hòi mà chê trách. Là một vĩ nhân thường thì có cuộc sống rất phi thường và trong tình cảm thì có lắm vấn đề như đa tình, lãng mạn... Nhưng với Quang Trung có một điều làm cho chúng ta thán phục là Ngài đã lập lên hai Hoàng hậu là Chánh cung Hoàng hậu Phạm thị Liên (theo Nhà Tây Sơn của Quách Tấn) và Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Ngoài ra, Ngài còn ngỏ ý cầu hôn với Công chúa nhà Thanh của Trung Quốc.
Trong sử sách chỉ ghi lại Quang Trung có hai người vợ là:
- Chánh cung Hoàng hậu họ Phạm:
Không ai biết được Nguyễn Huệ lập gia đình năm nào, nhưng chỉ biết rằng trong suốt chặng đường đánh Nam dẹp Bắc, vì dân vì nước Ngài đã có một người vợ họ Phạm quê ở Bình Định, là anh em cùng cha khác mẹ với Thái sư Bùi Đắc Tuyên và quan Hình bộ Thượng thư Bùi văn Nhật.
Theo Tây Sơn Tiềm Long Lục thì Nguyễn Huệ lấy bà họ Phạm năm 16 tuổi, đến năm 1789 thì được phong làm Hoàng hậu (30 tuổi). Bà Chánh cung họ Phạm có với Nguyễn Huệ ba trai và hai gái là Quang Toản được phong làm Thế tử, Quang Bàn được vua Cảnh Thịnh phong làm Tuyên Công Lãnh Đốc trấn Thanh Hóa và Quang Thiệu được phong làm Thái Tế. Còn hai người con gái thì một gả cho Phò mã Nguyễn văn Trị và một người nữa gả cho Nguyễn Phước Tư, có liên hệ xa gần với Nguyễn Ánh, ông là cháu sáu đời của Nguyễn Uông, anh ruột của Chúa Nguyễn Hoàng.
Sau một cơn bạo bệnh năm 1791, bà Chánh cung từ trần và chôn ở dưới chân núi Kim Phụng, cạnh thành phố Huế. được suy tôn miếu hiệu là: Nhân Cung Đoan Tĩnh, Trinh Thục Như Thuần Vũ Hoàng Chánh Hậu.
- Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân.
Mùa hè năm 1786 lấy danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, Nguyễn Huệ đánh chiếm Phú Xuân và mang lại một nền nhất thống quyền hành cho vua Lê Hiển Tông. Qua sự mai mối chớp nhoáng của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ đã cưới cô con gái thứ chín mới vừa tròn 16 tuổi của vua Hiển Tông. Để rồi cuộc đời của Ngọc Hân công chúa đã vĩnh viễn gắn liền với sự nghiệp vĩ đại của vị anh hùng non Tây áo vải cờ đào.
Sau khi lên ngôi năm 1789, Quang Trung đã phong cho Ngọc Hân công chúa làm Bắc cung Hoàng hậu. Bà đã có với vua Quang Trung một người con trai là Nguyễn văn Đức, và một con gái là Nguyễn thị Ngọc. Lúc chết được tôn miếu hiệu là: Như ý Trang Thận Trinh Nhất Võ hoàng hậu.
- Còn bao nhiêu bà thứ phi nữa:
Như ta đã thấy, ngoài hai bà Chánh cung Hoàng hậu họ Phạm ở Quy Nhơn và Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân ở Thăng Long mà sách sử đã thường nhắc đến. Trên thực tế, vua Quang Trung còn bao nhiêu bà thứ phi nữa? Theo như những phát kiến mới. Ngài đã có ít nhất là ba bà vợ nữa.
- Bà Thứ phi Nguyễn thị Bích:
Theo như tôn phổ dòng họ Nguyễn viết bằng chữ Hán; ở làng Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng, Quảng Trị thì cô con gái út của ông Nguyễn văn Cẩn (1712-1771 giữ một chức quan nhỏ vào mạt kỳ thời chúa Nguyễn ở Phú Xuân) và bà Nguyễn thị Ai (1714-1772) đã gả cho vua Quang Trung.
Nguyên văn chữ Hán ghi:
Nguyễn thị Bích giá vu Quang Trung hoàng đế bổn thôn xuất đinh, tịch tự thử thủy tốt vu cửu nguyệt. Sơ thập nhật, mộ tại Vĩnh Ân thôn, gò Thỏ xứ.
Khi nhà Tây Sơn sụp đổ bà Nguyễn thị Bích đã trốn về Vĩnh Ân, huyện Phù Cát. Như vậy bà là nhân chứng cuối cùng của gia đình Tây Sơn, đã chứng kiến trọn vẹn trang sử đầy bi hùng của triều đại Tây Sơn dưới thời huy hoàng của vua Quang Trung và dưới thời suy tàn của vua Cảnh Thịnh. Bà Nguyễn thị Bích có một con trai với vua Quang Trung, nhưng không biết có còn được sống sót sau những năm tháng bị vua Gia Long truy lùng và tận diệt hay không? Đó là một câu hỏi được nêu lên về khả năng tìm kiếm dòng máu còn sót lại của vị anh hùng dân tộc ngay trên chính quê hương của Ngài.
- Bà thứ phi Trần thị Qụy:
Theo như gia phả họ Trần ở Hội An Quảng Nam cho biết: Thủy tổ họ Trần có nguồn gốc ở Thăng Long. Đến đời thứ năm sinh ra ông Trần Công Thành và ông sinh ra bảy người con, có một người con gái là bà Trần thị Qụy. Quý phi của vua Quang Trung. Khi nhà Tây Sơn thất thế, bà đã bị Nguyễn Ánh xử tử hình tại đất Kim Bồng (nay là xã Cẩm Kim, thị xã Hội An) bà bị chém đầu rồi thả trôi sông, thi hài của bà được dân làng bí mật vớt lên khâm liệm và mai táng. Bia mộ còn ở xứ Trà Quân, xã Cẩm Thanh, Quảng Nam. Hiện tấm bia trên mộ còn khắc các chữ: Nam Cố, Đông Châu Tiền Triều Hoàng Hậu Thứ Phi Tự Qụy - Trần Tổ Cô Mộ. Mậu Tuất Hạ, Nguyệt Nhật Kiết.
- Bà Thứ phi họ Lê:
Bản gia phả và văn tế của Ngài Thi Tổ dòng họ Nguyễn có ghi:
Ngài thỉ tổ ta có một người họ Lê, quán tỉnh Quảng Ngãi, huyện Mộ Đức, làng Bồ Đề. Ngài là công thần nhà Tây Sơn, chức Đô đốc, Ngài có bà chị là vợ vua Quang Trung và bà có một con trai. Nhưng vì vận trời thay đổi nên nhà Tây Sơn phải sụp đổ. Gặp cảnh tang thương, nên các con của Ngài đều lưu lạc ra tỉnh này lánh nạn, do đó đã đổi họ Lê ra họ Nguyễn.
Bản gia phả còn ghi:
Đời thứ nhất tiền khai khẩn thỉ tổ khảo húy Sáu Thụy Trung Dũng Đệ Tam Lang.
Chưa có khám phá nào cho chúng ta biết tên và cuộc đời của bà Thứ phi này, cũng như vị Hoàng tử của vua Quang Trung do bà sinh ra như thế nào? Lại nữa, trong lịch sử thường nhắc đến Tiết chế Nguyễn Quang Thùy, phải chăng ông là con của vua Quang Trung và bà thứ phi họ Lê ở Quảng Ngãi? Nếu không phải, thì Quang Thùy là con ai và người con của bà thứ phi họ Lê là một Hoàng tử khác nữa chăng? Đây là một trường hợp mà nhiều người vẫn lầm tưởng, kể cả vua Càn Long nhà Thanh, đã phong Quang Thùy làm Thế tử vì tưởng rằng ông là con trưởng vì ông lớn hơn Quang Toản, lại có tên trong danh sách sứ bộ của Giả vương Phạm Công Trị đi Trung Quốc chúc thọ bát tuần vua Thanh năm 1790. Về sau biết sai lầm nên đã phong lại cho Quang Toản là Thế tử. Theo như thư của một Giáo sĩ (Le Labousse năm 1793) tiết lộ sau ngày Quang Trung mất, thì Quang Thùy là con của một nàng hầu. Như vậy ai là mẹ của Quang Thùy? Và tại sao bà này lại không được phong làm Hoàng hậu? Đó là những vấn đề đang chờ đợi những khám phá mới của các nhà nghiên cứu lịch sử, rất có thể ánh sáng soi rọi vào, đây là bà vợ đầu tiên của vua Quang Trung.
Mỗi một trang sử cũ là một phần tâm huyết của cha ông để lại. Mỗi một khám phá mới là một tài liệu trân quý vô vàn. Nhưng, với sự dè dặt thường lệ, bằng vào các tài liệu của gia phả, nó chỉ là một mớ tư liệu của gia đình đầy thiên kiến và nặng tính chủ quan, nên rất khó lượng định mức độ khả tín của sự thực lịch sử. Bởi vậy những phát kiến mới mà chúng ta thấy chỉ là một tiền đề gợi ý với sự hoài nghi cố hữu về tính cách xác tín của tài liệu. Khám phá mới nào cũng phải chờ sự cẩn trọng gạn lọc, đánh giá và phán xét của thời gian.
Đặc san Tây Sơn, Xuân Bính Tý (1996)
(Trang 114-117)