Ai tư vãn Một áng văn trữ tình đầy sử tính đời Tây Sơn-Đoàn Khoách
Nếu không có Ai Tư Vãn thì thiết tưởng văn Nôm của Việt Nam sẽ nghèo đi một phần vì thiếu một áng văn trữ tình ai oán đặc biệt của chính một tác giả nữ lưu trong một hoàn cảnh tang tóc bi thảm. Và nếu không có Ai Tư Vãn thì lịch sử Việt Nam cũng không có được những giòng lệ nóng thắm thiết của một người vợ trẻ đau đớn khóc đấng anh hùng.
Vậy Ai tư vãn là loại văn gì? Ai là tác giả áng văn đó? Nội dung tác phẩm đó như thế nào? Đâu là giá trị của Ai Tư Vãn?
I - Bối cảnh lịch sử của tác phẩm:
Ai tư vãn hiểu một cách nôm na là bài văn nhớ thương đau khóc người quá vãng. Mà người quá vãng đây là ai? Và người khóc đó là ai? Tại sao lại khóc?
Xin lần lượt lật lại vài trang sử Việt vào mấy thập niên cuối thế kỷ XVIII.
Năm 1782, được Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu sắp kế, chúa Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai quân ra đánh lấy Thuận Hóa. Sau khi đánh chiếm được cựu đô của chúa Nguyễn, Nguyên soái Tây Sơn là Nguyễn Huệ giao việc giữ đất Thuận Hóa lại cho Nguyễn Lữ, rồi đem đại quân thẳng ra Bắc Hà lật đổ ngôi chúa Trịnh và làm việc tôn phù vua Lê. Ngày 20 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), kinh thành Thăng Long bị vỡ, Đoan Nam vương Trịnh Khải thua trận, cùng đường phải tự vẫn. Ngày 7 tháng 7 vua Lê Hiển Tông mở đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều theo thứ tự đứng hầu. Nguyễn Huệ vào triều kiến nhà vua, dâng tờ tâu về việc diệt Trịnh và các sổ sách quân dân, xin Hoàng thượng cho quân coi giữ. Vua phong cho Nguyễn Huệ làm chúc Nguyên soái tước Uy Quốc công và hạ chỉ dụ gả công chúa Ngọc Hân cho qua việc đứng làm mai dong của Nguyễn Hữu Chỉnh. [1] Đã đành đây là một cuộc hôn nhân có tính cách chính trị, chủ ý để gây tình thân thiện giữa Tây Sơn và nước Nam của vua Lê, nhưng cũng là một cuộc hôn nhân đẹp đôi, môn đăng hộ đối xứng đáng giữa một trang hào kiệt em vua nước Tây và một công chúa diễm kiêu (tục gọi là chúa Tiên) con Hoàng đế nước Nam.
Công chúa Ngọc Hân, con vua Lê Hiển Tông (1740-1786) và bà Nguyễn thị Huyền người làng Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc NỈnh, là vị công chúa thứ hai mươi mốt, từ bé ở trong cung đã được rèn luyện kinh sử, học tập thơ văn, lại khéo nói năng ứng đối [2]. Còn Nguyễn Huệ là người thông minh, cương nghị, trí dũng song toàn, có độ lượng, lại có bụng trọng nể họ Lê, nên tình vợ chồng giữa hai người rất chiều đằm thắm. Sau hơn một tháng lưu lại Thăng Long, đạt chí nguyện vẹn cả đôi bề trung hiếu, Nguyễn Huệ kéo đại quân về Nam; công chúa từ đó theo chồng sống liền ở đất Phú Xuân. Năm 1789, khi Bắc Bình vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, sau chiến thắng quân Thanh, thì công chúa Ngọc Hân được phong làm Bắc cung Hoàng hậu [3]. Đến khi Hoàng đế Quang Trung mất (16-9-1792, lúc đó vua mới 39 tuổi), thì Hoàng hậu đã có với vua hai con, một trai một gái. (Cũng nên biết thêm rằng trước khi cưới công chúa Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đã có bà vợ cả họ Phạm, thân mẫu của Nguyễn Quang Toản, Nguyễn Quang Thùy và Nguyễn Quang Thiệu)
II- Mấy giả thuyết về chung cục của tác giả:
Về cái chung cục của công chúa Lê thị Ngọc Hân, trước đây có nhiều thuyết trái ngược nhau. Có thuyết cho rằng sau khi diệt được Tây Sơn, vua Gia Long đã nạp bà làm phi. Quần thần có người can lại, cho thế là lấy vợ thừa của nhà Tây Sơn. Vua không nghe và bảo: giang san thành quách này cái gì chẳng phải mình lấy lại từ nhà Tây Sơn, cứ gì một người đàn bà? [4]
Có thuyết lại cho, sau khi nhà Tây Sơn mất, bà Ngọc Hân cùng hai con, một trai một gái, phải giả dạng làm vợ một người lái buôn, trốn tránh vào một miền quê tỉnh Quảng Ngãi; được ít lâu tung tích bại lộ, bà và hai con đều bị triều Nguyễn gia hình bằng lối “tam ban triều điển”.
Tháng Giêng năm 1950, trong Quốc Văn Đời Tây Sơn ông Hoàng Thúc Trâm đã chứng minh chung cục của bà Ngọc Hân sự thực không phải thế. Bà Ngọc Hân đã mất từ năm Kỷ Mùi (1799), ba năm trước khi nhà Tây Sơn bị diệt vong, không thể còn để lấy vua Gia Long hay chịu “tam ban triều điển” nữa! [5] Và tác giả Quốc Văn Đời Tây Sơn khẳng định “Thế là nay đã thanh toán xong cái sử sự về chung cục của Ngọc Hân” [6].
Tuy nhiên, một bất ngờ đến với chúng tôi từ năm 1964 khi đọc những sử liệu Việt Nam tại Tân Á Nghiên cứu sở ở Hong Kong. Trong một tài liệu mới cho biết, mãi cho đến năm 1802 khi vua Gia Long lên ngôi, bà Ngọc Hân vẫn đang còn sống, không bị bắt chịu “tam ban triều điển” và cũng không bao giờ được vua Gia Long kết nạp làm hậu phi như nhà văn Việt Thường đã tiểu thuyết hóa. Tài liệu bất ngờ vừa nói nằm trong tác phẩm Quốc Sử Di Biên của Phan Thúc Trực.
Xin nói qua một chút về tác giả và tác phẩm này trước khi trích đưa ra các chi tiết về công chúa Ngọc Hân có nói đến trong sách đó.
Phan Thúc Trực (1808-1852) còn có tên là Phan Dưỡng Hạo quán làng Vân Tụ, huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An. Cao, tằng, tổ của ông đều cao khoa hiển hoạn. Thân phụ là Phan Vũ vốn khét tiếng hay chữ ở vùng Nghệ Tĩnh nhưng suốt đời ở ẩn, dạy con cháu và học trò. Hồi nhỏ, Thúc Trực nổi tiếng thần đồng, 16 tuổi đỗ Đầu xứ, 17 tuổi đỗ Tú tài khoa Ất Dậu (1825) ở trường Nghệ. Chín khoa liên tiếp sau đó đều đỗ Tú tài và được bổ Giám sinh trường Quốc tử giám. Khoa thi Hội và thi Đình năm Đinh Mùi (1847) đỗ Thám hoa. Vinh quy bái tổ về làng, ông lại giúp dân làng khai ngòi, đắp đê cho đồng ruộng trước đây bỏ hoang được cày cấy kịp thời vụ. Dân làng Vân Tụ làm ăn ngày một thịnh vượng, nên sau khi ông mất, dân làng nhớ ơn, dựng đền thờ. Thi đỗ Thám hoa, ông được bổ vào Viện Hàn Lâm. Năm sau được bổ vào tòa Nội các, rồi Tập hiền viện và được sung chúc Kinh diên Khởi cư chú, luôn luôn ở gần gũi nhà vua. Năm Tự Đức thứ tư (1851), ông vâng mệnh ra Bắc thành sưu tầm những tài liệu sách vở cũ; khi về lại Kinh đô, đến địa phận tỉnh Thanh Hóa, lâm trọng bệnh rồi mất, thọ 44 tuổi. Tác phẩm còn để lại có: Diễn châu phủ chí, Cảm Đình thi văn tập và Quốc sử di biên.
Quốc Sử Di Biên ghi chép những sự kiện lịch sử trong khoảng 46 năm, từ đầu đời Gia Long đến cuối đời Thiệu Trị. Sách chép theo lối biên niên nhưng chép sâu rộng, trung thực, đầy đủ những điều trong chính sử hoặc chưa chép, hoặc chép rất sơ sài, hoặc ngại không dám chép... Một số nhà nghiên cứu sử học rất coi trọng sách này, cho đây là một tín sử dưới triều nhà Nguyễn [7].
Về cái chung cục của Công chúa Ngọc Hân, chúng ta thử lật các trang 33 và 38 thấy ghi:
“Giáp Tý tam niên, ngũ nguyệt nhị thập nhất nhật:...... Cố Lê công chúa Ngọc Hân tộ. Cảnh hưng Binh Ngọ niên, dĩ Ngọc Hân giá Nguyễn Huệ. Cập ngụy Tây vong, tôn cư mẫu quán Phù Ninh, chí thị tốt, kỳ hàng thần hiện nhiệm Đông Ngạn, khất hành táng lễ, tùng chi. Phù Ninh dân vi lập từ đường”.
(Ngày 21 tháng 5 năm Giáp Tý Gia Long năm thứ 3 (1804), công chúa nhà cựu Lê là Ngọc Hân tạ thế. Nguyên năm Bính Ngọ (1786) niên hiệu Cảnh Hưng, vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Đến khi nhà Tây Sơn mất, Công chúa lui về ở tại mẫu quán là làng Phù Ninh. Đến đây, Công chúa từ trần. Kẻ hàng thần hiện giữ chức quan tại huyện Đông Ngạn, xin làm tang lễ cho Công chúa, vua chấp thuận. Dân làng Phù Ninh làm từ đường thờ Công chúa).
Rồi lật thêm các trang 363 và 366 thấy ghi:
“Quý Mão tam niên, tứ nguyệt nhị thập bát nhật, quật cố Lê công chúa Ngọc Hân mộ. Phù Ninh nhân Tổng Phụng dữ dân tranh tụng, kỳ ngôn ỷ thác ngụy thê quyền thế, dữ dân tranh lợi. Hữu chỉ, quật kỳ mộ đầu Nhĩ Hà, tịnh phát mại từ đường điền trạch”.
(Ngày 28 tháng 4 năm Quý Mão Thiệu Trị năm thứ 3 (1843), quật mộ cố Công chúa Lê Ngọc Hân. Tổng Phụng người làng Phù Ninh cùng với dân tranh tụng, va dựa vào quyền thế vợ vua ngụy để tranh lợi với dân, nên có chỉ của vua sai đào mộ cố Công chúa ném xuống sông Nhĩ, và đem bán hết nhà đất, từ đường).
Để tiếp tay với quý vị tiền bối, chúng tôi xin đưa thêm chút ít tài liệu trên đây để rộng đường dư luận. Còn chuyện Công chúa Ngọc Hân mất năm 1799, hay bị gia hình bằng tam ban triều điển ở Phú Xuân hoặc tạ thế vào 21 tháng 5 năm Gia Long thứ 3 (1804) tại Phù Ninh, thiết tưởng cũng không ảnh hưởng chi đến sự có mặt của Ai Tư Vãn.
III- Phân tích bài Ai Tư Vãn
Ai Tư Vãn là một khúc ngâm gồm 164 câu theo thể song thất lục bát. Bản thân khúc ngâm là tiếng khóc lâm ly thống thiết, dâng trào từ đáy lòng của tác giả, người trong cuộc. Không những khóc một người chồng luôn đùm bọc thương yêu vợ, mà còn giữ vẹn tình nghĩa rể con đối với gia đình. Không những khóc một trang hào kiệt trọng nghĩa khinh tài, mà còn là một bậc anh hùng “giúp dân dựng nước”. Cho nên mất vua Quang Trung đối với Công chúa là một hụt hẫng vòi vọi thăm thẳm vô cùng. Tình cảm chồng chất tràn trề khi tỉnh khi mơ theo những đường vòng xoắn xuýt. Tuy nhiên để dễ bề theo dõi tâm trạng của Công chúa khóc vua Quang Trung, chúng tôi thử phân đoạn bài vãn theo lối tìm hiểu thông thường.
Mở đầu: tâm trạng đau buồn sầu thảm của Công chúa (câu 1-8)
1- Công đức, tình nghĩa của vua đối với Công chúa và với nhà Lê; vua đã nhuốm bệnh và mất (câu 9-44)
2. Tâm trạng đau đớn bồn chồn của Công chúa (câu 45-128):
● thương xót mơ tưởng người quá cố đến nỗi trách móc Hóa công sao hẹp lượng (câu 45-76)
● mơ lại cảnh sum họp với chồng, đến nỗi muốn liều chết theo chồng (câu 77-108)
● mơ tưởng trông tìm, muốn gởi cho chồng những vật kỷ niệm (câu 109-128)
3- Cảnh con côi, vợ góa, thần dân lạnh buồn và cảnh vật xung quanh cũng đau xót sầu não trước cái chết của nhà vua (câu 129-160)
Kết thúc: trở lại “mạch sầu” của riêng mình, Công chúa xin trời đất chứng cho nỗi đau đứt ruột (câu 161-164).
Giá trị của Ai Tư Vãn:
1- Ai Tư Vãn là áng văn Nôm trữ tình đặc biệt:
Ai Tư Vãn là tiếng than não nuột nhưng không phải là tiếng than thân phận của người cung nữ bị bỏ rơi lạnh lẽo trong cung cấm do nhà văn cảm nhận rồi sáng tác nên. Ai Tư Vãn là giấc mơ chập chờn của một thiếu phụ khi người yêu xa khuất, nhưng không phải là giấc mơ của người chinh phụ mong chồng ngoài trận địa nhưng vẫn còn hy vọng ngày thái bình sẽ được hưởng hạnh phúc đoàn viên. Ai Tư Vãn là một áng văn trữ tình hiện thực, trong đó tiếng thở than là nỗi đau xót bật ra từ chính con tim nóng hổi của tác giả; tình trạng nửa tỉnh nửa mê là nỗi nhớ mong tuyệt vọng của tác giả khi người thân thương yêu kính của mình đột ngột tử vong. Vì là nỗi buồn, vì là tiếng khóc trong cùng một thể loại văn chương, nhưng tính chất và cung bậc lại chẳng giống nhau. Thành thử, không nên đem Ai Tư Vãn để so với những khúc ngâm Cung Oán của Ôn Như Hầu, Chinh phụ của Đặng Trần Côn và Đoàn thị Điểm, rồi cho là một dày một mỏng [8]. Ai Tư Vãn tự thân đã có một giá trị riêng. Đó là một áng văn trữ tình quyến rũ người đọc người nghe ở cái giọng lâm ly mà thành thật của con người trong cuộc. Tác giả chẳng để công trau tria từ vận, mà mặc cho nỗi lòng theo ngòi bút trào ra trên giấy. Không theo một bố cục lớp lang nào, bài văn toàn là những lời kể lể vân vi rối rắm, những mối sầu tư mộng tưởng vấn vít quanh co, nhưng rất là thành thật. Do đó, Ai Tư Vãn của công chúa Ngọc Hân, đã cho chúng ta nghe lần đầu trong lịch sử thơ văn Nôm, tiếng nói trữ tình ai oán của một tác giả nữ lưu trong một hoàn cảnh tang tóc bi thảm.
2- Ai Tư Vãn là bản sử ca đầu tiên vinh danh người anh hùng áo vải đất Tây Sơn:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân, dựng nước, biết bao công trình...
Mà nay lượng cả ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần...
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất đi là một sự sụp đổ lớn lao đối với vương triều Tây Sơn, đối với tất cả quân dân từng là chứng nhân lịch sử thời bấy giờ, nhất là đối với chính tác giả Ngọc Hân công chúa.
Từ một thanh niên hảo hán ở ấp Tây Sơn, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng trở thành một trang hào kiệt, một tướng lãnh tài ba, đánh dẹp trong Nam ngoài Bắc, đánh đâu thắng đó. Trận chiến thắng đánh đuổi hai vạn quân Xiêm và ba trăm chiến thuyền địch ở Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785, rồi chiến công hiển hách năm ngày đêm vào đầu Xuân năm Kỷ Dậu (1789), đại phá 20 vạn quân Thanh do Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị làm Thống soái, đã làm cho Nguyễn Huệ trở thành một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự, một danh tướng bách chiến bách thắng. Con người ấy lại đầy lòng nhân ái, đầy lượng bao dung, biết giữ nghĩa tôn phù vua Lê, biết giữ tình rể con lúc phụ hoàng quá vãng, biết đặc biệt cưu mang yêu mến công chúa và phong làm Bắc cung hoàng hậu sau khi đại phá quân Thanh... Cho nên trong tiếng khóc than của Công chúa, còn thấy được nỗi thương tiếc ngậm ngùi của thần dân từ triều đình đến hang cùng ngõ hẻm, hoa lá cỏ cây. Với nàng, công nghiệp của người anh hùng tài đức vẹn toàn ấy đâu có thua chi vua Thành Thang (1783-1754 tr.CN) nhà Thương, vua Võ Vương nhà Chu (1122-1115 tr.CN) đánh kẻ bạo tàn, cứu dân khỏi vòng đau khổ? Công nghiệp ấy đến các vị minh quân lừng danh xa xưa của Trung Quốc như Đường Nghiêu (2357-2257 tr.CN), Ngu Thuấn (2255-2207 tr.CN) chưa chắc đã hơn được! Thế mà, đau đớn thay, anh hùng đoản mệnh!...
Về phương diện kỹ thuật văn chương, Ai Tư Vãn tất nhiên có những khuyết điểm không tránh khỏi về từ về vận chỗ này chỗ khác. Tuy nhiên căn cứ vào một số đặc điểm của bài văn như trên đã thấy, cũng đủ rõ Ai Tư Văn quả là một áng danh văn trữ tình đầy sử tính cuối thế kỷ XVIII và công chúa Ngọc Hân là một nhà văn nữ có biệt tài đáng quý trọng.
Chú thích:
[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Tập 2 Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 534-561.
Xem thêm: Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Bản dịch của Ngô Tất Tố, Cơ sở Báo Chí và Xuất bản Tự Do, Saigon, 1958.
[2] Hoàng Lê Nhất Thống Chí, Sđd. tr. 82, qua lời Nguyễn Hữu Chỉnh nói với Bình (tức Nguyễn Huệ) thì người đó là công chúa thứ 9 mới 16 tuổi.
[3] Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sđd. tr. 558
[4] Việt Nam Phan Thúc Trực tập, Quốc Sử Di Biên, Đông Nam Á sử liệu chuyên san, Hương Cảng Trung Văn Đại Học, Tân Á Nghiên cứu sở, 10-1965, xuất bản, tr. 53 nói người được vua Gia Long phong làm Đệ tam cung là Ngọc Bình (chị em với công chúa Ngọc Hân) và người can vua trong việc này là Quận công Lê văn Duyệt.
[5] Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm, Quốc Văn Đời Tây Sơn, Nhà sách Vĩnh Bảo, Saigon, 19. 0, tr. 81-82, ghi bà Ngọc Hân mất năm Kỷ Mùi (1799) dựa vào năm bài văn tế bà Vũ Hoàng hậu do Phan Huy Ích đứng thảo và hai bài sách văn truy tôn miếu hiệu của bà Vũ Hoàng hậu Lê thị Ngọc Hân và bà Vũ Hoàng chính hậu Phạm thị mẹ đẻ vua Cảnh Thịnh.
[6] Quốc Văn Đời Tây Sơn Sđd. tr. 83.
[7] Xem “Quốc sử Di Biên đích biên giả dữ nội dung” của Trần Kinh Hòa, trong Sđd. tr. 1-18.
[8] Xem Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc Học Tùng Thư, Saigon, 1963, tr. 245-247.
V- Phụ lục: Ai Tư Vãn
Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo,
Trước thềm lan hoa héo don don!
Cầu Tiên khỏi tỏa đỉnh non,
Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu!
Nỗi lai lịch dễ hầu than thở,
Trách nhân duyên mò lỡ có sao?
Sầu sầu thảm thảm xiết bao...
Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời!
Từ cờ thắm trỏ vòi cõi Bắc,
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
Thuyền lan chèo quế thuận đàng vu quy.
Trăm ngàn dặm quản chi non nước,
Chữ “nghi gia” mừng được phải duyên.
Sang yêu muôn đội ơn trên,
Rỡ ràng vẻ thúy, nổi chen tiếng cầm.
Lượng che chở, vụng lầm nào kể,
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời.
Dù rằng non nước biến dời,
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội,
Khắp tôn thân cùng đội ơn sang.
Miếu đường còn dấu chưng thường,
Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.
Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế,
Đượm hơi sương, dây rễ cùng tươi.
Non Nam lần chúc tuổi trời,
Dâng câu Thiên bảo, bày lời Hoa phong.
Những ao ước trập trùng tuổi hạc,
Nguyền trăm năm ngỡ được vầy vui,
Nào hay sông cạn bể vùi,
Lòng trời tráo trở, vận người biệt ly!
Từ nắng hạ mưa thu trái tiết,
Xót mình rồng mệt mỏi chẳng yên!
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước,
Phương pháp nào đổi được cùng chăng?
Ngán thay, máy Tạo bất bằng,
Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!
Cuộc tụ tán bi hoan kíp bấy,
Kể sum vầy đã mấy năm nay?
Lênh đênh chút phận bèo mây,
Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu?
Trằn trọc luống đêm thâu ngày tối,
Biết cậy ai dập nỗi bi thương?
Trông mong luống những mơ màng,
Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say!
Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng,
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu...
Vội vàng sửa áo lên chầu,
Thương ôi, quạnh quẻ trước lầu nhện chăng
Khi bóng trăng, lá in lấp lánh,
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi:
Vội vàng dạo bước tới nơi,
Thương ôi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa!
Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn,
Mặt rồng sao cách gián lâu nay!
Có ai chốn ấy về đây,
Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành?
Nẻo u minh khéo chia đôi ngả,
Nghĩ đòi phen nong nả đòi phen!
Kiếp này chưa trọn chủ duyên,
Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.
Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao.
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân, dựng nước biết bao công trình!
Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn,
Công đức dày, ngự vận càng lâu.
Mà nay lượng cả ơn sâu,
Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần
Công dường ấy mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy! Hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
Buồn thay nhẽ! Sương rơi gió lọt,
Cảnh đìu hiu thánh thót châu sa!
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê!
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa ở,
Mối sầu riêng ai gõ cho xong?
Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
Trên rường nào ngại, giữa giòng nào e.
Còn trứng nước thương vì đôi chút,
Chữ tình thâm chưa thoát được đi!
Vậy nên nấn ná đòi khi,
Hình tuy còn ở, phách thì đã theo...
Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo,
Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân.
Theo xa thôi lại theo gần,
Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa...
Đương theo, bỗng tiếng gà sực tỉnh,
Đau đớn thay, ấy cảnh chiêm bao!
Mơ màng thêm nỗi khát khao,
Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi!
Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ,
Nguyện đồng sinh sao đã kíp phai?
Xưa sao sớm hỏi, khuya bầy,
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.
Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ?
Tình cô đơn ai kẻ xét đâu?
Xưa sao gang tấc gần chầu,
Trước sân phong nguyệt, trên lầu sinh ca...
Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi,
Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh!
Nửa cung gãy phím cầm lành,
Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!
Nghĩ nông nỗi, ngẩn ngơ đôi lúc...
Tiếng tử quy thêm giục lòng thương!
Não người thay, cảnh tiên hương!
Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.
Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,
Thấy mênh mông những nước cùng mây!
Đông rồi thì lại trông tây:
Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà!
Trông nam: thấy nhạn sa lác đác,
Trông bắc: thì ngàn bạc màu sương!
No trông trời đất bốn phương,
Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi!
Cậy ai có phép gì tới đó,
Dâng vật thường, xin ngỏ lòng trung:
Này gương là của Hán cung,
Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày...
Duyên hảo hợp xót rày nên lẻ,
Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu?
Xin đưa gương ấy về chầu,
Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.
Tưởng linh sảng nhơn nhơn còng dấu,
Nỗi sinh cơ có thấu cho không?
Cung xanh đang tuổi âu sung,
Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương?
Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm,
Đầu mũ mao, mình tấm áo gai!
U ơ ra trước hương đài,
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!
Trong sáu viện ố đào ủ liễu,
Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê!
Long đong xa cách hương quê,
Mong theo: lầm lối! mong về: tủi duyên!
Dưới bệ ngọc, hàn uyên vò võ,
Cất chân tay thương khó xiết chi!
Hang sâu nghe tiếng thương bi,
Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân?
Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát,
Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi!
Càng trông càng một xa vời,
Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng?
Buồn trông trăng trăng mờ thêm tủi:
Gương hằng nga đã bụi màu trong!
Nhìn gương càng thẹn tấm lòng,
Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà (?)
Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn:
Cảnh hải đường đã quẹn gió sương!
Trông chim, càng dễ đoạn trường:
Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi!
Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy,
Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu!
Phút giây bãi bể nương dâu,
Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa, trời cao đất rộng,
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau!
Mấy lời tâm sự trước sau,
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho...
(Theo bản của Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm, trong Quốc Văn Đời Tây Sơn, Sđd. trang 83-93)