Công chúa Ngọc Hân: Bắc cung Hoàng hậu triều Quang Trung-Nhất Thanh
Công chúa Ngọc Hân là con gái thứ 9 [1] của vua Lê Hiển Tông (1740-1786) và bà Hoàng hậu Chiêu Nghi [2] húy Nguyễn thị Huyền làng Phù Ninh (tục gọi làng Nành) tổng Hạ Dương, huyện Đông Ngàn (trước 1946 là phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Truyền rằng Bà người kiều diễm, phong tư khác thường cho nên đời bấy giờ gọi bà là Chúa Tiên, bà thông minh, từ nhỏ được tập rèn kinh sử, lại giỏi thơ văn quốc âm, Bà được vua cha thương yêu rất mực.
Công chúa Ngọc Hân và Vua Quang Trung.
Từ năm Giáp Ngọ (1774) Thuận Hóa thuộc về bờ cõi đất vua Lê chúa Trịnh. Năm Bính Ngọ (1786) cuối mùa xuân phiên trấn Thuận Hóa là Tạo quận công Phạm Ngô Cầu sai Dương Lĩnh Bá, Nguyễn Phú Như vào đất Tây Sơn thương nghị việc biên giới hai bên. Vì quen biết Nguyễn Hữu Chỉnh, Phú Như nói hết tệ trạng Đàng ngoài và cho biết có thể đánh chiếm Thuận Hóa rồi đánh thẳng ra Bắc Hà. Chỉnh bèn tâu bày với vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc xưng đế năm Mậu Tuất 1778, đặt niên hiệu là Thái Đức) cách thức đánh thẳng vào Phú Xuân, lấy đất Thuận Hóa. Nguyễn văn Bình (tên trước là Nguyễn Huệ) lãnh ấn nguyên súy đem quân thủy bộ ra đánh thắng dễ dàng, sau được vua Thái Đức phong cho làm Bắc Bình vương.
Từ Phú Xuân quân Tây Sơn tiến thẳng ra Bắc với danh hiệu phù Lê diệt Trịnh. Đánh đến Vị Hoàng (tỉnh Nam Định ngày nay) nguyên súy Nguyễn văn Bình làm tờ tâu nói rõ ý tôn phù, sai người lẻn lên kinh thành dâng vua Lê.
Ngày kinh thành bị hạ Nguyễn văn Bình đem quân vào thành, sai trấn giữ cung điện, ai nấy ngỡ là “giặc” đến bức nhà vua, bảo nhau nâng Hoàng thượng dậy (vua đang nằm bệnh) dìu ngài ra phía vườn sau để trốn. Chợt thấy một viên tì tướng quỳ dâng tờ tâu thỉnh an vua và xin ngày khác sẽ vào triều yết.
Sáng sớm hôm sau, nguyên súy Tây Sơn Nguyễn văn Bình cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh vào cung Vạn Thọ. Vua nằm trong chăn sai vén màn lên, cho mời vào. Nguyên súy sụp lạy năm lạy ba vái, vua sai Hoàng tử ra nâng dậy và mời ngồi trên một chiếc sập cạnh sập ngự. Vua truyền pha trà bưng ra thết.
Nguyên súy nói ra diệt Trịnh và cầu chúc vua khỏe mạnh cai trị thiên hạ. Hoàng thượng ngỏ lời cảm ltạ, và phàn nàn vì thanh bạch không có vật gì đáng biếu tặng.
Vài hôm sau, Nguyên súy chọn ngày vào làm lễ long trọng triều yết vua. Ngày 7 tháng 7 năm Bính Ngọ (1786) thiết đại triều ở điện Kinh Thiên đông đủ các quan. Nguyên súy vào làm lễ, dâng tờ tâu nói về công diệt Trịnh và dâng sổ sách dân, quân. Hôm sau vua sai đem chiếu sách đến dinh phong chức Nguyên súy Phù chính dực Vũ Uy quốc công. [3]
Sau đó, Nguyên súy bảo riêng với Chỉnh: “Ta đem quân ra đây chỉ đánh một trận dẹp yên được cả. Một hòn đất, một tên dân của nước Nam đều là của ta, ta muốn xưng đế xưng vương gì chẳng được, nhưng ta muốn xử trọng hậu với nhà Lê đó thôi, chứ cái chức Nguyên súy Quốc công với ta có hơn gì. Hay là nước Nam muốn lấy những danh từ hão ấy mà lung lạc ta? Ta không nhận thì sợ Hoàng thượng bảo ta kiêu căng. Nhận mà không nói lại sợ người trong nước chê ta là man mọi”.
Chỉnh biết ý Bình bất mãn liền đặt ra chuyện vua đã phàn nàn vì nghèo không có vật gì đáng tặng, bản ý chỉ muốn ràng buộc tình thân hai họ để hai “nước” đời đời là thông gia; ngài biết mình đã tuổi già, cũng mong muốn được ông khuông phù. Nhưng vì chưa biết ý ông cho nên chưa dám nói rõ.
Chỉnh thấy Bình bằng lòng bèn vào tâu vua. Vua còn mấy vị công chúa chưa gả chồng, liền cho gọi tất cả ra. Vua đã bảo trước cho Chỉnh biết Ngọc Hân công chúa, năm ấy 16 tuổi, là hơn cả, Chỉnh cũng nhận thấy như vậy, và nói chắc việc thế nào cũng xong.
Sau khi được vua hạ chỉ gả Ngọc Hân công chúa, Uy quốc công chọn ngày mồng mười tháng ấy làm lễ thành hôn, dâng sính lễ vàng bạc gấm đoạn [4], dàn bày cờ quạt gươm giáo, sai viên Hình bộ Thượng thư tiến lễ cùng tờ tâu vào điện Vạn Thọ. Vua sai Hoàng tử tiếp nhận lễ vật, và truyền chỉ các vị hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ sửa soạn xe ngựa võng lọng, ngày hôm sau đưa dâu.
Sáng sớm hôm sau, suốt từ cửa điện đến cửa phủ quân lính sắp hàng đứng hai bên đường với binh trượng cờ xí nghiêm chỉnh. Dân chúng trẻ già trai gái đi xem đông như nêm cối, ai nấy đều cho là việc ít có xưa nay.
Nguyên súy Uy quốc công ngồi kiệu rồng vàng ra cửa phủ đón xe công chúa vào. Một tiệc lớn được bày thết các hoàng thân, hoàng phi và các quan đi đưa dâu. Yến tiệc xong, Nguyên súy sai đem ra hai trăm lạng bạc làm lễ tặng nhà gái, và tiễn đưa khách ra khỏi cửa phủ mới trở vào.
Các quan trở về hội ở công đường bộ Lễ, mọi người đều khen nhà vua kén được rể quý, nước Nam ta từ nay có “nước” dâu gia.
Hôm vào làm lễ yết ở nhà Thái miếu, lúc ra về công chúa và Bình cùng gióng kiệu đi về phủ, nét mặt hân hoan; nhiều người thấy yên lòng, hết thấp thỏm e ngại cho công chúa.
Bình có ý kiêu, đã có lần hỏi công chúa: “Con trai, con gái nhà vua đã mấy ai sung sướng như công chúa”? Công chúa đáp: “Nhà vua ít lộc, con trai con gái đều bần bạch. Riêng tôi may mắn lấy được ông lớn, khác nào hạt mưa rơi vào nơi đài các [5].
Ngày 17 (vẫn tháng 7 năm Bính Ngọ) sáu ngày sau lễ cưới, vua Hiển Tông băng. Nguyên súy phò mã dự phần chủ tang lễ và lập tự tôn kế vị là Mẫn đế.
Một tháng sau, công chúa theo chồng về Thuận Hóa, cùng với vua Thái Đức đã từ Quy Nhơn lật đật ra Thăng Long nghe ngóng tình hình.
Năm Mậu Thân (1788) trước khi ra Bắc đánh quân nhà Thanh (đã mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long) Bắc Bình vương lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu là Quang Trung lo chỉnh đốn mọi việc, lập Ngọc Hân làm Bắc cung hoàng hậu, lập con đích là Quang Toản làm Thái tử. [6]
Ngô Tất Tố trong Thi văn bình chú, Mai Lĩnh, Hà Nội 1952, viết: Bà được phong làm Hữu cung hoàng hậu (không ghi xuất xứ).
Nhật Nham trong Tri Tân số 35 ngày 18-2-1942 viết: Vua Quang Trung sách lập Ngọc Hân công chúa làm Hữu cung, Như Ý hoàng hậu (cũng không ghi xuất xứ), và chú giải nơi dưới bài văn tế Ngọc Hân tế vua Quang Trung về hai chữ “Cung Hữu”. Như vậy, Nhật Nham đã ghép lẫn danh hiệu Hoàng hậu của Bà lúc còn sống với miếu hiệu của Bà lúc đã chết, lại lẫm lộn Nhu ý với Như ý.
Có lẽ người ta đã căn cứ vào hai chữ “cung hữu” dưới đây trong bài văn tế mà cho rằng Bà là Hữu cung hoàng hậu:
“Cung hữu rạng màu địch phất, tình ái ân muôn đội nhà vàng”.
Công chúa cùng với vua Quang Trung ở Phú Xuân, sinh được hai con, một gái, một trai. Có thuyết cho rằng bà không có con (sẽ đề cập ở dưới).
Hương lửa đang nồng, được bảy năm, thì vua Quang Trung băng. Bà lấy vua Quang Trung năm 16 tuổi, góa năm 23 tuổi.
Ngọc Hân công chúa không tái giá.
Bulletin des Amis du Vieux Huế số 4 năm 1941 có đăng bài Les Caprices du Génie des mariages ou l’extraordinaire destinée de la princesse Ngọc Hân (“Ông Tơ Bà Nguyệt đa đoan” hay là “duyên số ly kỳ của Ngọc Hân công chúa”) của Việt Thường kể lại cuộc gặp gỡ giữa Gia Long và Ngọc Hân với lời can gián vô hiệu quả của Lê văn Duyệt. Không dẫn chứng do sử liệu nào, và câu chuyện viết như có nhuốm màu tiểu thuyết.
Thực lục chính biên đệ nhất kỷ và Liệt truyện tiền biên sơ tập có chép việc quân của Nguyễn Ánh đánh lấy kinh đô Phú Xuân, Quang Toản bỏ thành chạy ra Bắc, và sau biết thế không chống nổi, cùng em là Quang Thùy, Quang Duy, Quang Thiệu, với Tư mã Nguyễn văn Dụng, Nguyễn văn Tứ, Đô đốc Tú vượt sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc, sau đều bị bắt, trừ Quang Thùy tự thắt cổ chết. Trong việc này sử không hề nói đến bà Ngọc Hân và hai con bà.
Bách Khoa số 101 ngày 15-3-1961 đăng bài “Phải chăng vua Gia Long và vua Quang Trung là hai anh em bạn rể” của Bửu Kế viết: “Câu chuyện vua Gia Long kết duyên với Ngọc Hân công chúa ở Huế vẫn có dư luận đó...”
Sở dĩ có dư luận như vậy vì theo bài của Việt Thường đã nói ở trên thì trong số đền đài tản mác đó đây nơi cố đô Huế có nhà thờ của hai ông hoàng Quảng Oai quận công và Thường Tín quận công, đều là con vua Gia Long. Trong Liệt truyện có chép tiểu sử hai ông hoàng này vắn tắt như sau: “Quảng Oai công, con thứ mười của Thế Tổ, mẹ là bà Đức phi họ Lê, năm Gia Long thứ 15 được phong Quảng Oai quận công”. Ông Bửu Kế đã tra cứu Ngọc điệp, Hoàng tử, Hoàng nữ phổ trong Tôn nhân phủ, thấy có chép về hai ông Quảng Oai và Thường Tín như sau: “Mẹ họ Lê tên húy là Bình, người làng Lam Sơn, huyện Thoại Nguyên tỉnh Thanh Hóa, con út cửa vua Lê Hiển Tông. Bà sinh giờ Qúy Hợi, ngày 12 tháng Chạp múa đông năm Giáp Thìn (1784); năm Tân Dậu (1801) vào chầu hầu, chẳng bao lâu được phong lên Tả cung tân. Ngày 12 tháng 9 mùa thu năm Gia Long thứ 9 (1810) mất, tặng Đức phi, thụy Cung Thận, tẩm mộ tại làng Trúc Lâm, nhà thờ tại Kim Long xã, sau dời qua làng Phú Xuân. Sinh hai con trai, hai con gái, hoàng trưởng tử là ngài Quảng Oai húy Quân, hoàng nhị tử là ngài Thường Tín, húy Cự, hoàng trưởng nữ là An Nghĩa công chúa húy Ngọc Ngôn, hoàng nhị nữ là Mỹ Khê công chúa húy Ngọc Khê” (bà này sau lấy con nuôi của Lê văn Duyệt). Ông Bửu Kế kết luận: “Có lẽ người ta đã lầm bà Lê thị Bình với Ngọc Hân công chúa, vì hai bà đều con vua Lê Hiển Tông cả”.
Phải chăng cũng do lời đồn như đã nói trên mà Ngô Tất Tố đã viết trong Thi văn bình chú: “Trong đời Gia Long ở làng Phù Ninh cũng có một người được làm cung phi, vẫn gọi là bà chúa Nành. Vì thế người ta tưởng là bà Ngọc Hân sau có lấy vua Gia Long. Sự thực thì bà không biết mặt vua ấy bao giờ”.
“Ngọc Hân công chúa dật sự” (Nam Phong số 103 đã dẫn trên) chép: “... Dòng dõi nhà Tây Sơn không còn sót một ai. Công chúa Ngọc Hân vì là con của vua Lê được khỏi nạn, năm ấy đã 32 tuổi mà tư sắc vẫn đẹp chưa hề suy giảm. Vua Thế Tổ bổn triều (Gia Long) để yên bà ở một dịch đình (nhà ở bên cạnh cung điện) cho người hầu hạ. Bầy tôi có người cho rằng công chúa là của thừa Tây Sơn, can gián vua. Vua bảo: ‘Đất đai nhân dân ngày nay không một thứ gì là không phải của thừa Tây Sơn, thì sao?’ Sau vua Gia Long cho công chúa về quê quán của mẹ thuộc tỉnh Bắc Ninh, cho đến lúc bà mất”. [7] Vậy thì rất có thể đã có lúc vua Gia Long muốn lấy công chúa Ngọc Hân, nhưng nghĩ rồi lại thôi; hoặc vì lời can gián của một đại thần, hoặc vì e sợ lòng người (đại đa số trí thức Bắc Hà) còn quy phụ nhà Lê mà “phải” kiêng nể không dám giết không dám lấy, lại để cho bà về quê mẹ” [8]
Còn một lẽ nữa dễ hiểu hơn: về phần công chúa Ngọc Hân, khó có thể bà chịu khuất mình, dù là với vua Gia Long; bà không phải là người tầm thường, lại có học nhiều, cái học đặt trọng tam cương ngũ thường, không dễ gì bà cam chịu làm điều trái cương thường. Bà lại có hai con với vua Quang Trung (thuyết này sẽ bàn cãi ở trương sau), nếu bà bị bắt với hai con hay bị bắt một mình đi nữa, hẳn bà thương xót con, và không thể nào làm ngơ về số mệnh của con trong khi vua Gia Long chẳng bao giờ chịu để cho dòng máu Nguyễn Tây Sơn còn nối dõi, vậy giết con và lấy mẹ, một người mẹ như bà Ngọc Hân, là việc không ổn, chắc hẳn không xong; bị cưỡng bức bà sẽ tuẫn tiêt. Nếu quả có bắt được bà, muốn mà không sao được, ấy là chưa kể nỗi e sợ dân Bắc Hà, thì đành “tha làm phúc”.
Đến đây ta có thể đoán ra bà Ngọc Hân có bị bắt ngay tại Phú Xuân hay bị bắt đem về đấy, do đó có dư luận truyền lại vua Gia Long đã lấy bà; sự thực thì vua Gia Long có lấy một bà công chúa con vua Lê Hiển Tông, em cùng cha khác mẹ với bà Ngọc Hân.
Để kết luận, ta có thể tin chắc Ngọc Hân công chúa không tái giá với vua Gia Long, thuyết này sẽ được chứng minh thêm ở chương sau: Bà chết ở quê mẹ, táng ở đây, là làng Phù Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
Bà Ngọc Hân mất năm nào?
Đỉnh Tập quốc sử di biên [9] chép:
“Giáp Tý năm thứ ba (tức là năm Gia Long thứ ba, 1804)
Tháng 5 ngày 21..................
Bà Công chúa nhà Lê tên là Ngọc Hân chết.
Đời vua Cảnh Hưng nhà Lê năm Bính Ngọ (1786) đem gả bà Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn; đến khi Tây Sơn mất nước, bà Ngọc Hân ra trốn ở làng mẹ là làng Phù Ninh, khi bà ấy mất, có quan nhà Tây Sơn khi ấy đương làm quan ở huyện Đông Ngàn mới xin phép vua làm lễ chôn, vua cho. Sau dân ở huyện Phù Ninh cũng lập nhà thờ để thờ bà ấy”.
Liền trên là ba dòng chữ chép một việc khác, đầu câu viết: ngũ nguyệt nhị thập nhất nhật (tháng năm ngày 21); liền dưới là chép việc tháng sáu (xem ảnh bản chữ Hán).
Như vậy theo lối biên niên trong việc chép sử thì bà Ngọc Hân mất ngày 21 tháng 5 hoặc sau đó ít ngày.
Cũng Đỉnh Tập quốc sử di biên (bản dịch) chép:
“Có người làng Phù Ninh, tên là tổng Phụng, cậy quyền thế là người làng họ bà Công chúa, tranh kiện với dân, việc đến tai vua. Vua giận lắm, truyền bắt tội tên tổng Phụng, và ngày 28 tháng 4 năm Qúy Mão (năm Thiệu Trị thứ ba, 1843) sức đào mả bà Ngọc Hân công chúa đổ xuống sông, và bán ruộng bán nhà thờ bà ấy”.
Sách và tập san xuất bản gần đây viết khác nhau về chung cục của bà Ngọc Hân, không dẫn chứng tài liệu lịch sử, như:
Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố viết: Khi nhà Tây Sơn mất nước, bà và các con đổi tên họ lẩn vào ở ẩn trong một làng nhỏ tỉnh Quảng Nam. Nhưng không bao lâu có kẻ phát giác, bà phải uống thuốc độc tự tử, hai con đều thắt cổ chết.
Triều Tây Sơn của Phan Trần Chúc cũng viết: Ẩn lánh ở Quảng Nam rồi bị bắt, xử “tam ban triều điển”.
Quốc Văn Đời Tây Sơn của Hoàng Thúc Trâm viết: Thuyết khác lại cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, bà cùng hai con, một trai một gái, phải giả dạng làm vợ một người lái buôn, trốn tránh vào một miền quê ở tỉnh Quảng Ngãi (?) được ít lâu tung tích bại lộ, bà và hai con cùng bị triều Nguyễn gia hình bằng “tam ban triều điển” [10], nhưng ông đã bác thuyết này.
Trung Bắc chủ nhật số 53: Sở Bảo viết có về làng Phù Ninh, được mấy vị cố lão kể cho nghe về thân thế bà Ngọc Hân. Theo lời ông thì sau khi nhà Tây Sơn mất, Ngọc Hân công chúa đem hai con về ẩn trốn một nơi tỉnh Quảng Nam, con trai đổi tên là Trần văn Đức, con gái đổi tên là Trần thị Ngọc Bảo, chẳng bao lâu tung tích bị bại lộ, cả ba mẹ con bị bắt và xử “Tam ban triều điển”. Năm ấy bà 30 tuổi, con gái 13, con trai 10. Sau bà Chiêu Nghi (mẹ đẻ bà Ngọc Hân) cho người đi lấy di hài con cháu về chôn ở làng Phù Ninh và lập đền thờ. Vài năm sau vì có việc ghen ghét tố giác, triều đình bắt tội mấy kỳ hào đã công nhiên cho xây lăng và đền thờ “ngụy hậu”, sai phá hủy đền, đào xương đổ xuống sông.
Vẫn theo lời Sở Bảo, họ Nguyễn ở làng Phù Ninh cũng có một thiếu nữ đẹp tên là Nguyễn thị Ngọc Bình được chầu vua Cảnh Thịnh. Được vài năm nhà Tây Sơn mất, bà Ngọc Bình trốn đi tu rồi bị bắt đưa về tiến chầu vua Gia Long.
Nếu quả là lời hoàn toàn của cố lão làng Phù Ninh mà Sở Bảo chỉ thuật lại, thì ta cũng không khỏi thắc mắc về việc còn nhớ rành rẽ họ tên đã được thay đổi của hai con Bà sau hơn 130 năm đã qua. Tuổi của bà và của hai con cũng được nhớ rõ ràng, nhưng đối chiếu với năm sinh của Bà (1770) thì thấy sai lệch ít năm; về việc phá đền đào xương có lẽ không phải vài năm sau, vì là việc vua Gia Long vẫn e dè - nếu không muốn nói e sợ - chưa dám làm. Ta nhớ rằng Đỉnh Tập quốc sử di biên chép việc ấy rõ ngày, tháng, năm, xảy ra đời Thiệu Trị nghĩa là hơn 40 năm sau khi vua Gia Long xưng đế, vào lúc ngai vàng họ Nguyễn Phúc đã có cơ sở vững chắc, vua Thiệu Trị không còn thấy “phải” kiêng nể con cháu nhà Lê và dân Bắc Hà.
Trong Quốc Văn Đời Tây Sơn Hoàng Thúc Trâm căn cứ vào năm bài văn tế do Dụ am Phan Huy Ích (1750-1822) soạn thảo, mà ông đã tìm ra và chưa được ấn hành: một bài cho vua Cảnh Thịnh, một bài cho các con gái vua Quang Trung, một bài cho Phù Ninh Từ cung là mẹ bà Ngọc Hân, một bài cho cựu hoàng tông là những người trong tông thất nhà Lê và một bài cho các bà con họ ngoại bên Phù Ninh, để đọc trong những tuần tế điện bà Ngọc Hân. Ông đã căn cứ vào năm bài văn tế này mà cho rằng bà mất năm Kỷ Mùi (1799) ba năm trước khi nhà Nguyễn Tây Sơn mất ngôi. Ông viện dẫn sách văn truy tôn miếu hiệu Nhu Ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ hoàng hậu có câu “Tố thập tứ niên vi việc đồng thư”... (cuốn sách rực rỡ viết bằng cây bút quản đỏ chép công đức bà trong mười bốn năm...) để suy luận đó là sách phong bà Ngọc Hân vì từ năm Bính Ngọ bà kết duyên với vua Quang Trung đến năm Kỷ Mùi bà mất là 14 năm nếu tính năm, không tính tháng.
Vẫn theo ông, nếu bảo rằng những chứng cớ trên còn chưa đủ vì vua Quang Trung có hai bà hậu, e có thể họ lẫn lộn với bà họ Phạm sinh ra vua Cảnh Thịnh, thì còn có sách văn khác gia tôn miếu hiệu cho hoàng tỉ (mẹ đẻ vua Cảnh Thịnh) là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ hoàng chính hậu; tiếc rằng ông không nói đến niên hiệu sách phong này và cũng không chú dẫn xuất xứ.
Sử chép [11]: Thái sư Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái hậu (triều Cảnh Thịnh), thì hẳn phải còn có bà hậu họ Bùi nữa là ít ra ba bà, nếu bà họ Phạm không phải là cùng mẹ khác cha với Thái sư như ông Thiết Mai đã viết mà không dẫn chứng (Văn hóa nguyệt san số 64 tháng 9-1961). Theo thư từ trao đổi giữa mấy giáo sĩ ngoại quốc (sẽ viện dẫn ở dưới) thì vào khoảng tháng 3 năm 1791 có một bà hậu Tây Sơn mất nếu dựa vào văn sách nói 14 năm là sách phong bà Ngọc Hân thì không chắc, vì bất cứ bà hậu nào từ lúc lấy vua hay từ lúc vua lên ngôi hay từ lúc được phong Hoàng hậu đến khi vua băng hay đến khi bà mất, nếu tính ra được 14 năm đều hợp cả.
Chắc nội dung sách văn không nói rõ là phong cho bà Ngọc Hân cho nên Hoàng Thúc Trâm phải viện dẫn câu “Tố thập tứ niên...” và viện dẫn một sách văn khác cho là phong bà chính hậu, thì chung quy cũng vẫn là nghi vấn.
Mặt khác một giả thuyết cần được đặt ra: Các cụ nho xưa phần vì ưa chuộng văn chương phần vì cám cảnh, thường làm văn tự sự chơi, làm đối liên, làm văn tế, than vãn người hay việc đã qua, như bài ca Chính khí Hà thành thất thủ, bài văn tế Nguyễn Duy Hàn, câu đối điếu Hoàng Diệu, điếu Phan Châu Trinh... hoặc chê trách hoặc ca tụng, tùy trường hợp, không phải để phúng để đọc ở nhà đám. Rất có thể Phan Huy Ích cũng như nhiều nho sĩ khác dần dà về sau đã làm thơ, làm đôi liên, làm văn tế để tưởng niệm, nhưng vì không công bố ra nên không được biết hết. Năm bài văn tế của Phan Huy Ích có tính cách “danh sơn sự nghiệp” [12] đúng theo nghĩa nguyên thủy. Phan Huy Ích cũng như Ngô Thì Nhiệm, vì đã giúp dặp vua Quang Trung nhiều, bị đình thần triều Gia Long kết tội căng nọc đánh ở trước Văn miếu Hà Nội, rồi được tha về. Từ đó ông dạy học, sống đời thanh bạch của một cựu thần nhà Tây Sơn, có cảm khái làm những bài văn tế kia tưởng không lấy làm gì lạ. Nhưng có lẽ ông đã phải thận trọng e dè “thắng tả niên hiệu” như các cụ thường nói (ghi ngày tháng năm ngược về trước) để phòng khi có vỡ chuyện thì còn bút tích đây chứng tỏ làm đã lâu rồi (dù là làm để sẵn đấy) lúc còn nhà Tây Sơn, chứ không phải là vẫn cay đắng trong lòng và vẫn còn luyến tiếc mà làm văn tế lúc Gia Long đã lên ngôi rồi. Bài thứ nhất, theo Hoàng Thúc Trâm, đầu đề là “Kỷ Mùi đông, nghĩ Ngự điện Vũ hoàng hậu tang, quốc âm văn” (mùa đông năm Kỷ Mùi (1799) nghĩ đỡ nhà vua bài văn quốc âm để tế điện Vũ hoàng hậu). Mấy tiếng “nghĩ đỡ nhà vua” cũng làm ta suy nghĩ, nếu quả thực làm năm Kỷ Mùi thì có lẽ phải viết: “Kính cẩn vâng mệnh vua, làm”.
Trong năm bài văn tế không có bài nào làm riêng cho con đẻ của bà Ngọc Hân, mà có bài làm cho những người trong tôn thất nhà Lê và cả cho bà con họ ngoại ở làng Phù Ninh. Lại còn bài làm cho bà Chiêu Nghi, mẹ khóc con bằng văn tế đem ra đọc lúc tế điện là việc xưa nay chưa từng có trong phong tục về tang lễ của nước ta (cha mẹ không đi đưa đám con là ý rằng không đi chôn con, cha mẹ không làm văn tế con vì là nghịch cảnh, trái đạo thường). Đó lại là điểm khiến ta nghi ngờ thêm không phải là những bài văn tế để tế điện ngay sau khi bà mất.
Một điểm nữa cũng khiến ta nghĩ ngợi băn khoăn: Phan Huy Ích theo Bắc Bình vương ngay từ buổi đầu (1786), năm sau một bà Hoàng hậu của vua Quang Trung mất, tang lễ vô cùng linh đình trang trọng mà sao không thấy có văn tế của ông làm cho Thái tử, cho vua hay ít nữa cho bất cứ ai trong họ ngoài triều [13]. Nếu về sau ông làm một lúc năm bài văn tế để tế điện bà Ngọc Hân thì hành động có vẻ bên trọng bên khinh, ít nhất về bề ngoài, đối với bà Hoàng hậu mất năm 1791, dù là bà họ Phạm sinh ra Thái tử Quang Toản hay là bà họ Bùi em một Thái sư Bùi Đắc Tuyên, Phan Huy Ích đã không làm gì thì về sau đối với công chúa nhà Lê ông cũng phải dè dặt không dám ngang nhiên tỏ ra quá thiên lệch, nhất tâm tưởng vọng.
Quốc văn đời Tây Sơn có đoạn: “... Trong Dụ am văn tập và Dụ am ngâm lục, ngoài những thơ văn chữ Hán, Huy Ích còn ít tác phẩm bằng quốc văn: độ ngót chục bài văn tế nôm và hơn chục bài thơ nôm, ấy là không kể những bài quốc văn như đã dẫn, (tức là mấy bài văn tế kể trên), điều này chứng tỏ ông thích quốc văn, thích làm văn tế, và vì hoài niệm cố Lê rất có thể ông đã ‘làm chơi’ cả năm bài”.
Tìm hiểu chung cục của Bắc cung Hoàng hậu thì phải nói đến con bà:
Đại Nam liệt truyện tiền biên sơ tập cũng như Thực lục chính biên đệ nhất kỷ không hề chép Ngọc Hân công chúa có con với vua Quang Trung. Nếu vua Gia Long đã ngầm sai giết riêng con bà vì những lý do đã nói ở phần trên, thì sử quan triều Nguyễn chẳng bao giờ đả động đến con bà, là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, những truyện bà và hai con chạy trốn, cũng như Triều Tây Sơn của Phan Trần Chúc chép rõ cả tên hai con bà và Trung Bắc chủ nhật bài của Sở Bảo thuật lại rõ tên họ đã thay đổi của hai con bà; thêm vào đấy văn tế Bà tế vua Quang Trung, Ai tư vãn Bà khóc vua Quang Trung, văn tế Phan Huy Ích làm cho Cảnh Thịnh, cho các công chúa, đều có nói đến con Bà, thì không lẽ đều là truyện hoàn toàn bịa đặt.
Văn tế Bà tế vua Quang Trung có câu:
Liều trâm thoa mong theo chốn thân du, da tóc trâm thân nào có tiếc,
Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương.
Bài Ai tư vãn có những câu:
Còn trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thương chưa thoát được đi.
.........................
Nửa cung gãy phím cầm lành
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ.
Bài văn tế Phan Huy Ích soạn cho vua Cảnh Thịnh có câu:
Hồ Đỉnh ngậm ngùi cung nọ, sắp nắp chìm châu nát ngọc đã từng nguyền.
Cung khôn bận bịu gối nao, ếp vì (?) vun quế quến lan nên hãy gượng.
Bài văn tế của các Công chúa con vua Quang Trung có câu:
Dầu gót ngọc vui miền tịnh độ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ,
Dầu xiêm nghê vắng cảnh thanh đô, nỡ nào lảng một bóng tang du hầu xế.
La Geste Française en Indochine của Georges Taboulet quyển I có bài “Le châtiment des derniers Tây Sơn” do một giáo sĩ viết kể lại việc hành hình vua Cảnh Thịnh, bà Bùi thị Xuân, quan Thiếu phó Trần Quang Diệu, ở Huế tháng 8 năm 1802, không thấy nói đến Bắc cung Hoàng hậu và hai con Bà.
Đại Nam liệt truyện sơ tập có chép việc “quật phá mộ phần của Nhạc và Huệ, nghiền bỏ hài cốt, giam sọ vào ngục thất, triệt hạ ấp Tây Sơn, đổi tên ra ấp An Tây. Năm Minh Mệnh thứ 12 lại bắt được con của Nhạc là Văn Đức và Văn Lương, cháu là Văn Đâu (con của Văn Đức) đều bị tội chém ngang lưng. Từ đó dòng họ Tây Sơn không còn người nào”, nhưng vẫn không thấy nói đến Bắc cung Hoàng hậu và hai con bà, chắc cũng vẫn vì lẽ quốc sử quan triều Nguyễn vẫn “phải” cố tình giấu diếm bỏ qua.
Để kết luận, như vậy ta có thể nhận ra và tin rằng Bắc cung Hoàng hậu có hai con với vua Quang Trung, và bà có bị bắt với hai con hoặc ở Huế hoặc ở nơi khác. Vua Gia Long đã sai giết hai con bà cách kín đáo, và đã cho bà về ở quê mẹ; năm Giáp Tý (1804) bà mất có lẽ vì đau thương biết rằng con mình đã bị giết, hoặc giả bà đã lặng lẽ tự vận. Năm Quý Mão (1843) vua Thiệu Trị đã sai quật mồ bà ở làng Phù Ninh, cho đổ xương xuống sông. Đỉnh tập quốc sử di biên chép việc này cũng không nói đến mộ phần của hai con Bà, điều này chứng tỏ con bà bị giết ở nơi khác không được chôn cùng với mẹ ở Phù Ninh, cho nên không thấy nói bị quật mồ.
Kiến giải trên đây (Bắc cung hoàng hậu có hai con. Bà mất năm 1804) không phải là một ức thuyết mà là căn cứ vào sử liệu đã có từ lâu đời, một có giá trị có thể coi là tuyệt đối với lối biên niên (Đỉnh tập quốc sử di biên), và một có tính cách dã sử (Ngọc Hân công chúa dật sự).
Dù sao ta vẫn có quyền trông đợi ở các nhà sử học tìm kiếm ra thêm tài liệu, hoặc biện minh cho ra sự thực đến nay vẫn còn có thể bàn cãi.
Tập san Sử Địa số 21 (1971)
Trang 17-31
Chú thích:
[1] Ngọc Hân công chúa dật sự (phần chữ Hán trong Nam Phong số 103 năm 1926) chép: bà là con gái thứ 9 của vua Lê Hiển Tông, Quốc Văn Đời Tây Sơn của Hoàng Thúc Trâm chép: bà là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông (không ghi xuất xứ).
[2] Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố, Mai Lĩnh, Hà Nội 1952, chép: Đời vua Hiển Tông nhà Lê bà được phong làm chức Chiêu Nghi (không ghi xuất xứ).
Có bản chép: vì con gái bà là Ngọc Hân được vua Quang Trung sắc phong Bắc cung hoàng hậu, mà bà được phong Chiêu Nghi hoàng hậu.
[3] Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập chép: Nguyên súy Phù chính dực vận Uy quốc công.
[4] Về sính lễ mỗi chỗ chép nhiều ít khác nhau:
Hoàng Lê nhất thống chí: 200 lạng vàng, 2.000 lạng bạc, hai chục tấm đoạn.
Tri tân số 14 ngày 12-9-1941: 200 lạng vàng và 20 cây vóc (không ghi xuất xứ).
Giáo Dục phổ thông số 50 ngày 15-11-1959: 10 thoi vàng, 1.000 thoi bạc, 100.000 quan tiền (không ghi xuất xứ).
[5] Lược thuật theo An Nam nhất thống chí Học Tấn và Trưng Phủ.
[6] Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập chép: “... Lập Lê thị Ngọc Hân vi Bắc Cung hoàng hậu, đích tử Quang Toản vi Thái tử”.
Trong việc sách phong này không thấy nói đến mẹ đẻ vua Cảnh Thịnh (Quang Toản); nhưng ta thấy trong Ngọc Hân công chúa dật sự (Nam Phong tạp chí số 103 năm 1926 phần chữ Hán) có chép: “Vua Cảnh Thịnh là con của Tả hoàng hậu”.
(Bà hậu này họ Phạm?). Và cũng không thấy nói đến bà họ Bùi, em ruột Bùi Đắc Tuyên, chính sử chép là Thái hậu triều Cảnh Thịnh.
[7] Phần chữ Hán trong bài Ngọc Hân công chúa dật sự: “... Tây Sơn chủng tộc loại vô kiết di. Công chúa dĩ Lê đế chi mỹ đắc miền ư nạn, thi niên dĩ đạt tam thập nhị tuế, nhiên tư sắc chi mỹ vị thường, thiểu giảm.
Bản triều Thế tổ hoàng đế hựu tri chi dịch đình, sử cung thị phụng. Quần thần hoặc dĩ vi chúa nải Tây Sơn chi dư vật nhi gián chi. Để viết: Kim chi thổ địa nhân dân vô nhất như phi Tây Sơn dư vật, tắc tương nại chi hà?
Hậu hứa Bắc quy, tùng mẫu thị hương quán, trú ư Bắc Ninh, nhi chung yên”.
[8] Ta nên nhớ rằng vào năm Gia Long nguyên niên (1802), “Lê Duy Hoán, dòng dõi nhà Lê được phong tước công (Diên Tự Công) cho thế tập tước vị để vâng giữ việc thờ cúng ở miếu nhà Lê, cấp cho tự dân 1.000 người, tự điền 10.000 mẫu”, để lấy lòng dân chúng.
Đến đời vua Minh Mệnh vẫn còn e ngại lòng dân, còn “phải” cấp người và ruộng thờ phụng, tuy ít hơn thời Gia Long. Mãi đến thời Thiệu Trị mới làm “thẳng tay”.
[9] Đỉnh Tập quốc sử di biên là quyển sử biên niên bằng chữ Hán chép việc từ năm Nhâm Tuất (Gia Long năm đầu 1802) đến năm Mâu Thân (Tự Đức năm thứ hai 1848) do Dưỡng Hạo Hiên biên soạn.
Sách viết tay chưa in, có bản phóng vi ảnh chữ Hán số SA-10 và bản dịch tiếng Việt kèm liền tiếng Pháp (đều viết tay) ở Viện Khảo Cổ Saigon. Dưới nhan đề sách ở tờ đầu bản dịch có ghi: Viết xong khoảng năm 1850, và không ghi tên người dich. Câu chép ở đầu Chương như trên là trích ở bản dịch ra. Nguyên văn ở bản chữ Hán Tập Thương như sau:
Giáp tý tam niên
........................
Ngũ nguyệt nhị thập nhất nhật
........................
Cố Lê công chúa Ngọc Hân tồ.
Cảnh Hưng Bính Ngọ niên, dĩ Ngọc Hân giá Nguyễn Huệ, cập ngụy Tây Sơn, tốn cư mẫu quán Phù Ninh. Chí thị tốt. Ki hàng thần biện nhiệm Đông Ngạn khất hành táng lễ; tòng chi. Phù Ninh dân vị lập từ đường. (Xem ảnh bản chữ Hán trang 8)
[10] “Tam ban triều điển”: cho chọn cách chết hoặc uống thuốc độc, hoặc thắt cổ, hoặc tự sát bằng gươm dao.
[11] Việt Nam sử lược Trần Trọng Kim: “Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái hậu”. - Cách mạng Tây Sơn, Văn Tân, Hà Nội 1958: Bùi Đắc Tuyên là anh em cùng cha khác mẹ với mẹ của vua Cảnh Thịnh.
[12] Danh sơn sự nghiệp: Đời xưa viết sách không được công bố, phải đem cất giấu ở nơi danh sơn để mong đời sau biết đến. Thông thường gọi sự nghiệp trước tác là “danh sơn sự nghiệp”.
[13] Sử Địa số 13 năm 1969: Thư của ông Sérard từ đất Bố chính gửi ông Letondal ngày 17-7-1791, nói chánh hậu của Tiếm vương (vua Quang Trung) mất vào khoảng tháng 3, tang lễ cử hành vô cùng linh đình trang trọng. Và thư ông Girard từ Macao gởi ông Boiret ngày 25-11-1792 nói ngày 7-3-1791 ông được giới thiệu với Tiếm vương (vua Quang Trung) để chữa thuốc cho người vợ mà ông coi như vợ lớn bị bệnh trầm trọng. Ngày 29 tháng 3 năm ấy bà từ trần, ngày 25 tháng 6 chôn cất.
Về hai chữ “vợ lớn” dịch giả Đặng Phương Nghi chú thích ở dưới bài dịch: Tả cung hoàng hậu họ Phạm sinh ra Quang Toản, với dấu (?).
Sách báo tham khảo:
Đại Nam chính biên sơ tập
Đại Nam liệt truyện tiền biên
Thực lục chính biên đệ nhất kỷ
An Nam nhất thống chí - Học Tốn và Trưng Phủ
Đỉnh tập quốc sử di biên - Dương Hạo Hiên
Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim
Quốc Văn Đời Tây Sơn - Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm
Thi văn bình chú - Ngô Tất Tố
Triều Tây Sơn - Phan Trần Chúc
Cách mạng Tây Sơn - Văn Tân
Nam Phong số 103 năm 1926.
Tri Tân số 13. 14, 15, tháng 9-1941
Tri Tân số 20, 21, tháng 10-1941
Tri Tân số 35, tháng 2-1942
Bách Khoa số 101, tháng 3-1961
Giáo Dục phổ thông số 50, tháng 11-1959
Văn Hóa Nguyệt san số 64, tháng 9-1961
Văn Hóa Nguyệt san số 65, tháng 10-1961
Sử Địa số 13, năm 1969
La Geste Française en Indochine Tome I, Georges Taboulet Bulletin des Amis du Vieux Huế, số 4 năm 1941.