Thử chẩn bệnh Đại đế Quang Trung-Bác sĩ Võ Tư Nhượng
Sử gia Trần Trọng Kim viết: Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung bị bạo bệnh băng hà.
Tác giả Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết:
Vua Quang Trung mất vào năm Nhâm Tý (1792).
Sử gia Hoàng Xuân Hãn viết: ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý vào giờ dạ tý tức là ngày 16 tháng 09 năm 1792, vua Quang Trung băng hà.
Các sử gia trên chỉ chú trọng ngày giờ năm tháng lúc vua Quang Trung mất, không một vị nào nói ngài bị bệnh gì và những triệu chứng đã cướp một vị anh quân đang ở tuổi cường tráng của dân tộc.
Riêng học giả Hoa Bằng viết: Vua Quang Trung mất vì chứng huyết vận năm Nhâm Tý (1792). Đoạn sau ông nêu ra những triệu chứng do huyết vận gây nên.
Thêm vào sự thiếu chính xác còn nhiều truyền thuyết tuy không được sử sách chép nhưng rất phổ thông trong dân gian địa phương.
Người ta kháo nhau: Ngài bị đầu độc, ngài bị tổ tiên nhà Nguyễn đánh vào đầu trong lúc chiêm bao, và liều lĩnh hơn nữa, ngài bị phạm phòng.
Sử gia Hoàng Xuân Hãn thì nói rõ ngày giờ ngài băng hà nhưng ngày bắt đầu lâm bịnh thì cũng ức đoán mà thôi. Sự thật điều này không ai làm nổi nếu bệnh nhân bị mất vì một chứng nội thương tiệm tiến.
Một tài liệu chép: Một buổi chiều thu vua Quang Trung đang ngồi bỗng hoa mắt, sầm tối mặt mũi, mê man bất tỉnh.
Nhưng ngài lại tỉnh ngay sau đó, vì vậy ngài mới có lời thác cô.
Theo những tài liệu viết và truyền thuyết chúng ta thấy thật là thiên nan vạn nan nếu muốn chẩn bệnh cho ngài dầu chỉ ức đoán thôi.
Tuy vậy, trước khi đi đến một ức đoán về nguyên nhân băng hà của vua Quang Trung, chúng tôi mạo muội chia ra ba loại bệnh: loại truyền thuyết, loại cấp tính, loại kéo dài trong vòng ba tháng.
Loại truyền thuyết do công thần nhà Nguyễn chép, chúng ta có thể xem như là một loại chiến tranh tâm lý của một triều đại mới cầm quyền và chúng ta gạt bỏ.
Trong loại cấp tính chúng ta xếp bạo bịnh, đầu độc, phạm phòng.
Theo y học cổ điển, bạo có nghĩa là bụng. Như vậy vua Quang Trung có thể đau ruột dư, chứng dạ dày bị thủng, chứng nghẹt ruột. Ba chứng này thường xảy ra và cướp bệnh nhân trong vòng nửa tháng.
“Bạo” còn có nghĩa là chớp nhoáng, khốc liệt. Những bệnh về bụng và khốc liệt ta cũng có thể loại ra theo bài “Ai tư vãn” của Ngọc Hân công chúa và theo tình trạng lúc vua sắp mất Ngọc Hân công chúa viết:
Từ nắng Hạ, mưa Thu trái tiết,
Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên.
Xiết bao kinh sợ lo phiền,
Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu.
Như vậy nhà vua đã bị đau từ mùa hạ đến mùa thu. Nếu bị về bụng như tôi đã kể trên, lúc mất bịnh nhân bị hôn mê. Trái lại lời của Ngọc Hân công chúa:
Buồn thay nhẽ? Sương rơi, gió lọt,
Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa.
Tưởng lời di chúc thiết tha,
Khác nào lên tiếng, thức mà cũng mê.
Sử gia Hoàng Xuân Hãn cũng đồng ý vua Quang Trung bị bịnh từ mùa hạ, mất vào đầu thu: ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý vào giờ Dạ Tý (ngày 16 tháng 09 năm 1792).
Vụ đầu độc theo truyền thuyết có thể cướp mạng sống trong chốc lát nhưng khó thực hiện vì nhà vua bao giờ cũng có Ngọc Hân công chúa bên cạnh, một người có thể đầu độc được nhà vua chỉ có Ngọc Hân công chúa. Lối đầu độc thông thường là vào thời đó ta không rõ. Sau này trong thôn quê vẫn dùng nhân ngôn, hoàng nàn để giết chuột làm thuốc độc. Hai vị thuốc này giết rất mau. Còn lối đầu độc dùng những thứ thuốc làm cho bịnh nhân chết lần mòn như thuốc hạ đường trong máu, thuốc làm cho máu không đông được v.v... chắc chắn Ngọc Hân công chúa không thể có được. Sở dĩ trong dân gian nêu lên thuyết Ngọc Hân công chúa đầu độc vua Quang Trung vì họ nghĩ lúc vua Quang Trung cầu hôn công chúa nhà Thanh, Ngọc Hân đã nổi ghen và làm liều. Chuyện này khó tin vì Ngọc Hân công chúa không đủ phương tiện và bài “Ai tư vãn” của công chúa đã tả rõ mối tình thắm thiết giữa nhà vua và công chúa. Chúng ta có thể gạt ra ngoài thuyết này.
Tàn bạo nhất là thuyết phạm phòng. Bệnh này tôi được nghe nói nhiều nhưng chưa bao giờ được quan sát đích xác. Đã có vị độc giả nào có kinh nghiệm chưa? Bệnh phạm phòng, theo truyền thuyết, là bệnh người đàn ông bị chết cứng trong lúc ân ái đang diễn ra. Cũng vì muốn phòng bệnh rắc rối này các bà mẹ xưa, sau phút lạy cha mẹ để về nhà chồng của con gái, bà mẹ cài một cái kim may vào gấu áo trong và dặn dò: nếu trường hợp phạm phòng xảy ra, lập tức lấy kim lễ vào chỗ cuối cùng của xương cụt (Sacrum). Không hiểu các bà mẹ Việt Nam bây giờ còn dùng phép đề phòng này không?
Chuyện này cũng không xảy ra được vì lúc sắp mất nhà vua vẫn tỉnh táo, gọi các tướng và La Sơn Phu Tử để gửi gầm con côi (thác cô).
Những bệnh cấp tính chúng tôi vừa nêu ra đều không phù hợp với bài “Ai Tư Vãn” và tình trạng của nhà vua trước khi băng hà.
Bây giờ chúng ta thử bàn đến loại bệnh đã kéo dài cuộc vật lộn với tử thần của nhà vua có các quan ngự y và Công chúa Ngọc Hân phụ lực.
Theo sử gia Hoàng Xuân Hãn vua Quang Trung bị bệnh từ tháng 07 đến tháng 09 thì mất. Công chúa Ngọc Hân cũng kể như vậy.
Ngọc Hân công chúa và giáo sư Hãn, đều không cho biết triệu chứng.
Chỉ riêng học giả Hoa Bằng cho biết ngài bị chứng huyết vận. Theo Đông y, chứng huyết vận là một bịnh do thiếu máu gây ra, bộ tiểu não bị tổn thương và thận bị suy nhược. Triệu chứng do ông Hoa Bằng không được chính xác như phương pháp chẩn bịnh ngày nay cho phép, dầu sao cũng là một tia sáng giúp chúng ta tìm hiểu căn cứ vào triệu chứng. Cũng căn cứ vào những sử liệu khác thì ngài thường than nhiều mỏi mệt, nhức đầu, chóng mặt, kém ăn, kém ngủ, nước da xanh xao và trên da thường xuất hiện nhiều vết đỏ.
Căn cứ vào những sử liệu trên tôi nghiêng ý nghĩ của tôi vào những bệnh liên can đến máu hoặc gan. Cố nhiên nếu đem những triệu chứng trên bàn cãi thì cuộc bàn cãi không bao giờ chấm dứt. Chúng tôi chỉ giới hạn sự chuẩn bịnh theo ức đoán qua tài liệu mà thôi. Những thí nghiệm chính xác lúc bấy giờ chưa có.
Xanh xao, mỏi mệt, kém ăn ngủ, nhiều vết đỏ hiện lên da khiến chúng ta nghi ngờ bệnh của ngài có nguồn gốc ở máu. Máu ngài bị hư hay những bộ phận làm ra máu bị hư?
Trong khoảng ba tháng chúng ta tạm coi như ngài nhuốm bệnh vào ngày một và mất vào ngày 90 do bệnh hoại huyết (không kể nguồn gốc) nếu đúng, thì đây là một loại hoại huyết cấp tính. Tuy vậy bệnh này đã có thể tiềm tàng từ lâu vì vậy ngài thường than phiền mệt mỏi. Lúc phát hiện và chấm dứt trong 90 ngày có thể là giai đoạn cuối cùng của một bịnh đã kéo dài của bệnh hoại huyết kinh niên. Tiếc rằng các quan ngự y không phát giác kịp:
Trách vì thầy thuốc dở dang,
Chẳng thông mạch lạc, chẳng tường lý y.
Thương phong thì nói thương hàn,
Bệnh kia ngoại cảm nói càn nội thương.
Nguyễn Du
Lời trách của bậc đại thi hào hơi quá nghiêm khắc. Ngày nay, với tiến bộ vượt bực của Y Khoa chúng ta vẫn còn nhiều trường hợp lẫn lộn ngoại cảm với nội thương. Y khoa thời trước của nước ta trong lý luận, ít phần quan sát và thí nghiệm “Y dã lý dã” đó là câu châm ngôn trong sách thuốc cổ điển Việt Nam.
Một chứng bệnh khác có thể gây ra những triệu chứng như ông Hoa Bằng là bệnh gan suy. Bệnh này nhiều khi không có triệu chứng rõ ràng nên định bệnh rất khó ngay với những phương pháp hiện đại trước khi bệnh phát hiện. Thường người bệnh cảm thấy mệt mỏi, kém ăn, kém ngủ, xuống cân. Lúc bệnh phát hiện thì quá muộn. Nếu quả thật vua Quang Trung bị chứng gan suy, theo địa vị của ngài, chúng ta có thể quy vào hai trường hợp thường xảy ra.
Một là vì yến ẩm quá nhiều nhất là ẩm - ngài bị bệnh gan bị chứng “chai gan” như chúng ta thường nói.
Hai là vì chinh chiến gian nan, nằm gai, nếm mật, nước khe cơm vất, màn trời chiếu đất ngài bị viêm gan (Viral heptatitis) do siêu trùng gây nên, và rồi cũng đi đến chai gan hay ung thư gan. Theo hội Mỹ quốc khảo nghiệm về gan tại San Francisco (American Liver Foundation) thì 20% người Mỹ gốc Á Châu mới lập nghiệp bị chứng viêm gan. Cứ năm người có một người bị. Tỷ lệ rất cao làm các tay bợm nhậu phải e dè.
Theo y lý cổ điển của Việt Nam, một danh y giảng: “Trong cơ thể con người, gan là con cọp. Nó ăn hết. Lúc cọp không ăn là cọp phải chết và cọp chết sẽ kéo chúng ta chết theo”.
Có lẽ trên miếng đất này Đông và Tây gặp nhau!
Một bệnh thông thường ở quê nhà vua là bệnh sốt rét. Ngài bị sốt rét kinh niên nên suy nhược dần.
Với những hiểu biết thô thiển về y khoa, chúng tôi xin được phép kết luận:
Vua Quang Trung không bị một bệnh cấp tính cướp tuổi trời như đau ruột dư, nghẹt ruột, lủng dạ dày, phạm phòng hay bị đầu độc.
Với những nhân chứng một lòng một dạ với nhà vua như Ngọc Hân công chúa, các tướng bách chiến như Trần Quang Diệu, Ngô văn Sở, Ngô Thời Nhiệm, một người luôn luôn giữ vẻ khách quan như La Sơn Phu Tử, chúng ta chắc chắn Bắc Bình vương đã không băng hà sau một cơn bệnh kéo dài ít nhất 90 ngày. Theo sử liệu, ngài thường bị mệt mỏi, nhức đầu, kém ăn ngủ, có những vết đỏ trên da, chúng tôi nghiêng ý nghĩ chúng tôi về một chứng bệnh về máu hay về gan. Cố nhiên đây là một phỏng đoán nhiều thiếu sót, xin quý vị độc giả lượng thứ cho biết thêm nếu có những tài liệu chính xác hơn. Xin quý vị vui lòng cho Tòa soạn biết.
Đặc san Tây Sơn. - Xuân Kỷ Tỵ (1989)
(Trang 45-49)