Phần thứ hai “... Oanh liệt chốn sa trường...”
“Ôi! Những trận mạc khiến ‘trời long đất lở’
Những chiến thắng tưng bừng! Những vinh quang rực rỡ
Ôi! Những võ công oanh liệt chốn sa trường...”
Huy Thông (Tiếng địch sông Ô)
Hồ Thơm
Sự định vị của tuổi trẻ trong cơn quốc biến
Quán Như
Philadelphia, PA
Ba anh em Tây Sơn, theo sử liệu, thuộc dòng dõi Hồ Quý Ly, một nhân vật phi thường trong lịch sử Việt Nam, người chủ trương cuộc cách mạng Minh Đạo với những biện pháp tân kỳ đã đi trước thời đại cả ba thế kỷ. Tổ phụ của anh em Tây Sơn là lớp lưu dân đầu tiên xuất phát từ làng Quỳnh Lưu (Thanh Hóa) để theo chân Nguyễn Hoàng vào Nam mở đất dựng nước, đến đời cụ Hồ Phi Phúc, thân sinh ba anh em Tây Sơn, định cư ở ấp Kiên Thành, làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn một thôn làng khỉ ho cò gáy nằm dọc chân núi Trường Sơn, mà cho tới nay dân cư vẫn còn thưa thớt.
Cũng chính từ chốn hẻo lánh ấy, anh em Tây Sơn đã khởi nghĩa dựng cờ.
Theo lời một nhân chứng sống tại Đàng Trong vào thời kỳ đó, giáo sĩ Diego De Jumilla, thì Phong Trào Tây Sơn đã bắt đầu hoạt động mạnh vào tháng 4 năm 1773. Quân đội Tây Sơn đã từ miền núi phóng xuống các thôn quê vào các chợ búa giữa ban ngày. Họ có đủ gươm, giáo, súng, nỏ nhưng không hại tính mạng và tài sản của ai hết. Trái lại, họ tuyên ngôn làm các việc công bằng, thẳng thắn, chỉ trừ khử bọn quan lại tham nhũng, những kẻ trọc phú lưu manh và trộm cướp. Họ lấy của người giàu phân phát cho kẻ nghèo chỉ dành cho họ một phần thóc gạo (để sống) mà thôi. Ai chống lại họ, họ giết, biết điều thì thôi.
Một giáo sĩ Tây Ban Nha khác trong phái bộ truyền giáo đã ghi lại. “Họ đã tự xưng là những người theo mệnh trời để thi hành công lý và giải phóng nhân dân khỏi ách quan liêu phong kiến đúng như các nhà cách mạng xã hội chủ trương ngày nay” (tức các nhà Cách Mạng Xã Hội Âu Châu thế kỷ 18).
Du khách Barrow, người đã viếng thăm lãnh thổ do Tây Sơn kiểm soát năm 1793, còn cho biết thêm: “Cuộc cách mạng được toàn thể nhân dân hưởng ứng, gồm cả nông dân, thường dân, một số người Trung Hoa lánh nạn Mãn Thanh (Thiên Địa hội), các tăng sĩ nhà chùa Phật giáo và Lão giáo, các sắc dân thiểu số vùng cao nguyên Trung phần và cả vị vua cuối cùng của Chiêm Thành cũng tham dự nữa”.
Từ các chứng liệu nêu trên, ta có thể hình dung cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã phát triển trên quy mô toàn dân (khác với sự cưỡng ép lịch sử của nhóm sử gia Hà Nội khi lập luận cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa của giai cấp nông dân theo quan điểm giai cấp đấu tranh của duy vật biện chứng), trong đó mọi thành phần xã hội, các sắc tộc trong đại khối dân tộc Việt đều tích cực tham dự. Cũng từ các chứng liệu trên, ta thấy cuộc khởi nghĩa Tây Sơn phát xuất từ sự phản kháng một tình trạng xã hội bất công và anh em Tây Sơn là những người nhận mệnh trời để làm cuộc đổi đời nhằm cứu vớt nhân dân khỏi những đàn áp bất công bấy giờ, hay dùng dụng ngữ của người xưa, họ là những người “Thế thiên hành Đạo”.
Như vậy động cơ của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn là ý thức về sứ mạng cải tạo xã hội, chống đối bất công. Trong dòng Sử Việt, những cuộc khởi nghĩa với động cơ tương tợ như vậy xảy ra khá nhiều, nhất là trong những giai đoạn triều chính suy thoái. Thế nhưng tại sao những cuộc khởi nghĩa khác lại không đạt được những thành quả vĩ đại, vinh quang như cuộc Khởi Nghĩa Tây Sơn? Phải chăng vì những Phạm Du, Thân Lợi đời Lý; Ngưu Hống, Ngô Bệ đời Trần; Trần Cao, Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu... đời Lê mặc dù có thể xuất phát từ động cơ chính đáng, mặc dù có thể có khả năng vận động được một khối lượng đông đảo quần chúng yểm trợ, nhưng đã không có được quan điểm đấu tranh thích hợp với hoàn cảnh và một cái nhìn cách mạng toàn triệt để xây dựng lại đất nước sau khi đập phá chính quyền hủ lậu đương thời, nên các cuộc khởi nghĩa đó phản tác dụng trái với động cơ chính đáng ban đầu; các cuộc khởi nghĩa như thế - mà sử thường gọi là các đám giặc cỏ - thường gây thêm rắm rối cho xã hội, làm suy yếu đất nước, và gián tiếp chịu trách nhiệm đã gây ra tình trạng suy loạn làm mồi cho ngoại xâm, như các cuộc khởi nghĩa dưới triều Thiệu Trị, Tự Đức nhà Nguyễn.
Do đó, khi nghiên cứu quá trình vận động của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, và đặc biệt qua những biến chuyển tư tưởng của người anh hùng áo vải Quang Trung phản ảnh qua từng mốc điểm: Hồ Thơm - Bắc Bình vương Nguyễn Huệ - Quang Trung hoàng đế Nguyễn Quang Bình, chúng ta sẽ nhìn thấy tầm quan trọng của sự định vị của người. Sự định vị có tác dụng như một bước chuyển đã nâng cuộc Khởi Nghĩa Tây Sơn từ tầm mức một cuộc khởi loạn tại một địa phương bước lên quy mô một cuộc cách mạng triệt để, tiêu diệt não trạng cát cứ địa phương của các dòng tộc Mạc, Trịnh, Nguyễn đã thiết lập gần 300 năm, đặt nền tảng cho ý thức dân tộc toàn Việt và một chủ quyền thống nhất từ Bắc chí Nam, bảo vệ đất nước một cách hữu hiệu qua các chiến công lẫy lừng phá Thanh, bình Xiêm; đập vỡ trong trứng nước các thế lực phương Tây hỗ trợ cho thế lực phản bội Nguyễn Ánh; xây dựng nền quốc học, và phục hồi sự tự hào dân tộc qua các biện pháp toàn diện và toàn triệt trên các lãnh vực ngoại giao, quốc phòng, kinh tế, văn hóa và xã hội chỉ trong vòng bốn năm ngắn ngủi của cuộc cách mạng Quang Trung (1788-1792) một cuộc Cách Mạng tân kỳ và đầy triển vọng quang phục đất nước.
I.- Các giai đoạn thực hiện cuộc cách mạng Tây Sơn
Khi nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và sự nghiệp của Quang Trung, ta gặp một khó khăn khá lớn, phần nhiều các sử liệu viết về Tây Sơn đều do các sử thần của các thế lực thù nghịch với Tây Sơn như các sử thần nhà Thanh, nhà Nguyễn và ngay các chứng liệu của các phái bộ truyền giáo - vốn hỗ trợ tối đa Nguyễn Ánh - đối với Quang Trung cũng không lấy gì làm thiện cảm.
Do đó, để có thể thấu đáo kích thước sự nghiệp Quang Trung, bên cạnh những sử liệu chính thức như Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Lịch Triều Tạp Kỷ... chúng ta sẽ đưa nhiều vào truyền thuyết còn lưu hành tại quê hương người (Bình Định), vào những dấu ấn của sự nghiệp Người Anh Hùng Áo Vải trong Võ Nhạc Tây Sơn, trong trò chơi Bài Chòi lại vùng Quy Nhơn, nghệ thuật sử dụng trống trận...
Trong giới hạn của đề tài, chúng ta chỉ đề cập đến một số giả thuyết liên quan đến quá trình huấn tâm dưỡng khí của người áo vải Hồ Thơm trong suốt mười năm ẩn nhẫn núp bóng dưới trướng vua anh Thái Đức Nguyễn Nhạc để tự huấn luyện cho mình một bản lãnh quân sự và chính trị, tự tài bồi cho mình một tâm thức cách mạng có thể quán triệt được hướng tiến của lịch sử và từ đó định vị được vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc tiếp truyền những tinh hoa của quá khứ nhằm khai thông những bế tấc thời đại qua công trình Mở Nước của bốn năm cách mạng Quang Trung.
Theo sử liệu, sự nghiệp của người anh hùng áo vải Hồ Thơm có thể phân làm ba giai đoạn.
1.- Giai đoạn định hướng (1772-1782).
Là giai đoạn cống hiến của người trẻ tuổi Hồ Thơm vừa tròn 20 tuổi từ động lực cải tạo xã hội của phong trào Tây Sơn, chính trong giai đoạn này Hồ Thơm - Nguyễn Huệ đã thủ đắc được những kinh nghiệm hành động, thấu triệt được những bế tắc trong đường lối hành động của anh mình là Nguyễn Nhạc để từ đó xây dựng được một phương thức đấu tranh sẽ tự mình thể hiện trong giai đoạn định vị.
2.- Giai đoạn định vị (1782-1789).
Giai đoạn hiển hách của sự nghiệp Bắc Bình vương Nguyễn Huệ bốn lần vào Nam tiêu diệt thế lực cựu Nguyễn cùng các lực lượng Tây phương và Xiêm La hỗ trợ Nguyễn Ánh, ba lần ra Bắc tiêu diệt thế lực Trịnh và bọn xâm lược Mãn Thanh.
3.- Giai đoạn chính vị (1789-1792).
Giai đoạn nhận trách nhiệm thực hiện cuộc Cách Mạng Quang Trung, đã hồi phục được tình trạng thịnh trị của đất nước sau ba thế kỷ nội loạn và chia cắt, đặt nền tảng vững chắc cho một nền văn minh toàn Việt qua những biện pháp dân tộc và nhân chủ triệt để trên các lãnh vực ngoại giao, quốc phòng, nông nghiệp, thương mại, văn hóa, xã hội...
Nhìn lại các giai đoạn của sự nghiệp Quang Trung, ta thấy khởi điểm của sự nghiệp ông xuất phát từ động cơ cải tạo xã hội trước triều chính nhiễu nhương thời bấy giờ ở Nam Hà khi Trương Phúc Loan nắm quyền phụ chính. Trong giai đoạn định hướng Hồ Thơm - Nguyễn Huệ chỉ đóng một vai trò khiêm tốn, một vị tướng dưới quyền sai sửa của anh mình là Nguyễn Nhạc.
Chính Nguyễn Nhạc trong giai đoạn này đã đóng một vai trò chính yếu trong sự phát triển phong trào Tây Sơn từ quy mô một cuộc khởi loạn tại một địa phương nhỏ lần lần trở thành một lực lượng áp đảo tại Nam Hà. Khí thế và tầm mức ảnh hưởng của phong trào Tây Sơn lần lần lan rộng trên toàn quốc. Bằng đảm lược và cơ trí, Nguyễn Nhạc đã xây dựng lực lượng Tây Sơn thành một thế lực chính trị mới dâng lên trong khi các thế lực Trịnh và Nguyễn càng ngày càng suy thoái bởi sự sa đọa trong cách sống (sự hoang dâm xa xỉ của Trịnh Sâm, sự tham lam nhũng loạn của Trương Phúc Loan) và sự bạc nhược trong tinh thần (thái độ nhu nhược của vua Lê, sự bất lực của chính quyền Trịnh trước nạn Kiêu Binh hoặc đầu óc ỷ lại ngoại bang của Cựu Nguyễn sẵn sàng rước bất cứ loại voi nào voi Xiêm, voi Tàu, voi Pháp - để về dày mồ tổ quốc Việt).
Người thanh niên Hồ Thơm khi gia nhập hàng ngũ Tây Sơn vừa tròn 20 tuổi, trong suốt mười năm dưới trướng anh, hẳn nhiên ông đã chiêm nghiệm về nội tình và sở trường lẫn sở đoản của các thế lực đương thời, kể cả thế lực của chính phong trào Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của anh mình là Nguyễn Nhạc từ những thao thức ấy ông đã củng cố cho mình một quan điểm toàn triệt về sự thống nhất quốc gia, khi đối chiếu tình trạng suy vong của đất nước, hậu quả của tinh thần cát cứ địa phương của Trịnh, Nguyễn và của cả anh mình, xây đựng cho mình một tâm thức vô kỷ: tâm thức thực sự cách mạng khi đặt ý nghĩa của đời sống trên sự cống hiến trọn vẹn tất cả năng lực, trí tuệ và tâm cơ vào việc phục vụ không giới hạn lý tưởng chung. Tâm thức này là một khước từ dứt khoát với quan điểm Cá Nhân Chủ Nghĩa của Vũ văn Nhậm và quan điểm Cơ Hội Chủ Nghĩa của Nguyễn Hữu Chỉnh, và sau hết, ý thức về sự liên tục của lịch sử như một dòng vận động, có lúc thăng lúc trầm, nhưng nguyên khí của dòng vận động ấy không hề suy suyển khi những cá nhân hay thế hệ đã định vị và xác tín được về vai trò của mình trong việc tiếp truyền những tinh hoa của quá khứ hầu khai thông những bế tắc hiện tại và mở một hướng thăng hóa trong tương lai quang phục đất nước.
II.- Tinh thần Cách mạng Tây Sơn.
Sự định vị của người thanh niên Hồ Thơm, hay nói cách khác, sự xác tín về sứ mệnh của mình trong dòng vận động lịch sử, đã tạo cho ông một bản sắc khác hẳn những nhân vật đương thời, và đó cũng là nguyên nhân của những thành tựu vô cùng vĩ đại của ông. Chúng ta sẽ cố phân tích các yếu tố đã tập thành bước định vị triệt để đó.
A.- Xây dựng một tâm thức vô kỷ.
Đó là sở nguyện cống hiến một cách không giới hạn năng lực và tâm cơ của mình vì một lý tưởng chung, tâm thức vô kỷ nếu thể hiện một cách rốt ráo trở thành sự Xả Kỷ - hoàn toàn tiêu trừ các ngã chấp, các động lực hành động vì cá nhân mình dù trong ý thức hay vô thức - sự xả kỷ có thể nhìn thấy ở đấng Christ hay Phật Thích Ca. Ta không kỳ vọng một tâm thức xả kỷ ở người đấu tranh, nhưng phải đòi hỏi ở họ một tâm thức vô kỷ, một đức tính căn bản của đạo đức cách mạng.
Rất nhiều sử liệu đã cho thấy được tâm thức vô kỷ của người áo vải Quang Trung.
Khi đánh tan thế lực Trịnh, quét sạch bọn Kiêu Binh, Nguyễn Huệ đã bày tỏ lòng thành thực của mình muốn tạo cơ hội cho vua Lê nắm lấy giềng mối nước nhà để củng cố sự thống nhất sơn hà, ông đã tâu với vua Lê: “Thần vì tôn phò hoàng gia mới đến đây, chứ đâu có kể đến công lợi, đó là toàn do lòng trời, chứ không phải sức người làm nổi. Nếu thần có lòng hậu riêng với Bệ hạ, thì thần chỉ có thể điều động được quân lính và thuyền chiến kia thôi, còn như nước lụt rút xuống gió nồm lộng lên há phải là chuyện mà sức thần làm nổi”.
Qua lời phát biểu trên ta thấy được tinh thần vô kỷ của Nguyễn Huệ, đã nhún nhường không tự kiêu về chiến công hiển hách Bắc tiến đã quét sạch nhà Trịnh mà khiêm tốn nhắc đến các yếu tố thiên nhiên - nước lụt hạ xuống thuận tiện cho việc hành quân, gió nồm thổi giúp thuyền chiến Tây Sơn thần tốc ra Bắc - để từ đó đặt nhẹ vai trò của mình và xin vua Lê chấn chỉnh triều chính.
Nhưng vua Lê với não trạng ỷ lại từ mấy trăm năm dựa vào Trịnh, đã khẩn khoản van nài Nguyễn Huệ: “Quả nhân có nước mà không dự chính sự... Những việc quốc kế binh mưu vốn không quen tập. Lệnh tôn (chỉ Nguyễn Huệ) đã làm việc tôn phò, xin ở lại vài năm thì may lắm”.
Rõ ràng với một thời cơ thuận lợi và có chính danh như vậy, nếu Nguyễn Huệ là người không có tâm thức vô kỷ hẳn ông đã nắm lấy cơ hội để dựng nghiệp lãnh chúa riêng cho mình, nhưng ông đã khẳng khái và dứt khoát từ chối lời đề nghị của vua Lê.
Trong khi đó, vua Lê vẫn không hiểu được lòng thành của Nguyễn Huệ và đã đặc cách sai triều thần đem tờ chiếu sắc phong ông làm Phụ Chính Dực Vũ Uy Quốc Công (một tước phong ngang với tước phong đối với các chúa Trịnh trước đây).
Khi nhận được tước phong, mặc dù bất mãn vì vua Lê đã không thấu hiểu lòng thành của mình, Nguyễn Huệ đã sai người dâng kính lễ tạ cực kỳ chu tất, nhưng đã bảo riêng với Nguyễn Hữu Chỉnh: “Ta đem vài vạn quân ra đây, chỉ một trận là dẹp yên Bắc Hà, một tấc đất, một người dân, gì mà chẳng phải của ta cả. Ví bằng ta muốn xưng đế, xưng vương, có gì là chẳng được, sở dĩ nhường nhịn mà không làm, chỉ là hậu đãi nhà Lê đó thôi, sắc lệnh Nguyên Soái hay Quốc Công có thêm gì cho ta đâu. Chẳng hóa ra vua quan Bắc Hà chực lấy danh hão để lung lạc ta sao?”.
Lời phát biểu đã hiện lộ trong nhân cách của Nguyễn Huệ một tâm thức vô kỷ: coi rất nhẹ những thành công của cá nhân, kể cả những thành tựu của mình trong sự nghiệp cứu nước, và từ tâm thức này đưa đến các hậu quả là tinh thần Vô Công: không chủ tạo ra một sự nghiệp cho riêng mình qua việc khước từ một sự nghiệp lãnh chúa Bắc Hà mà nhà Lê đã dâng hiến; và tinh thần Vô Danh: đã xem nhẹ những danh lợi thường tình như Nguyên Soái, Quốc Công hay Chủ Tịch, Tổng Thống... mà người anh hùng Hồ Thơm đã gọi là “danh hão”.
Tâm thức vô kỷ là một đặc tính thường gặp ở lứa tuổi thanh niên giàu lý tưởng, tuy nhiên tâm thức này cũng dễ bị lung lạc và thoái hóa do những khuynh hướng cầu danh, tham vọng quyền lực, vốn cũng khá phổ biến ở tuổi trẻ. Do đó muốn bảo tồn và phát huy tâm thức vô kỷ, cần một cuộc chiến đấu triệt để và thường trực với hai kẻ nội thù trong mỗi tâm hồn của thanh niên, đó là bệnh cá nhân chủ nghĩa và bệnh cơ hội chủ nghĩa.
Ở trường hợp Hồ Thơm, cuộc chiến đấu ấy thể hiện trong mối mâu thuẫn giữa ông với những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa ở Vũ văn Nhậm và cơ hội chủ nghĩa ở Nguyễn Hữu Chỉnh.
Các sử gia triều Nguyễn và ngay cả sau này thường cố tình xuyên tạc mối mâu thuẫn giữa Quang Trung và Vũ văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chính như những cuộc tranh chấp quyền lực. Dù không dám quyết đoán Quang Trung đã thành tựu một tư cách minh quân nhân-trí-dũng vẹn toàn, chúng ta có thể khẳng định Nguyễn Huệ là một nhân vật lịch sử đã thể hiện được tinh thần liên tài (ái mộ và đánh giá đúng mức khả năng của người khác) một cách rốt ráo qua các mối tương quan giữa Nguyễn Huệ và Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn Đang Trường, Trần Quang Diệu...và đặc biệt mối tương giao tuyệt vời giữa người áo vải và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp.
Trong trường hợp Vũ văn Nhậm, xuất thân là một tướng lãnh của cựu Nguyễn, khi cầm quân giao chiến với nghĩa quân Tây Sơn bị bại, đã muốn tuẫn tiết, nhưng vì Nguyễn Huệ liên tài cảm mộ khả năng và thao lược của Vũ nên đã dụ hàng và cất nhắc làm đại tướng của Tây Sơn. Vũ đã lập nhiều công lao lớn và được Nguyễn Nhạc gả con gái cho, khi được Quang Trung đặc phái ra Bắc Bình Nguyễn Hữu Chỉnh và tôn phò vua Lê, Vũ văn Nhậm đã chứng tỏ sự say mê quyền lực, tự chuyên độc đoán chỉ sùng giải pháp quân sự mà không hiểu được bản ý của Nguyễn Huệ là tiêu diệt mầm mống của não trạng lãnh chúa ở Nguyễn Hữu Chỉnh và tiếp tục củng cố nền thống nhất quốc gia, lúc đó còn được biểu trưng ở vai trò vua Lê. Chính vì tham vọng quyền lực, vì tinh thần cá nhân chủ nghĩa, đã thúc đẩy Vũ văn Nhậm không những tiêu diệt Chỉnh mà dẹp cả triều nghi nhà Lê, khi vào chốn Bắc Hà, Vũ đã tỏ ra tự kiêu tự đại và bắt đầu xây dựng một sự nghiệp lãnh chúa riêng cho mình. Và đó cũng là nguyên nhân của cái chết của ông ta, khi Nguyễn Huệ được cấp báo đã đem quân thần tốc ra Bắc diệt Nhậm, diệt một mầm mống não trạng lãnh chúa địa phương. Tóm lại, sự tiêu diệt Vũ văn Nhậm là một hành động nhằm chống lại tinh thần cá nhân chủ nghĩa của người anh hùng Nguyễn Huệ chứ không phải sự ghen tài và nghi ngờ của ông ta vì Nhậm là con rể của Nguyễn Nhạc, như sách sử cố tình xuyên tạc.
Đặt giả thuyết Nguyễn Huệ vẫn dung túng Nhậm và giao trách nhiệm trấn giữ Bắc Hà, thì e rằng với cá tính cao ngạo và tinh thần cầu danh, hẳn Vũ văn Nhậm khó lòng nghe theo kế hoạch của Ngô Thời Nhiệm rút quân về dãy Tam Điệp để đào sâu sự chủ quan khinh địch của Tôn Sĩ Nghị, một kế hoạch đóng vai trò rất quan trọng trong chiến thắng Đống Đa sau này, và như thế sự chủ quan, óc cá nhân chủ nghĩa của Vũ văn Nhậm sẽ có tác hại không nhỏ trong sự nghiệp cứu nước của Quang Trung.
Đối với Nguyễn Hữu Chỉnh, một nhân vật kiệt xuất tài kiêm văn võ, Nguyễn Huệ đã chứng tỏ một bản lãnh nhìn người và dùng người khi sử dụng “Thủy Chi Điểu” (con chim cắt nước - tiếng người đương thời xưng tụng về khả năng thủy chiến của Nguyễn Hữu Chỉnh), trong sự nghiệp Bắc tiến thống nhất sơn hà và đồng thời đặt kế hoạch trước để tiêu diệt Chỉnh khi Chỉnh bộc phát tham vọng cá nhân. Cũng như Vũ văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh là một người có đầu óc cá nhân chủ nghĩa, cao ngạo và làm việc chỉ vì quyền lợi cá nhân, hơn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh có nhiều bản lãnh chính trị, có sự giảo hoạt của Tào Tháo (giết em rể và bạn chí thiết Đỗ Thế Long để mua lòng tin cậy của Tây Sơn) và có cơ trí cùng đảm lược dám tạo quyết định táo bạo.
Khuyết điểm của Nguyễn Hữu Chỉnh là tất cả những hành động của ông ta đều phát xuất từ tham vọng cá nhân, và đầu óc cơ hội chủ nghĩa. Trong suốt quãng đời hoạt động, họ Nguyễn không hề tự tạo lực riêng cho mình mà chỉ vận dụng cơ trí để khuynh đảo các thế lực đương thời. Nguyễn Hữu Chỉnh đã âm mưu với Vũ Tất Đạo, em rể Hoàng Đình Bảo để chống Trịnh. Khi Bảo bị Trịnh giết, Chỉnh đầu hàng Tây Sơn và thúc đẩy Tây Sơn phạt Trịnh, âm mưu với Vũ văn Duệ, một tướng bất mãn của Tây Sơn để chống lại Tây Sơn và cuối cùng mượn thế lực Tây Sơn để dẹp dư đảng họ Trịnh rồi tiếm quyền thống lãnh Bắc Hà, xây dựng cơ nghiệp lãnh chúa cho riêng mình.
Đầu óc cá nhân chủ nghĩa và cơ hội chủ nghĩa của Nguyễn Hữu Chỉnh chính là nguyên nhân cái chết bi thảm của của ông ta, cái chết bị xé xác, tan như xác pháo như bài thơ “Cái Pháo” tương truyền do chính ông sáng tác.
Tóm lại tâm thức vô kỷ là một nền tảng cho đạo đức cách mạng của người hành động, tự nó đã là một khước từ dứt khoát với đầu óc cá nhân chủ nghĩa và cơ hội chủ nghĩa, và chính nhờ thủ đắc một tâm thức, vô kỷ triệt để, người thanh niên Hồ Thơm mới có thể định vị trong nghiệp cả sau này.
B.- Sở đắc một bản lãnh hành động.
Yếu tố kế tiếp sau khi xây dựng một tâm thức vô kỷ là tự huấn luyện, cân nhắc, đối chiếu để sở đắc một bản lãnh hành động - hay nói cách khác tiêu hóa phần tri (kiến thức) để thể nhập phần tri ấy vào phần hành một cách thuần thục.
Do đó bản lãnh hành động không phải là tham bác nhặt nhạnh các kiến thức viễn vông mà chú vào việc thẩm thấu các kiến thức cần thiết giúp ích cho việc thực hiện lý tưởng.
Tất cả các tài liệu lịch sử, dù là các tài liệu của những thế lực chống Tây Sơn, đều khẳng định về bản lãnh quân sự của người thanh niên Hồ Thơm, một bản lãnh khiến chúng ta không hổ thẹn chút nào khi so sánh với các thiên tài quân sự cổ kim như Alexandre, Napoléon... Ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh thêm một chi tiết về tài cầm quân của người thanh niên ấy. Ngay vào năm đầu tiên ở giai đoạn định vị, năm 1782, Nguyễn Huệ đã điều khiển thủy lục quân vào Nam dẹp Nguyễn Ánh, trong trận thủy chiến trên sông Cần Giờ (sông Sàigòn), theo Lịch Triều Tạp Kỷ thì “Quân thủy Tây Sơn nhân chiều gió thuận, nước thủy triều đang lên, giương buồm căng, xông pha thẳng tiến. Quân thủy Gia Định (tức quân Nguyễn Ánh), chưa giao chiến đã tự tan vỡ. Riêng cô Man Hòe người Phú Lang Sa là chủ tàu Tây Dương chống cự và chiến đấu khá lâu. Văn, Huệ hợp quân lại vây đánh thiêu hủy cả tàu. Man Hòe bị giết”.
Chiến thắng Cần Giờ là cuộc thử lửa đầu tiên của lực lượng dân tộc Việt với lực lượng quân sự Tây phương do Manuel một người Pháp đánh thuê do Bá Đa Lộc (Pigneau) tổ chức để giúp Nguyễn Ánh. Chiến thắng này đã chứng tỏ:
1. Tình trạng kỹ thuật cơ giới của ông cha ta hẳn đã đạt được trình độ nào đó, đủ để tiêu diệt một tàu chiến Tây phương trang bị bằng những vũ khí tối tân thời bấy giờ, nếu ta nhớ lại bốn thế kỷ trước đó, Hồ Nguyên Trừng đã phát minh súng thần công hiển nhiên ta có thể kết luận tinh thần thực dụng và trình độ khoa học kỹ thuật của tổ tiên không hẳn thua sút lắm so với Tây phương.
2. Tuy nhiên nếu theo dõi tiếp các giai đoạn lịch sử về sau, chỉ 50 năm sau chiến thắng Cần Giờ, Việt Nam bắt đầu thất bại nhục nhã trước binh lực và cơ giới Pháp. Chỉ 170 tên lính đánh thuê dưới quyền Francis Gamier đủ để chiếm lãnh trọn miền Bắc khiến Nguyễn Tri Phương phải tuẫn tiết, chỉ bảy tên lính dưới quyền Hautefeuille đủ để chiếm thành Ninh Bình.
3. Sự sụp đổ thảm hại của quân lực triều Nguyễn, ngoài các nguyên nhân chính là chính sách bế quan tỏa cảng, tinh thần Tống Nho giáo điều, sự bạc nhược bất nhất của triều chính... còn có một nguyên nhân khác, đó là tinh thần quật khởi, có đề kháng và sự tự tin dân tộc đã suy thoái trong thời nhà Nguyễn, không còn lưu giữ được sinh phong và hào khí dân tộc mà người anh hùng Hồ Thơm đã biểu dương qua các chiến thắng lẫy lừng: phá Thanh, bình Xiêm, dẹp Tây Dương, diệt các thế lực cát cứ địa phương của Trịnh Nguyễn...
Bản lãnh hành động của người áo vải Hồ Thơm không chỉ giới hạn trong lãnh vực quân sự. Trên lãnh vực ngoại giao, Quang Trung hoàng đế đã tạo ra những chiến thắng cũng ngoạn mục không kém gì những chiến thắng Đống Đa, Hà Nội. Với sự phụ tá của Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, mặt trận ngoại giao đã đạt được các thành quả:
- Bãi bỏ lệ cống người vàng đã thực hiện từ 300 năm.
- Thành công trong yêu sách lập Nha Hàng tại Nam Ninh để làm một Tô Giới cho người Việt sang buôn bán tại Trung Hoa. Như vậy gần 100 năm trước các liệt cường Tây phương, Đại Việt đã lập được một tô giới đầu tiên tại Nam Ninh, Trung Quốc.
- Yêu sách về việc đòi đất Lưỡng Quảng (lãnh thổ Nam Việt thời Triệu Đà) để làm kinh đô.
- Xin cầu hôn công chúa nhà Thanh.
Hai yêu sách cuối đã không được thực hiện vì người anh hùng Quang Trung băng hà.
Ngoài hai lãnh vực quân sự và ngoại giao nêu trên, bản lãnh trị quốc của Quang Trung đã chứng tỏ một nhãn quan toàn triệt về mọi lãnh vực. Ở địa hạt nông nghiệp, Quang Trung đã ra lệnh hồi phục và củng cố chế độ công điền truyền thống sau khi đã quân phân ruộng đất. Người cho thi hành một chính sách khuyến nông rộng rãi nhằm mục đích hồi cư các thành phần ly hương để ruộng có người cày, khuyến khích tăng gia sản lượng của ruộng đất, giản dị hóa các loại sổ sách địa bạ và giảm các loại sưu thuế (loại thuế điện tiền, tô dịch). Chính sách nông nghiệp của Quang Trung đã đưa đến kết quả chỉ bốn năm thực hiện đã tạo được một tình trạng thịnh vượng đến đỗi sử quan triều Nguyễn xưa nay cố tình xuyên tạc và bôi nhọ các công trình của Quang Trung cũng phải công nhận “Năm Quang Trung thứ 4, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa hòa gió thuận. Cuộc sinh hoạt đã phát đạt đầm ấm tới nửa phần thuở thanh bình ngày trước”.
Lãnh vực kinh tế thương mại cũng được Quang Trung quan tâm trong việc đúc tiền đồng, lập các thương cảng để giao dịch với Trung Hoa như Bình Thủy Quan ở Cao Bằng, Du Thôn Ải ở Lạng Sơn. Điểm đặc sắc nhất trong công trình cách mạng Quang Trung là việc phổ cập nền giáo dục đến cấp thôn xã, dùng đình, miếu, chùa làm trường học, thu dụng tất cả các nho sinh không phân biệt xuất thân (Lê, Trịnh hay Nguyễn) để làm huấn đạo trong việc truyền bá kiến thức.
Việc phục hồi nền Quốc Học đã được ngài đặt nặng qua việc sử dụng chữ Nôm làm văn tự chính thức trong công văn của chính quyền và việc thiết lập Sùng Chính viện, một cơ quan tương tự, biểu dương văn hóa và truyền thống dân tộc. Tất cả những biện pháp vừa nêu trên đã thực hiện chỉ trong vòng bốn năm, trong tình trạng đất nước vô cùng loạn ly và chia rẽ sau 300 năm tương tranh Mạc Lê, Trịnh Nguyễn, đã chứng tỏ một bản lãnh toàn triệt của người anh hùng Quang Trung trên khắp các lãnh vực. Dĩ nhiên không hẳn người tuổi trẻ Hồ Thơm đã có được một kiến thức bao quát và đa diện như thế. Sự vĩ đại của ông đã thể hiện ở điểm ông đã bổ sung những khiếm khuyết trong kiến năng của mình bằng cách sử dụng khả năng của người khác. Và sự xử dụng ở đây không phải chỉ là sự lợi dụng vắt chanh bỏ vỏ mà trái lại, là một sự liên tài và tri kỷ thực sự.
Chỉ với tinh thần liên tài và thông cảm rốt ráo, Quang Trung mới có thể, ngay khi ra Bắc gặp Ngô văn Sở lui binh về dãy núi Tam Điệp, đã suy đoán đó là kế hoạch lui binh do Ngô Thời Nhiệm chủ động và tỏ lòng kính phục cơ trí của họ Ngô.
Tinh thần khiêm tốn, cầu hiền qua cách cư xử dùng lễ Tân Sư (đối xử vừa như thầy vừa như khách) mà người anh hùng Hồ Thơm đã dành cho Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích, Nguyễn Đăng Trường và đặc biệt La Sơn Phu Tử đã được các nhân vật ấy đền đáp bằng sự cống hiến trọn năng lực và trí tuệ cho công trình cách mạng Quang Trung, và khi mà Tây Sơn sụp đổ, nhiều người đã lấy cái chết để đền đáp ơn tri ngộ của người áo vải Hồ Thơm như Trần Quang Diệu...
Tóm lại để chuẩn bị cho mình một hành động, người tuổi trẻ Hồ Thơm đã cố gắng chiêm nghiệm và đối chiếu để tự tài bồi một bản lãnh hành động ở khắp các lãnh vực, và quan trọng hơn, biết tự lượng giá mình để bổ sung những thiếu sót trong khả năng mình bằng một tinh thần liên tài và cầu hiền thực sự. Và có thể nói, đó chính là chìa khóa của sự thành công rực rỡ của sự nghiệp Quang Trung.
C.- Xác tín lý tưởng và phương thức hành động.
Yếu tố thứ ba có tính cách quyết định trong quá trình định vị của người thanh niên Hồ Thơm là sự xác tín một lý tưởng và phương thức hành động sau khi đã tài bồi một tâm thức vô kỷ và thủ đắc một bản lãnh hành động.
Xác minh một lý tưởng là một bước quan trọng. Sau khi đã vạch được một hướng đi. Nó bao hàm một quyết tâm đeo đuổi đến kỳ cùng lý tưởng đó, không rơi vào tình trạng hoang mang bất định hay bỏ cuộc nửa chừng. Nó biểu lộ một ý chí mạnh mẽ chấp nhận đương đầu với mọi thử thách để đạt được lý tưởng.
Người thanh niên Hồ Thơm đã ẩn nhẫn dưới trướng vua anh Nguyễn Nhạc đã nhận định ra nguyên nhân sự suy yếu của đất nước là não trạng cát cứ địa phương do sự phân chia Nam Bắc Triều, đàng trong đàng ngoài gần 300 năm và từ đó nảy sinh tình trạng đánh mất truyền thống đại đoàn kết dân tộc và niềm tự hào với quá khứ cùng chung một tổ bản cũng như niềm tự tin vào tương lai quang phục tự cường.
Trong nhận định đó, ông đã xác quyết sứ mệnh tranh đấu vì nền thống nhất dân tộc và vạch hướng một công trình Mở Nước trên căn bản tiếp truyền những tinh hoa quá khứ.
1. Củng cố sự thống nhất quốc gia: Nhìn vào các nhân vật thời ông, rõ ràng người thanh niên Hồ Thơm là người duy nhất đã xác tín vào sự nhất thống của tổ quốc và tranh đấu đến kỳ cùng vì mục tiêu ấy.
2. Tiêu diệt thế lực cựu Nguyễn ở Đàng Trong, đập vỡ thế lực Trịnh ở Đàng Ngoài, phá hủy trong trứng nước các tham vọng lãnh chúa địa phương của Vũ văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh. Tất cả các thành tích ấy đều nhằm một mục đích: Củng cố sự thống nhất quốc gia.
Khi ra Bắc diệt xong thế lực Trịnh, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ vào yết kiến vua Lê Hiển Tông, đã bày tỏ một thái độ rất khiêm cung nhún nhường. Ông đã tâu với vua Lê: “Thần là kẻ thất phu ở Tây Sơn, nhân thời thế, nổi dậy, tuy chưa từng mặc áo và ăn lộc Bệ hạ ban cho, nhưng vì thánh đức của Bệ hạ tỏ rộng và xa khắp, thần ở chỗ man ri cũng kính cẩn ngưỡng mộ. Ngày nay được nhìn mặt rồng, cũng do lòng chí thành của thần, như hoa quỳ hướng dương cảm thông được thế. Vả lại họ Trịnh vô lễ, lấn lướt bề trên nên trời mượn tay thần đánh diệt họ Trịnh để mở rộng uy quyền cửa Bệ hạ... May được thành công, thực bởi phúc đức của bệ hạ xui lên đó. Chỉ mong khánh thượng khang cường, trị vì một nước để cho thần dân đều được ơn nhờ”.
Lời phán đó đã bộc lộ một tâm tình khiêm tốn và xác quyết lập trường bất di dịch của Nguyễn Huệ. Chỉ có một đất nước Việt không hề có nước Bắc Hà nước Nam Hà. Không có Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ.
Ta thử so sánh lời phát biểu của Nguyễn Nhạc, một kỳ tài thời đó khi ra Bắc để giám sát công việc của em và vào hội kiến với vua Lê:
“Họ Trịnh chuyên quyền chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng nếu của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà vua giữ vững triều cương rồi hai nước chúng ta đời đời giao hảo”.
Lời phát biểu của Nguyễn Nhạc đã chứng tỏ cương vị Chủ Tể một nước nói chuyện với Chủ Tể một nước khác, nó đã xác định trên căn bản, não trạng cát cứ địa phương của Nguyễn Nhạc, cũng như hầu hết các nhân vật đương thời. Và đó là kết quả tất nhiên của tình trạng chia đôi đất nước trên thực tế đã kéo dài 300 năm.
Để thấu đáo về não trạng “địa phương chủ nghĩa” ấy, ta phải thành thật và can đảm nhìn nhận rằng chỉ mới 20 năm chia cắt đất nước vì họa cộng sản, trong sinh hoạt chính trường, do vô tình hay cố ý, đã nảy nở một vài phân biệt miền Bắc, miền Nam. Và trong đời sống cộng đồng trước và ngay cả sau 1975 ở hải ngoại, vẫn còn tiềm ẩn, một cách ý thức hay vô ý thức, sự phân biệt Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Có nhìn rõ não trạng “kỳ cục” đó trong cộng đồng, chúng ta mới nhìn rõ tầm mức vĩ đại của tinh thần không kỳ thị, quan điểm minh bạch về một nước Việt của Quang Trung.
Từ đó, ta mới thấy được mối mâu thuẫn giữa Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc là mâu thuẫn về lập trường. Lập trường của Nguyễn Nhạc bị hạn chế trong tầm nhìn một địa phương cục bộ sở nguyện của ông chỉ giới hạn trong lãnh thổ “Nam Hà” trong khi lập trường của Nguyễn Huệ đã vượt lên tầm mức toàn lãnh thổ Việt trên mặt không gian, và xuyên suốt trên dòng vận động lịch sử Việt ở mặt thời gian.
Mối mâu thuẫn đó đã lên đến cực điểm khi Nguyễn Huệ dẫn quân vào kỳ thành Quy Nhơn và Nguyễn Nhạc phải lên thành mà khóc: “Nỡ lòng nào mà nồi da xáo thịt như thế” khiến Nguyễn Huệ phải động lòng rút quân.
Có lập luận cho rằng, Quang Trung đã không dứt khoát tiêu trừ nốt não trạng cát cứ địa phương của anh mình, khiến Đại Việt dưới triều Tây Sơn vẫn còn ba chính quyền trên thực tế. Nguyễn Lữ ở miền Nam, Nguyễn Nhạc ở Nam Trung Phần và Nguyễn Huệ từ Thuận Hóa ra Bắc, và do đó cuộc cách mạng Quang Trung của ông không thể thực hiện được trên toàn lãnh thổ Việt, và hơn nữa, khả năng của Nguyễn Lữ và Nguyễn Nhạc tầm thường khiến Nguyễn Ánh có thể quật khởi về sau.
Điểm nhận xét trên càng cho ta thấy bản chất rất Người của anh hùng Hồ Thơm, nhất là khi ta xét đến thời đại của ông, lúc nền đạo lý căn bản vẫn dựa trên tam cương ngũ thường, và Nguyễn Nhạc, vừa là một người anh quyền huynh thế phụ, vừa là người dẫn dắt Nguyễn Huệ vào con đường đấu tranh. Do đó ông không thể đành đoạn thẳng tay. Tính chất nhân bản đó hoàn toàn khác biệt hẳn bọn người không tim ở Bắc Bộ Phủ, những kẻ tố cha, từ con, đoạn tình anh em, chồng vợ, mà yếu tố gọi là “đạo đức cách mạng” đó họ chỉ thu vén trong “trung với đảng”.
Dù sao, vì ơn sâu và tình riêng không thể nào dứt khoát diệt trừ nốt chướng ngại vật cuối cùng của não trạng cát cứ địa phương, cũng gây trong tâm hồn Nguyễn Huệ một sự giằng co, u uất; bởi vì theo sử liệu, vào tuổi 40 (1792), ở cái tuổi tráng kiện nhất của đời người, với một sự nghiệp rực rỡ và hầu như mọi ước nguyện đều thành tựu, vậy mà Nguyễn Huệ băng hà vì bịnh “huyết vận”. Dùng danh từ y lý hôm nay là bị “stroke”, một căn bịnh do những mối mâu thuẫn nội tâm.
Cuộc đời của người thanh niên Hồ Thơm, với một sự nghiệp vĩ đại như thế, với sự tri kỷ của người đàn bà tuyệt vời như Lê Ngọc Hân, thì phải chăng niềm u uất duy nhất trong nội tâm chỉ có thể là sở nguyện củng cố nền thống nhất sơn hà chưa được thực hiện toàn vẹn?
Và phải chăng sở nguyện đó, Nguyễn Huệ trao quyền cho thế hệ hôm nay?
2. Phát triển ý thức toàn Việt.
Sự thống nhất chỉ được thực hiện trên mặt địa lý cũng chưa hẳn là một điều kiện lý tưởng, nếu không được hỗ trợ bằng một ý thức dân tộc toàn Việt, ý thức dân tộc là yếu tố sinh tử quyết định sự tồn tại của một quốc gia. Và vì thế ý thức dân tộc cũng phải được nuôi dưỡng, tài bồi và thăng hóa để bắt kịp đà tiến hóa của quốc gia theo từng giai đoạn lịch sử.
Trong thời đại của người thanh niên Hồ Thơm, theo sự phân công lịch sử, một thành phần dân cư ở lại đất Bắc để tiếp nối và lưu truyền nền văn minh sông Hồng, một thành phần dân cư xuôi Nam mở nước để hình thành nền văn minh Cửu Long. Tuy nhiên sự bành trướng về lãnh thổ không ăn khớp nhịp nhàng với độ thăng hóa của ý thức dân tộc toàn Việt, và hơn nữa do tham vọng quyền lực, các dòng tộc Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn đã đào sâu độ chênh lệch ấy nhằm cố gắng tạo lập hai nước Bắc Hà - Nam Hà riêng biệt, khiến ý thức toàn Việt của người dân hai bên sông Gianh càng ngày càng mờ nhạt.
Nhận chân được hiểm họa đó, người anh hùng Hồ Thơm và bậc kỳ sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đã nỗ lực đề ra một số biện pháp nhằm phát triển ý thức toàn Việt.
Là một ẩn sĩ có một quan niệm sống tiêu dao ngoại vật Nguyễn Thiếp đã nhiều lần từ tạ sự ân cần khẩn khoản của Nguyễn Huệ mời ông tham dự chính sự.
Hiểu rõ và tôn trọng phẩm cách của Phu tử, Quang Trung không hề dùng uy lực của một Hoàng đế để cưỡng ép Nguyễn Thiếp tham chính ngược lại, bằng lòng thành và sự nhún nhường ông vẫn tiếp tục gởi văn thư để xin phu tử cố vấn về vấn đề trị quốc, và đặc biệt những vấn đề liên quan đến việc phát huy ý thức dân tộc toàn Việt để làm căn bản cho sự thống nhất quốc gia thực sự.
Trên lãnh vực này, với trách nhiệm của một kẻ sĩ, và một phần vì niềm tri ngộ đối với sự thành khẩn của Quang Trung, La Sơn Phu Tử đã đóng góp hai dự án: xây dựng Sùng Chính viện và Họa Đồ xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô tại Thanh Hóa.
a) Sùng Chính viện:
Sùng Chính viện là cơ quan điển chế văn tự, tàng trữ và phổ biến cổ thư, lượng giá các tác phẩm thuộc nhiều địa hạt. Như vậy Sùng Chính viện chính là một Hàn Lâm Viện, một cơ sở để bảo tồn và phát huy văn hóa.
Nước Pháp vẫn tự hào là kinh đô của ánh sáng và trí tuệ bởi vì quốc gia ấy có một Hàn Lâm Viện lâu đời. Chúng ta cũng có quyền tự hào rằng đồng thời với thời gian nước Pháp thành lập viện Hàn Lâm, thì ở đất nước chúng ta Nguyễn Huệ và La Sơn Phu Tử đang đặt cơ sở cho việc thành lập Sùng Chính viện. Hiển nhiên nếu Quang Trung không mất sớm hay các người thừa kế ngài chỉ thừa hưởng một phần viễn kính sáng suốt của ngài, hẳn chúng ta hôm nay đã thừa hưởng một gia tài quốc học quý giá.
b) Phượng Hoàng Trung Đô:
Quá tình Nam tiến của Tộc Việt không mang hình thức một cuộc chinh phục võ lực của một nước đối với láng giềng hay hình thức thực dân (dùng võ lực để mở đất rồi đến cai trị như chủ nhân ông đất nước người) mà do sinh phong và khả năng chinh phục của văn hóa Việt Tộc. Những người lưu dân tiên phong đã thuần hóa văn hóa địa phường, đã Việt hóa sinh hoạt người dân thổ cư, và ngược lại đã nhận chịu ảnh hưởng của văn hóa thổ cư, và do tính chất trường kỳ và tiệm tiến của quá trình Nam Tiến, những ảnh hưởng ngược lại đó khiến từng vùng đất ngay ở Đàng Trong đã có vài đặc tính khác nhau - khác nhau về thổ âm, về phong tục, về vài lề thói xử sự, sự khác biệt lại càng rõ nét hơn so với Đàng Ngoài.
Trong quá trình Nam tiến đó, từ 200 năm trước, người thanh niên Hồ Thơm vốn xuất thân là hậu duệ của lớp lưu dân đầu tiên tiến về phương Nam mở nước, đã ý thức một cách sâu sắc rằng chỉ một sự hội tụ văn hóa toàn Việt mới vượt qua những sắc thái dị biệt của từng địa phương, hay nói cách khác chỉ khi nào xây dựng một tâm thức toàn Việt trong mỗi thành phần nhân dân mới có thể củng cố được ý thức toàn Việt cho đại khối dân tộc để làm căn bản cho sự thống nhất quốc gia thực sự.
Công tác đó, dĩ nhiên thuộc lãnh vực văn hóa. Lập Sùng Chính viện, xây dựng nền quốc học, phổ cập nền giáo dục, tôn vinh chữ Nôm... đều nằm trong chiều hướng đó. Và đó cũng là nguyên nhân sâu xa của việc Quang Trung và La Sơn Phu Tử chọn Nghệ An làm kinh đô.
Nghệ An, trong buổi bình minh lịch sử Việt, đã là một thành phần của dải đất mà Hùng Thị xây dựng nền văn hóa Văn Lang Âu Lạc. Nền văn hóa ấy đã chứng tỏ được tiềm năng đề kháng với mọi áp lực văn hóa Hán tộc trong suốt 1.000 năm Bắc Thuộc, và đã thăng hóa trong giai đoạn tự chủ Đinh - Lê - Lý - Trần - Lê, và đỉnh phát triển cao nhất là thời đại Hồng Đức, một thời đại đã thành tựu một tổ chức xã hội tuyệt hảo và đầy nhân tính của nền Văn Minh Sông Hồng.
Nghệ An cũng là khởi điểm của một quá trình Nam tiến mà do tính chất trường kỳ và tiệm tiến của nó, đã chứng tỏ được sự ưu việt của nền văn hóa Việt Nam khi thử thách với các nền văn hóa Chiêm Thành và Chân Lạp, và do ở những ảnh hưởng hỗ tương trong sự giao lưu văn hóa, đã có những biến dạng và tổng hợp để cuối cùng tựu thành nền Văn minh Cửu Long.
Như thế là giao điểm của hai nền Văn minh Sông Hồng và nền Văn minh Cửu Long. Đặt kinh đô, giềng mối nước, tại Nghệ An, phải chăng Quang Trung và Phu tử đã nhìn được, trên chiều kích lịch sử, dòng văn hóa đã làm tròn sứ mệnh chinh phục và khai triển qua những chặng đường Nam tiến nay phải quy hồi về đất tổ để thực hiện sứ mệnh tổng hợp hai nền Văn minh Sông Hồng và Sông Cửu ở giao điểm Nghệ An?
Phượng là biểu tượng của Tiên nguyên lý Mẹ, theo huyền sử. Sự phân chia hai thành phần của tộc Việt trong sứ mệnh mở nước tiềm ẩn trong huyền thoại Tiên Âu Cơ. Nay sự hội tụ về Trung Đô - Phượng Hoàng Trung Đô - phải chăng là biểu tượng của nền Văn minh Toàn Việt?
III.- Tiếp truyền Sứ mệnh
Chúng ta vừa thử phác lược một vài công trình của Quang Trung hoàng đế qua cuộc cách mạng Quang Trung, qua sự củng cố nền thống nhất quốc gia, sự phát huy ý thức toàn Việt. Những thành quả ấy đã chứng tỏ người thanh niên Hồ Thơm sau những chiêm nghiệm thao thức dưới trướng vua anh đã nhìn được sự vận động và hướng tiến lịch sử để từ đó đã tự chọn cho mình một chỗ đứng trên dòng vận động đó, điều mà chúng ta gọi là sự định vị.
Không phải là một ngẫu hợp mà người thanh niên Nguyễn Trãi dành trọn mười năm tự giam mình ở thành Đông Quan để nghiền ngẫm một Bình Ngô Sách cũng như người thanh niên Hồ Thơm dành trọn mười năm ẩn nhẫn tự tài bồi cho mình để xây dựng một tâm thức vô kỷ, một bản lãnh hành động thích hợp và một quyết tâm thực hiện đến kỳ cùng lý tưởng mình đã chọn.
Mười năm đối với giòng lịch sử là một thoáng chốc, nhưng đối với một đời người cũng khá dài, nhất là đối với tuổi trẻ. Nếu trong vòng mười năm đầu bước vào đời mà vẫn chưa xác tín về lý tưởng mình theo đuổi, chưa định vị được chỗ đứng của mình trong dòng vận động của lịch sử, thì e rằng sau mười năm, lòng nhiệt thành sẽ suy giảm, có thể đầu hàng miếng cơm manh áo, và sự chính tâm thành ý của tuổi thanh xuân dần dần cũng tiêu hao.
Mười năm như một định kỳ để nhắc nhở chúng ta rằng sứ mệnh của thế hệ hôm nay - thắng cộng và vượt cộng - là một công trình có tính cách dài hạn, đòi hỏi một quyết tâm trì chí và một nghị lực phi thường, một nghị lực tự thắng những vọng động cá nhân và kiên tâm với những thử thách.
Chỉ trong tinh thần đó, chúng ta mới tiếp truyền được đại nguyện của người thanh niên Hồ Thơm sau bước định vị đã xác tín được sứ mệnh mình - sứ mệnh củng cố một ý thức toàn Việt để vượt qua những bế tắc khủng hoảng trong cơn quốc biến hầu xây dựng một tương lai quang phục cho đất nước.
Đại nguyện đó đã gói ghém trong danh hiệu Quang Trung - Tâm điểm của Sự Sáng - Sự Sáng là Minh Triết, là sự Thăng Hóa từ những bối cảnh tối tăm, thù hận và chia rẽ. Sự Sáng cũng là sự bùng vỡ của ý thức tự cứu, tự phát triển, tự vươn lên của một công trình Mở Nước không phải chỉ giới hạn trong kích thước của chiều rộng địa dư mà chính còn là công trình Mở Nước trong chiều sâu của ý thức dân tộc Toàn Việt mà từ đó mọi thành phần của dân tộc đều thấy rõ chỗ đứng của mình trong chiều hướng phát triển tương lai.
Và Đại nguyện đó, đã được một tri kỷ của con người áo vải Hồ Thơm, người đàn bà tuyệt vời Lê Ngọc Hân diễn tả trong một bài thơ đã trở thành ca dao:
Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân mở nước, xiết bao công trình.
Đặc San Tây Sơn Xuân Mậu Thìn (1988)
(Trang 40-58)