← Quay lại trang sách

Đại pháo trên lưng voi: Chiến thắng Ngọc Hồi (1789)--Trần Gia Phụng

I.- Nhà Lê cầu viện

Khi Võ văn Nhậm chưa vào Thăng Long, tháng 12 năm Đinh Mùi (qua năm 1788), Nguyễn Hữu Chỉnh phò vua Lê Chiêu Thống trốn đi Kinh Bắc (Bắc Ninh). Tại đây, gia đình Chiêu Thống tách làm hai: em của vua là Lê Duy Chỉ cùng Lê Quýnh đưa Thái hậu (mẹ vua, họ Nguyễn, không biết tên) cùng Hoàng tử trưởng của nhà vua, trốn lên Cao Bằng, còn nhà vua đi Yên Thế (Bắc Giang), đóng quân ở Mục Sơn.

Tướng Tây Sơn là Nguyễn văn Hòa đuổi kịp, giết tại trận Nguyễn Hữu Du con Nguyễn Hữu Chỉnh, và bắt được Nguyễn Hữu Chỉnh đem về Thăng Long xử giảo (phanh thây). Đầu năm Mậu Thân (1788), Lê Chiêu Thống trốn đi huyện Gia Định (nay thuộc Bắc Giang), rồi Chí Linh (Hải Dương), Thủy Đường (thuộc Hải Phòng ngày nay), Vị Hoàng (Nam Định), vào Thanh Hoa (Thanh Hóa), rồi ra Kinh Bắc trở lại, đóng ở phủ Lạng Giang. Nói chung là Lê Chiêu Thống trốn lẩn lút trong dân chúng, quanh quẩn vùng đồng bằng sông Hồng và vùng trung du gần đó. Điều này chứng tỏ dân chúng Bắc Hà lúc đó vẫn còn có nhiều người trung thành với họ Lê.

Rải rác vài nơi có các cuộc nổi dậy của các cựu tướng hoặc các hoàng thân nhà Lê, nhưng đều bị lực lượng Tây Sơn dẹp yên. Tháng 7 năm Mậu Thân (1788), từ Cao Bằng, bà thái hậu (mẹ vua Chiêu Thống) đem theo con của nhà vua, vượt ải Thủy Khẩu (Thủy Khẩu quan: Chouei Keou Kouan) qua Long Châu (Long-Tcheou) cầu cứu với nhà Thanh.

Viên Tri châu (Long Châu, Trung Hoa) là Trần Tốt trình lên thượng cấp của y là Tôn Vĩnh Thanh, Tuần phủ Quảng Tây, và Tôn Sĩ Nghị, Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây). Tiếp đó, bà Thái hậu cùng với cháu nội đến Nam Ninh, trực tiếp gặp hai người này xin cứu viện.

Sau cuộc hội kiến, Tôn Sĩ Nghị tâu với Thanh Cao Tông (trị vì 1736-1795), tức vua Càn Long (Ch’ien-lung), xin đem quân lấy cớ khôi phục nhà Lê, rồi nhân đó chiếm luôn nước Nam. Càn Long đồng ý, giao cho Tôn Sĩ Nghị toàn quyền hành động.

II.- Quân Thanh xâm nhập

Được vua Thanh chấp thuận mở cuộc viễn chinh, Tôn Sĩ Nghị liền truyền hịch vào nước ta, tuyên bố lý do cuộc động binh, bày tỏ lẽ thuận nghịch và kêu gọi những ai chống đối hãy sớm quay về “đường chính”. Đồng thời họ Tôn cử các cựu quan nhà Lê là Lê Quýnh, Nguyễn Quốc Đống bí mật về nước liên lạc trước với Lê Chiêu Thống. Nhà Thanh quyết định điều động quân lính bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và Quý Châu để thực hiện cuộc viễn chinh này.

Nhóm Lê Quýnh về Kinh Bắc báo cho vua Chiêu Thống biết diễn tiến tình hình cầu viện. Chiêu Thống cử Lê Duy Đản cùng Trần Danh Án lên biên giới đón quân Thanh. Lê Duy Đản đến gặp Tôn Sĩ Nghị và tình bày nội tình triều đình nhà Lê.

Theo sách Cương mục, quân Thanh vào nước ta bằng ba đường: thứ nhất từ Quảng Tây xuống Nam Quan do Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh lãnh đạo, thứ nhì từ Điền Châu qua Cao Bằng do Sầm Nghi Đống chỉ huy, và thứ ba từ Vân Nam, Quý Châu qua Tuyên Quang do họ Ô (tức Đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh) dẫn đầu. [1] Tuy nói là ba đường nhưng cánh quân của Sầm Nghi Đống chỉ là một phần của cánh quân Tôn Sĩ Nghị, nên chỉ có hai đường như Hoàng Lê nhất thống chí viết. [2]

Theo bài “Càn Long chinh vũ An Nam ký” trong sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) đề tựa năm 1842, thì quân Trung Hoa vào Đại Việt bằng ba hướng: thứ nhất là từ Quảng Tây qua ải Nam Quan, thứ nhì là từ Khâm Châu (Quảng Đông) đi đường biển xuống Hải Đông (Hải Dương), và thứ ba là đường từ Mông Tự (Vân Nam) qua Tuyên Quang [3]. Tuy nhiên, ở đây có một điểm cần thêm là theo sắc thư của vua Càn Long nhà Thanh gởi cho Tôn Sĩ Nghị mà viên tướng này đã bỏ lại khi trốn chạy thì vua Thanh khuyên Tôn Sĩ Nghị nên tiến quân có kế hoạch từ từ “Đợi khi nào thủy quân ở Mân (Phúc Kiến), Quảng (Quảng Đông) đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch thế tất phải chịu”. [4]. Điều này chứng tỏ, nhà Thanh còn dự tính gởi thủy quân đánh bọc hậu từ Thuận Hóa đánh lên.

Trong các hướng tiến quân trên đây, có thể cánh quân do Sầm Nghi Đống đến Đại Việt sớm nhất vì theo tài liệu trong Thánh vũ ký, trước khi ra quân, Tôn Sĩ Nghị muốn đưa em của vua Chiêu Thống là Lê Duy Chỉ lên làm vua thế anh, nhưng vua Thanh không chịu. Vua Thanh ra lệnh cho Sầm Nghi Đống đưa Lê Duy Chỉ theo đoàn quân về nước, để hiệu triệu dân chúng Việt. [5]

Cũng theo tài liệu của Thánh vũ ký, khi được tin quân Thanh động binh, Tây Sơn đã làm kế hoãn binh bằng cách xin triều cống và đem tờ biểu của thần dân nói rằng không biết Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống) ở đâu, nên lập Lê Duy Cận coi việc nước và xin rước bà Thái hậu về nước. Vua Càn Long ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị từ chối. [5]

Vào cuối tháng 10 năm Mậu Thân (1788), quân Tôn Sĩ Nghị vượt ải Nam Quan, xuống Lạng Sơn. Tại đây, Tôn Sĩ Nghị giao cho Tổng binh Thượng Duy Thanh, phó tướng Khánh Thành cầm quân Quảng Tây, Tổng binh Trương Triều Long, Lý Hóa Long cầm quân Quảng Đông.

Trấn thủ Lạng Sơn là Phan Khải Đức đầu hàng quân Thanh. Tướng Nguyễn văn Điểm rút về Kinh Bắc (gồm cả Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay). Lúc đó, tướng Ngô văn Sở có trong tay khoảng 3.000 quân do Bắc Bình vương Nguyễn Huệ để lại trước khi rút về Nam [6]. Ngô Thời Nhậm đề nghị lui binh để bảo toàn lực lượng, cấp báo cho Bắc Bình vương ở Phú Xuân và sẽ kiếm cách phản công sau. Nội hầu Phan văn Lân đem quân chận bước tiến của người Thanh.

Lực lượng hai bên đụng độ ở Kinh Bắc từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 11 năm Mậu Thân (1788). Phan văn Lân thất bại phải rút lui dần dần. Ngày 19, quân Thanh đến sông Phú Lương (tức khúc sông Hồng ở Thăng Long), và hôm sau, 20 tháng 11, họ vượt sông, chiếm Thăng Long. Như thế, từ Nam Quan đến Thăng Long, dầu ít bị trở ngại, quân Thanh di chuyển khoảng 20 ngày.

Trong thời gian Nội hầu Phan văn Lân cầm cự, cản trở và làm chậm bước tiến của quân Thanh, Ngô văn Sở và Ngô Thời Nhiệm rút lui toàn bộ lực lượng thủy bộ được an toàn về núi Tam Điệp (tức đèo Ba Dội) ở Ninh Bình, đóng quân dài ra tận bờ biển. [7]

III.- Nhà Thanh phong Vương Lê Chiêu Thống

Nguyên trước khi xuất quân, triều đình nhà Thanh tin tưởng quân viễn chinh của họ sẽ chiến thắng lực lượng Tây Sơn, đã cho đúc sẵn ấn và làm sẵn sách phong Lê Chiêu Thống để đỡ tốn thời giờ liên lạc, và cho phép Tôn Sĩ Nghị toàn quyền hành động. Ngay khi Tôn Sĩ Nghị vừa đến Thăng Long ngày 20 tháng 11, Lê Chiêu Thống đến gặp gỡ và cảm ơn, thì Tôn Sĩ Nghị quyết định chọn ngày 22 tháng 11 làm lễ sách phong. Chiêu Thống xin hoãn, để chờ khi lấy lại Thanh Hoa, ông được bái yết lăng tẩm tổ tiên nhà Lê, rồi sẽ nhận sách phong. Tôn Sĩ Nghị không chịu, và lễ phong vương diễn ra tại điện Kính Thiên đúng ngày họ Tôn đã định. Trong bài sách phong viết sẵn của vua Càn Long, có câu: “Đối với sự mở bờ cõi gồm mười một đạo, vốn không phải vì ta có lợi tâm muốn chiếm lấy đất đai; suốt từ một trăm năm mươi năm lại đây, (nhà Lê) lúc nào cũng giữ chức phận, làm lễ tuế cống, thì sao lại không nghĩ đến tổ tông của tự tôn được”. [8]

Dựa vào thế lực quân Thanh, Lê Chiêu Thống bắt đầu đền ơn trả oán, gây nhiều chia rẽ nội bộ. Những viên quan có công phò tá đều được nâng chức. Những người theo nhà Tây Sơn đều bị biếm loại. Những viên quan làm hại hoàng gia bị giết đã đành, những phụ nữ đã kết hôn với các viên chức Tây Sơn mà đang có mang cũng bị giết. Nhà vua còn ra lệnh chặt chân ba vị hoàng thúc (chú vua) nhà Lê theo Tây Sơn. Việc làm này bị bà Thái hậu, người đã đích thân đi cầu viện nhà Thanh, phản đối quyết liệt. Bà than rằng: “Thôi diệt vong đến nơi rồi!” [8]

Quan Hiến sát phó sứ ở Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào, vì có công giúp Lê Chiêu Thống, nên được bổ dụng. Ông không nhận chức, và đề nghị rằng nhà vua không nên dựa vào quân Thanh, mà nên gấp rút tổ chức lực lượng riêng tiến đánh Ngô văn Sở, trước khi Nguyễn Huệ từ Phú Xuân mang quân ra bắc [8]. Lê Chiêu Thống nói lại ý kiến này với Tôn Sĩ Nghị, nhưng họ Tôn bác đi, tin tưởng rằng trước sau cũng sẽ dẹp được quân Tây Sơn.

Được tin thắng trận, Thanh Càn Long phong cho Tôn Sĩ Nghị tước “Nhất Đẳng Mưu Dũng Công”! Hứa Thế Hanh tước “Nhất Đẳng Tử”, các tướng sĩ đều được thưởng kẻ ít người nhiều. Lúc bấy giờ, kiều dân Trung Hoa sinh sống ở những vùng do Lê Chiêu Thống kiểm soát, lợi dụng tình hình, “kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ giữa đường cũng cướp giật của cải, hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả. Nhân dân quanh kinh kỳ luôn luôn bị khổ sở vì bọn họ”. [9]

IV.- Vua Quang Trung

Tại Phú Xuân, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ được tin quân Thanh xâm lấn bờ cõi do Đô đốc Nguyễn văn Tuyết từ Thăng Long hỏa tốc vào báo tin.[10] Nguyễn Huệ liền nhân cơ hội này, quyết định lên ngôi Hoàng đế.

Quyết định này được chọn đúng theo thiên thời, điạ lợi và nhân hòa. Về thiên thời, đất Nguyễn Huệ cai trị từ đèo Hải Vân ra bắc là đất của vua Lê từ sau cuộc Nam chinh của Hoàng Ngũ Phúc năm 1774. Lúc đó nhà Lê đang còn. Nếu Nguyễn Huệ tự ý lên ngôi, sẽ có người cho rằng ông soán nghịch. Nay vua Lê cầu viện người ngoại quốc, làm mất tính chính thống của vua Lê, và làm dân chúng rất bất bình, nên Nguyễn Huệ lên ngôi vua để đánh đuổi ngoại bang là chính danh. Hành động này rất khôn khéo, không khác gì Lê Hoàn quyết định lên làm vua năm 980 (Canh Thìn), thay thế nhà Đinh (968-980) để kháng Tống. Về điạ lợi, Nguyễn Huệ lên làm vua vùng đất do công lao của ông chinh phục được, chứ không giành giật của ai. Chính Nguyễn Huệ là người cầm đầu chiến dịch Thuận Hóa năm 1786, rồi đánh thẳng ra Bắc luôn. Về nhân hòa, Nguyễn Huệ cũng hành động giống Lê Hoàn năm 980: khi chống giặc ngoài, nếu không có vua thì lấy ai mà thưởng công cho các tướng lãnh sau khi thành công. [11] Cho nên các quan và các tướng lãnh Tây Sơn đồng thanh hưởng ứng việc Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế trước khi ra trận.

Lễ đăng quang được tổ chức ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22-12-1788), tại núi Bàn (Bàn Sơn), gần An Cựu (Huế), một ngọn đồi thấp, bên cạnh và thấp hơn núi Ngự Bình. Nguyễn Huệ chọn niên hiệu là Quang Trung thay niên hiệu Thái Đức của Nguyễn Nhạc. Cùng ngày đó, vua Quang Trung cho tổ chức một cuộc duyệt binh lớn để kiểm điểm binh mã, rồi lên đường Bắc tiến lần nữa.

V.- Chiến cuộc

1.- Tương quan lực lựợng:

Về phía quân Thanh:

Sách Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 13, tóm tắt đại lược hịch của Tôn Sĩ Nghị, có viết rằng họ Tốn: “điều động năm mươi vạn quân thẳng tới La thành (Thăng Long)...” [12] Năm mươi vạn nghĩa là 500.000 quân. Con số này lớn quá do người Thanh tuyên truyền kể thêm, nên nhiều sách khác sau Hoàng Lê nhất thống chí viết rằng lực lượng quân Thanh xâm lăng Đại Việt lên khoảng 20 vạn quân tức 200.000 quân. [13] Trong khi đó, trong Thành vũ ký của Trung Hoa, Ngụy Nguyên ghi nhận Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh đem một vạn quân (10.000) Lưỡng Quảng. Khi qua khỏi Nam Quan, ông để lại Lạng Sơn 2.000 còn đem 8.000 đi thẳng xuống Thăng Long, và Đề đốc Vân Nam là Ô Đại Kinh đem 8.000 qua đường Tuyên Quang. [14]

Cả hai số liệu này về hai phía Việt cũng như Trung Hoa đều cần phải cẩn án lại. Trước hết, phải chú ý là lực lượng Ô Đại Kinh chưa tham chiến. [15] Lực lượng hải quân của Trung Hoa dự tính đi theo đường biển từ Quảng Đông xuống Hải Dương, có lẽ để vận lương, cũng không thấy nói đến. Vậy chỉ có cánh quân của Tôn Sĩ Nghị và Sầm Nghi Đống.

Có các điểm cần nêu ra trước: 1)- Tâm lý thông thường, do tinh thần yêu nước, sử liệu Trung Hoa thường hạ số liệu quân đội viễn chinh xuống, để khi chiến thắng thì chiến thắng có giá trị, vì đem ít người mà vẫn thắng trận, còn khi thất bại thì thất bại không đáng kể, vì đem ít quân nên mới thất bại. Về phía sử liệu Việt Nam thì thường thổi phồng số liệu của địch quân để làm tăng giá trị chiến thắng của quân Việt. 2)- Theo kinh nghiệm năm 1945, khi tràn vào Việt Nam sau quyết định trong tối hậu thư Potsdam, [16] mỗi người lính Trung Hoa mang theo cả gia đình, vợ con đôi khi lên đến bảy hay tám người. Tính trung bình một gia đình hai vợ chồng và ba người con thì một lính Hoa qua nước ta phải có thêm bốn người đi theo (một vợ và ba con). 3)- Theo kinh nghiệm trong các chiến trận, kể cả trận đánh năm 1979 ở biên giới Việt Hoa, một người lính Trung Hoa đi đánh trận, có khoảng hai đến ba người đi theo làm hậu cận, mang vác thực phẩm, khí tài... Trong “Tám điều quân luật” trước khi xuất chinh của quân Thanh năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đã thông báo như sau trong điều thứ 8: “Lần này hành quân xa xôi qua biên ải, triều đình thương đến bỉinh lính, đã chu cấp rộng ra ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu dụ trước cho mọi người biết..” [17]

Như thế, nếu e ngại số liệu 200.000 quân Thanh bị thổi phồng thì chắc chắn số 10.000 của Tôn Sĩ Nghị cũng bị giảm thiểu, và giảm thiểu đến mức độ nào thì không có cơ sở để xác minh, nhưng với dân số đông đúc của Lưỡng Quảng, thì chắc chắn đạo quân này phải đông.

Nếu theo sử liệu Trung Hoa, Tôn Sĩ Nghị dẫn đi tối thiểu 10.000 quân; và nếu mỗi quân nhân được quyền đem theo một trợ thủ (điều thứ 8 của quân luật Tôn Sĩ Nghị), thì số người Thanh theo họ Tôn qua Đại Việt tối thiểu là 20.000; còn Ô Đại Kinh dẫn đi 8.000 quân (tuy chưa đụng trận nhưng đã đến Phú Thọ), cộng thêm 8.,000 phu, thành 16.000. Với hai toán quân đó, tối thiểu cũng đã 36.000 người. Con số này trong thực tế chắc chắn cao hơn nhiều nếu không muốn nói là gấp hai.

Không có tài liệu nào đặc biệt về vũ khí của quân nhà Thanh. Trong “Tám điều quân luật”, Tôn Sĩ Nghị tự tin súng ống của quân Thanh hơn hẳn súng “phun lửa” của quân Tây Sơn (điều thứ 5), nhưng Tôn Sĩ Nghị tỏ ra rất sợ tượng binh (voi trận) của quân Tây Sơn nên đã dạy cho lính Thanh cách đối phó. (điều thứ 4).

Về phía quân Tây Sơn:

● Khi rời Thuận Hóa ra bắc, lực lượng của vua Quang Trung không được rõ. Quang Trung đến Nghệ An ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân. Nhà vua dừng quân tại đây để tuyển thêm tân binh ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An và sắp đặt lại đội ngũ. Trong cuộc tuyển binh cấp tốc này, cứ ba suất đinh lấy một người. Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí thì “... chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ”. [17] Theo Cương mục, “khi qua Nghệ An và Thanh Hóa, (Quang Trung) lấy thêm quân lính đến 8 vạn người...” [18] Theo sách Liệt truyện, tổng cộng số lính trước sau khoảng hơn 10 vạn quân (100.000) và voi chiến được mấy trăm con. [19]. Các số liệu này có thể đã được thổi phồng đôi chút, nhưng ở mức độ nào thì cũng không có cơ sở để xác minh.

● Vua Quang Trong chia lực lượng làm hai hạng: hạng thiện chiến gồm lính Thuận Quảng đã được luyện tập lâu ngày cũng như tham dự nhiều chiến trận; và hạng tân tuyển gồm tân binh Thanh Nghệ. Quân Thuận Quảng chia làm bốn doanh: tiền, hậu, tả, hữu, và dùng quân Thanh Nghệ làm trung quân.

● Vũ khí và sắc phục quân Tây Sơn được một tác giả hầu như đồng thời với sự kiện mô tả lại trong sách Lê quý dật sử như sau: “Tây Sơn cho quân mặc áo màu, phần nhiều là màu đỏ tía, trên đỉnh nón mũ đính lông chiên đỏ, lại thường mặc áo gấm màu. Binh khí của họ thường dùng hỏa tiễn, hỏa sào buộc trên đầu ngọn giáo, gọi là hỏa hổ (tức súng phun lửa)...” [20]

● Điểm đặc biệt của quân đội Tây Sơn, được sách Thánh vũ ký của Ngụy Nguyên (Trung Hoa) ghi lại là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”. [21] Điều này có nghĩa là vua Quang Trung sử dụng vừa tượng binh, vừa pháo binh và lại phối hợp giữa tượng binh và pháo binh. Theo sách Lê quý dật sử, đội tượng binh được đem từ Thuận Hóa ra Thăng Long, và các thớt voi được lương thực hàng tháng tùy theo từng thớt voi lớn nhỏ.[22]. Chắc chắn các khẩu đại bác cũng được di chuyển theo quân đội Tây Sơn từ Thuận Hóa, vì Thuận Hóa là nơi Nguyễn Hoàng đã thành lập đội pháo binh mạnh mẽ và sau đó các chúa Nguyễn đã tổ chức lò đúc súng tại Phường Đúc, làng Dương Xuân Thượng (gần Long Thọ, Huế). [23]

● Trong tương quan lực lượng giữa hai bên, có một điểm không thể thiếu sót là việc tình báo chiến lược. Sau khi rút lui khỏi Thăng Long, chắc chắn Đại tư mã Ngô văn Sở để lại nhiều điệp viên theo dõi tình hình tiến quân của Tôn Sĩ Nghị và báo cáo đầy đủ lại cho các chủ tướng Tây Sơn. Trong khi đó, ngược lại, quân Thanh có thể nói là ít hiểu biết về quân đội Tây Sơn, cũng như không nắm vững các hoạt động chuyển quân của lực lượng vua Quang Trung, và quân Thanh lại còn kiêu căng, xem thường sức mạnh của lực lượng Tây Sơn.

2.- Kế hoạch hành quân:

Về phía quân Thanh (thế thủ):

Đoàn quân do Tôn Sĩ Nghị dẫn đầu đến Thăng Long ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (1788). Sau khi phong vương cho Lê Chiêu Thống, Tôn Sĩ Nghị sắp đặt việc đóng quân quanh thành, từ Thăng Long đến Hà Hồi (huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, Hà Đông), lập đồn trại cách khoảng từ đồn nọ đến đồn kia, đặt súng đại pháo, và chôn địa lôi bên ngoài. Ngoài ra, họ Tôn lập thêm ba căn cứ bảo vệ Thăng Long ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết (huyện Thanh Liêm, Hà Nam), ở làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên (Hà Nam) và ở Ngọc Hồi thuộc huyện Thanh Trì (Hà Đông). Trong khi đó, đoàn quân Vân Nam do Ô Đại Kinh lãnh đạo chưa đến Thăng Long. Như thế, sau khi thành công trong việc tạm chiếm Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị chỉ mới lo việc phòng thủ các vùng chiếm đóng, chủ yếu là Thăng Long và các khu vực phụ cận, chứ chưa nghĩ đến việc tiếp tục thế công, tiến xuống phía nam tiêu diệt nhà Tây Sơn.

Vua Chiêu Thống và quần thần nhà Lê nóng lòng mở cuộc phản công để tái chiếm đất đai đã mất, nhưng Tôn Sĩ Nghị vẫn thụ động chậm rãi vì lúc đó sắp đến lễ Tết Nguyên Đán cổ truyền của người Việt và người Hoa. Lý do chính được các tài liệu mô tả là họ Tôn ham hưởng thụ, trác táng và say sưa trong những ngày đầu chiếm đóng, nhất là khi nhận đước thư của vua Quang Trung “xin đầu hàng. Lời lẽ trong thư rất nhũn nhận, khiêm tốn”. [24]

Về phía quân Tây Sơn (thế công):

Ngược lại, vua Quang Trung lại tỏ ra chủ động tấn công, quyết tâm tiến đánh quân Thanh trước khi toàn bộ lực lượng quân Thanh kéo đến đầy đủ. Sau lễ đăng quang và duyệt binh tại Phú Xuân ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22-12- 1788), nhà vua tức tốc dẫn quân bắc tiến.

Di chuyển trong bốn ngày, lực lượng Tây Sơn dừng quân tại Nghệ An ngày 29-11. Vua Quang Trung đã mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp đến hội kiến [25]. Trong cuộc gặp gỡ, nhà vua bàn luận với Nguyễn Thiếp kế hoạch hành quân. Nguyễn Thiếp trả lời rất hợp ý của nhà vua: “Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thủ thế nào. Và nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp đi thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nếu trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó”. [26]

ở lại Nghệ An tuyển quân mười ngày, vua Quang Trung lại tiếp tục dẫn quân ra đi ngày mồng 10 tháng Chạp. Ngày 20 tháng Chạp, nhà vua đến Tam Điệp. Nơi đây, lực lượng Tây Sơn ở Bắc Hà do Đại tư mã Ngô văn Sở chỉ huy đang đợi nhà vua. Sau cuộc hội quân, vua Quang Trung đưa ra kế hoạch tấn công như sau: Thứ nhất, Đại tư mã Ngô văn Sở và Nội hầu Phan văn Lân làm tiên phong. Thứ nhì, Đô đốc Lộc và Đô đốc Tuyết cầm thủy binh vượt biển, đi vòng lên phía bắc, vào sông Lục Đầu, [27] Đô đốc Tuyết ở lại Hải Dương, để tiếp ứng, Đô đốc Lộc tiến thẳng lên phía bắc, tới Yên Thế để chận đường rút lui của quân Thanh. Thứ ba, Đô đốc Bảo và Đô đốc Mưu (có sách chép là Long) lãnh tượng binh và kỵ binh đi đường bộ, vượt núi, tấn công các mục tiêu từ Hà Đông đến Thăng Long. Thứ tư Hô Hổ hầu (không biết họ tên) chỉ huy hậu quân, lo việc đốc chiến. Thứ năm vua Quang Trung chỉ huy trung quân nhắm thẳng Thăng Long trực chỉ.

3.- Diễn tiến chiến cuộc:

Trận Sơn Nam: Ngày 30 tháng Chạp, vua Quang Trung cho mở tiệc khao quân, tuyên bố ăn Tết trước khi lên đường, hẹn ngày mồng 7 năm mới, sẽ vào thành Thăng Long mở tiệc mừng chiến thắng. [28]. Tối hôm đó (30 Tết), quân Tây Sơn vượt sông Giản ở Ninh Bình [29]. Đến Sơn Nam, trấn thủ Hoàng Phùng Nghĩa (có sách chép Lê Phùng Nghĩa), tướng của vua Lê Chiêu Thống, bỏ chạy.

Trận Hà Hồi: Vua Quang Trung thúc quân đuổi tiếp đến Hà Đông. Đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu (1789), nhà vua cho quân vây kín đồn Hà Hồi (huyện Thường Phúc, Hà Đông). Nhà vua ra lệnh các tướng đặt loa hô lớn; quân sĩ đồng thanh đáp ứng vang trời, làm cho quân trong thành nghe lớn tiếng, sợ hãi xin hàng.

Trận Ngọc Hồi: Sau Hà Hồi, lực lượng Tây Sơn đến Ngọc Hồi (huyện Thanh Trì) sáng sớm mồng 5 Tết. Vua Quang Trung biết quân Thanh phòng thủ ở đây khá kiên cố, trên thành có đại bác và chung quanh thành có địa lôi (ngày nay gọi là mìn [landmine]) bảo vệ. Nhà vua liền sắp đặt cách tấn công như sau:

Trước hết là tượng binh trang bị súng thần công đi đầu, vừa bộ chiến tấn công, vừa dùng súng phá thành, vừa phá thế trận điạ lôi bao quanh thành của quân Thanh.

Sau tượng binh là toán cảm tử cầm ván làm mộc che. Cứ ba tấm ván ghép lại thành một bức lớn, bện rơm thấm nước bao bọc ở ngoài, 10 người khiêng một bức, tất cả có 20 bức đi trước.

Tiếp theo mỗi bức ván lớn làm mộc che là 20 quân sĩ mang đầy đủ vũ khí, dàn hàng ngang tiến tới.

Cuối cùng là đại binh.

Cuộc tấn công đồn Ngọc Hồi khai diễn sáng sớm mồng 5 Tết Kỷ Dậu. Trong thành, quân Thanh bắn súng ra dữ dội, nhưng quân Tây Sơn nhất quyết thúc voi tiến tới, dùng súng đại bác phá hủy thành. Quân sĩ nhờ các tấm ván che chở, tiến tới mục tiêu. Kỵ binh của quân Thanh tiến ra gặp tượng binh của Tây Sơn hoảng sợ bỏ chạy. Thành bị phá. Khi giáp kẻ địch, quân Tây Sơn bỏ các tấm ván, đánh cận chiến. Quân Thanh chết rất nhiều. Số quân Thanh bỏ chạy bị chính điạ lôi của họ nổ làm cho thiệt mạng. Những kẻ thoát được, lại bị cánh quân Tây Sơn do Đô đốc Bảo chỉ huy, từ hướng Đại Áng tiến lên đánh đuổi tiếp.

Quân Thanh bỏ chạy:

Sau khi hạ đồn Ngọc Hồi, quân Tây Sơn tiếp đánh các đồn quân Thanh ở Văn Điển (Thanh Trì, Thường Tín, Hà Đông), Yên Quyết (ngoại thành Hà Nội). Quân Thanh thiệt hại nặng, Đề đốc Hứa Thế Hanh, Tổng binh Trương Triều Long, Thượng Duy Thanh đều tử trận.

Ngoài ra, một cánh quân Tây Sơn khác đến vây Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn (gò Đống Đa) ở Khương Thượng (ngoại thành Hà Nội). Sau một hồi chống cự quyết liệt, thế quân yếu dần, lại không được tiếp ứng, Sầm Nghi Đống biết không có cách gì thoát thân, liền thắt cổ tự tử trên cây đa.

Trong khi đó, được tin đồn Ngọc Hồi thất thủ sáng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, Tôn Sĩ Nghị sai lãnh binh Quảng Tây là Dương Hồng Nghiệp cùng Phan Khải Đức (người Việt, trấn thủ Lạng Sơn đầu hàng quân Thanh) đi quan sát tình hình.

Liền trưa hôm đó, quân Tây Sơn xuất hiện tại Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp và thắng yên cương, đã vội lên mình ngựa bỏ trốn cùng vài kỵ binh, bỏ lại ấn quân, sắc thư, cờ tiết... [30] Nghị vượt qua cầu phao chạy về hướng bắc. Thế là tướng sĩ quân Thanh đua nhau tháo chạy. Đang khi vượt sông Hồng, cầu phao đứt vì không chịu nổi khối trọng lượng người bỏ chạy qua cầu. Số người chết đuối nhiều không thể đếm hết được. [31]

Lê Chiêu Thống, lúc bấy giờ có mặt trong doanh trại Tôn Sĩ Nghị, cũng bỏ chạy theo họ Tôn, chỉ kịp sai người về cung hộ vệ Thái hậu cùng Hoàng tử vượt sông. Em vua là Lê Duy Chỉ đưa hoàng phi và cung tần đến bến sông thì cầu gãy, không qua sông được, phải bỏ trốn về hướng tây.

Quân Vân Nam do Ô Đại Kinh theo hướng Tuyên Quang tiến vào nước ta, đến Phú Thọ (lúc đó thuộc Sơn Tây) thì được tin Tôn Sĩ Nghị thất trận, nhờ một cựu quan nhà Lê tên là Hoàng văn Thông hướng dẫn trở về lại Vân Nam.

4.- Kết quả: - Theo Thánh vũ ký, khi chạy về tới Trấn Nam quan, [32] Tôn Sĩ Nghị “bỏ hết ngoài cửa quan lương thực, khí giới thuốc súng vài mươi vạn (cân). Quân ta và ngựa trở về không đầy một nửa” [33] Đó là sự ghi nhận của sử liệu Trung Hoa. Chắc chắn số được trở về này có thể thấp hơn, nhưng Thánh vũ ký nâng cao lên đôi chút vì thể diện của nhà Thanh.

Như thế, nếu cánh quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị lãnh đạo đi vào từ biên giới Cao Bằng-Lạng Sơn thấp nhất khoảng 20.000 quân theo sử liệu Trung Hoa như đã trình bày ở trên, và quân Thanh trở về không đầy một nửa, thì quân Thanh thiệt hại khoảng 10.000 kể cả một số tướng lãnh mà nổi tiếng là Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thương Duy Thanh, Sầm Nghi Đống... Ngoài ra, trong số quân Thanh mất tích hay tử trận, có một số đã bỏ trốn. Sau khi chiến trận kết thúc, số người này ra trình diện với chính quyền Tây Sơn và về sau được thả về.

Về phía Đại Việt, không có sử liệu nào viết về sự thiệt lại của lực lượng Tây Sơn, nhưng có thể ít hơn rất nhiều, vì quân Đại Việt chủ động chiến trường, chỉ tử trận nhiều khi Phan văn Lân kiếm cách chận đứng bước tiến của quân Thanh và khi quân Tây Sơn tấn công vào phòng tuyến chính của quân Thanh ở Ngọc Hồi. Giả thiết số quân Việt tử trận bằng một nửa quân Thanh, thì con số thiệt hại của quân Việt có thể lên đến khoảng 5.000 người...

VI. Nhận xét

1.- Chiến lược tổng quát: Quân nhà Thanh mới đến đóng quân, chỉ triển khai phòng thủ Thăng Long, nên có tính cách thụ động và nhất là các tướng lãnh nhà Thanh không lường được khả năng tác chiến của lực lượng Tây Sơn, xem thường quân địch. Trong khi đó, bộ tham mưu Bắc Hà của Tây Sơn do Ngô văn Sở và Ngô Thời Nhiệm đứng đầu, đã rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng để chuẩn bị phản công. Vua Quang Trung cương quyết đánh đuổi quân Thanh, chủ động chiến trường, chọn lựa các mũi tấn công theo các hướng khác nhau. Cuối cùng, chỉ cánh trung quân đánh trực diện thì đã thành công.

Yếu tố thành công chính của lực lượng Tây Sơn là sự bất ngờ. Khi Tôn Sĩ Nghị vào đến Thăng Long dễ dàng ngày 20 tháng 11, thì y không thể ngờ là chỉ năm ngày sau, tại Phú Xuân, vua Quang Trung phản ứng ngay, bắt đầu dẫn quân ra bắc ngày 25 cùng tháng. Để ru ngủ Tôn Sĩ Nghị, ra đến Nghệ An ngày 29, vua Quang Trung còn viết thư “xin đầu hàng. Lời lẽ trong thư rất nhũn nhận khiêm tốn”, (Cương mục, đã dẫn) khiến cho Tôn Sĩ Nghị càng thêm kiêu căng, và đánh giá không đúng quyết tâm chống ngoại xâm của vua Quang Trung. Thánh vũ ký cũng đề cập đến vấn đề này: “Thế mà quân ta (nhà Thanh) còn tin lời nó nói dối là tới hàng, cứ êm đềm không biết gì sốt”. [33] Thật ra, tâm lý kiêu căng này vốn có sẵn cả trước khi xuất quân viễn chinh, vì triều đình nhà Thanh đã cho đúc ấn và viết sẵn sắc phong để tấn phong cho Lê Chiêu Thống, vì tin tưởng lực lượng của họ sẽ chiến thắng nhà Tây Sơn.

Tôn Sĩ Nghị còn bị bất ngờ hơn nữa là vua Quang Trung mở cuộc hành quân vào những ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc. Ca dao chúng ta có câu: “Tháng Giêng là tháng ăn chơi”. Sau những ngày mùa màng cực nhọc, toàn dân Việt thường nghỉ ngơi và vui chơi trong ba ngày Tết đầu năm âm lịch. Họ Tôn tin rằng quân Tây Sơn cũng nghỉ ngơi và không động binh trong những ngày này. Cho đến khi đồn Ngọc Hồi bị quân Tây Sơn đánh tan ngày mồng 5 Tết Kỷ Dậu, lúc đó Tôn Sĩ Nghị mới hốt hoảng thì đã trễ.

2.- Tốc độ hành quân: Trong vòng sáu ngày, từ 30 tháng Chạp đến mồng 5 Tết, vua Quang Trung đã oanh liệt thanh toán quân xâm lược Mãn Thanh. Tuy chỉ thật sự đánh nhau trong sáu ngày đêm, nhưng nhà vua đã chuẩn bị cuộc chiến từ hơn một tháng trước. Vua Quang Trung lên ngôi ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân, và quyết định kéo quân bắc tiến. Ngày 29 tháng 11, nhà vua đến Nghệ An, tức di chuyển trong vòng bốn ngày. Ở lại Nghệ An mười ngày, vua Quang Trung tiếp tục ra đi khoảng mồng 10 tháng Chạp, và tới Tam Điệp ngày 20 tháng Chạp, nghĩa là chuyển quân mười ngày. Lại nghỉ thêm mười ngày, nhà vua rời Tam Điệp, mở chiến dịch tấn công vào tối 30 Tết, và đến Thăng Long chiều mồng 5 Tết.

Nhớ lại chiến dịch Bắc tiến lần thứ nhất của Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ năm 1786: ông đến sông Vị Hoàng 23 tháng 6 năm Bính Ngọ (18-7-1786), hội quân cùng Nguyễn Hữu Chỉnh và kiểm điểm lại tình hình. Ngày 24 tháng 6 năm Bính Ngọ (19-7-1786), Nguyễn Huệ tiến chiếm Hưng Yên (Phố Hiến), thủ phủ Sơn Nam (Nam Định), và hai ngày sau Nguyễn Huệ vào Thăng Long (26-6 Bính Ngọ tức 21-7- 1786). Từ Phố Hiến đến Thăng Long, ông chỉ mất hai ngày.

Lấy Thăng Long làm chuẩn, Tam Điệp ở Ninh Bình cách Thăng Long khoảng 140 km, năm 1789 vua Quang Trung đi mất sáu ngày. Hưng Yên cách Thăng Long khoảng 60 Km, năm 1786 Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đi mất hai ngày. Như thế có thể xem tốc độ hai cuộc hành quân gần bằng nhau nếu không muốn nói cuộc hành quân trước vào năm 1786 nhanh hơn. [34] Dầu thế nào, cuộc hành quân của vua Quang Trung, dầu bị các phòng tuyến quân Thanh chận đánh, vẫn thần tốc hơn cuộc hành quân của Tôn Sĩ Nghị, từ Nam Quan (Lạng Sơn) đến Thăng Long trong khoảng 20 ngày.

3.- Sự phối hợp giữa tượng binh và pháo binh: Tôn Sĩ Nghị có lý riêng để tin tưởng ở phòng tuyến Ngọc Hồi, vì thành quách đồn này được trang bị súng đại bác, phía ngoài mai phục địa lôi (landmine), là những loại vũ khí tối tân lúc đó. Họ Tôn không ngờ rằng súng đại bác Phú Xuân cũng mạnh mẽ không kém đại bác của Trung Hoa. Khi nhà Hồ (1400-1407) sụp đổ năm 1407, chính con của Hồ Quý Ly (trị vì 1400) là Hồ Nguyên Trừng đã giúp nhà Minh (1368-1644) bên Trung Hoa chế tạo súng đại bác, và súng đại bác này phải mạnh hơn của Trung Hoa, nhà Minh mới đem ra để tấn công địch [35].

Ở đây cần chú ý hai điểm: Thứ nhất, vua Quang Trung xuất thân từ miền núi Tây Sơn, chắc chắn ông xuất sắc về tượng binh và tượng trận. Trong quân đội Tây Sơn, đội tượng binh rất được chú ý. Các thớt voi được huấn luyện và nuôi nấng theo tiêu chuẩn riêng. Thứ nhì, khi chiếm được Thuận Hóa năm 1786, vua Quang Trung thừa hưởng được đội tượng binh và và nhất là số đại bác của các chúa Nguyễn đã xây dựng từ thời Nguyễn Hoàng (1525-1613). Khi ra bắc năm 1593 để chúc mừng vua Lê trở về Thăng Long, chính những khẩu thần công đã giúp Nguyễn Hoàng dẹp yên các cuộc nổi dậy của gia đình và tướng lãnh nhà Mạc sau năm 1593. [36] Đội tượng binh của Thuận Hóa cũng rất hữu hiệu trong việc chống đỡ các cuộc tấn công của quân Trịnh trong chiến tranh Trịnh Nguyễn sau đó.

Tôn Sĩ Nghị biết rằng tượng binh của Tây Sơn rất mạnh, nên trong “8 điều quân luật” của quân Thanh, y cẩn thận nhắc nhở và hướng dẫn thuộc cấp cách chống cự, nhưng y không ngờ vua Quang Trung lại phối hợp đại bác với tượng binh, mà theo nguyên văn bản dịch Thánh vũ ký của giáo sư Hoàng Xuân Hãn là “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”.

“Đại bác chở bằng voi” có thể bằng cách đặt súng đại bác lên một cái bành trên lưng voi để tấn công, giống như chiến xa trang bị súng ống ngày nay. Các đại bác sử dụng vào thời này dài khoảng 1,5 m. và nòng khoảng 0,1 m nên có thể đặt trên mình voi xông trận [37]. Đây là một sáng kiến hết sức táo bạo của vua Quang Trung vì từ trước, đại bác chỉ được kéo bằng ngựa chứ chưa ai dùng voi để chở đại bác ra trận [38]. Có người cho rằng khi đặt súng thần công trên lưng voi để bắn, thì tiếng nổ có thể làm cho voi hoảng sợ, bỏ chạy và chà đạp lên quân lính đang hành quân. Tuy nhiên, khi phối hợp hai lợi khí trên đây để ra trận, chắc chắn đội quân tượng Tây Sơn cũng đã nghĩ cách giải quyết trở ngại này. [39]

Voi rất hữu ích trong việc phá thế trận địa lôi mà Tôn Sĩ Nghị đã bao quanh thành Ngọc Hồi. Vì voi cao, da dày, khó bị thương, nên voi đi trước dẫn đường. Nếu voi dẫm lên địa lôi gây nổ, thì quân sĩ Tây Sơn theo sau có thể tránh được. Đội tượng binh (quân voi) trang bị súng thần công của Tây Sơn đã đánh tan đội kỵ binh (quân ngựa) tiên phong của quân Thanh khi giáp trận ở phòng tuyến Ngọc Hồi mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Chính nhờ những khẩu đại bác trên lưng voi đến gần bắn trực xạ, nên tường và cổng thành Ngọc Hồi bị phá hủy, giúp bộ binh Tây Sơn tràn ngập vào chiếm đồn này.

Trận đánh đồn Ngọc Hồi đã quyết định luôn cả kết quả cuộc chiến, vì sau khi đồn này bị triệt hạ, thì quân Thanh không còn phòng tuyến nào vững hơn, để chận được bước tiến của lực lượng Tây Sơn, và quân tướng nhà Thanh, kể cả Tôn Sĩ Nghị, chỉ còn chạy dài cho đến Nam Quan mà thôi

Toronto, tháng 11, 2003

Chú thích:

[1] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, viết tắt Cương mục, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, bản dịch tập 2, tr. 838.

[2] Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, viết tắt HLNTC, chữ Nho, Hà Nội: bản dịch của Nguyễn Đức Vân, Kiều Thu Hoạch, Nxb. Văn Học, 1987, tập 2, tr. 148, 150.

[3] Ngụy Nguyên (Trung Hoa), “Càn Long chinh vũ An Nam ký” trong sách Thánh vũ ký, đề tựa năm 1842, Hoàng Xuân Hãn dịch, đăng trên tập san Sử Điạ, Sài Gòn, số tháng 9-10, 1968, in lại trong sách La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (Hoàng Xuân Hãn toàn tập), tập 2, do Hữu Ngọc và Nguyễn Đức Hiền sưu tập và biên soạn, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 1998, tr. 1341. (Trong bài này, khi trích dẫn, chỉ để: [Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2], sđd. tr.)

[4] Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb. Tân Việt in lần thứ bảy, 1964, tr. 375.

[5] (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. tr. 1341.

[6] Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc (1943), Sài Gòn: Nxb. Bốn Phương tái bản, 1958, tr. 151. Hoa Bằng dựa vào tài liệu Thanh triều sử lược, quyển VI, tờ 19b.

[7] Các sách viết về việc Nội hầu Phan văn Lân đem quân chống Tôn Sĩ Nghị đều theo thuyết của Hoàng Lê nhất thống chí. Thuyết này cho rằng khi Đại tư mã Ngô văn sở theo kế hoạch Ngô Thời Nhiệm quyết định rút quân, thì Nội hầu Phan văn Lân phản đối: “Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến chưa từng đón đánh, chỉ mới nghe tiếng dọa hão đã vội rút lui, thì còn làm tướng làm gì nữa?...” (HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 161.). Rồi Lân đem quân đánh Tôn Sĩ Nghị và bị thất bại. Chi tiết này có vẻ anh hùng cá nhân như chuyện Tàu ngày xưa. Lúc đó, số quân Tây Sơn ở Bắc Hà chỉ có 3.000. Các tướng Tây Sơn dư biết đoàn quân viễn chinh của nhà Thanh phải nhiều hơn số đó rất nhiều, làm sao quân Tây Sơn ở Thăng Long đủ sức chống cự, cho nên giải pháp duy nhất là phải rút lui. Muốn đủ thời gian rút lui an toàn thì phải có rào chắn. Quyết định đưa Phan văn Lân đem quân chận đánh quân Thanh phải là một quyết định chiến lược của tập thể, chứ không thể là tức khí cá nhân. Phan văn Lân đem quân chống cự Tôn Sĩ Nghị, tạo thành rào chắn, làm chậm bước tiến của quân Thanh, để Ngô văn Sở và Ngô Thời Nhậm đủ thời gian rút toàn bộ lực lượng Tây Sơn an toàn về núi Tam Điệp. Một điểm cần chú ý là nếu Phan văn Lân, vì tức khí, tự ý dẫn quân ra đi mà không được lệnh của Ngô văn Sở, thì chắc chắn đã bị vua Quang Trung quở trách hoặc trừng phạt theo quân luật lúc nhà vua ra hội quân tại Tam Điệp. Đàng này, điều đó không xảy ra. Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung vẫn tín nhiệm Phan văn Lân và giao cho Lân phụ tá Ngô văn Sở trông coi Bắc Hà. Hai điều này chứng tỏ việc Phan văn Lân đem quân đánh Tôn Sĩ Nghị nằm trong kế hoạch chung của nhóm lãnh đạo Bắc Hà lúc đó. Tam Điệp là dãy núi đá vôi, thuộc điạ phận Ninh Bình, giáp Thanh Hóa, có ba ngọn, cao nhất khoảng 118 thước. Trên núi này có đèo Ba Dội nằm trên quan lộ bắc nam ngày xưa.

[8] Cương mục, bản dịch tập 2, sđd. tt. 841, 842, 844.

[9] HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 167.

[10] Theo HLNTC, hồi thứ 14, (bản dịch tập 2, sđd. tr. 177) thì Đô đốc Tuyết, vâng lệnh Ngô văn Sở, về tới Phú Xuân ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (27-12-1788) báo tin cho Nguyễn Huệ. Việc này không thể xảy ra, vì ngay ngày hôm sau (25-11 âm lịch), Nguyễn Huệ lên ngôi vua, tổ chức duyệt binh. Quyết định một việc trọng đại, tổ chức một buổi lễ quan trọng là lễ đăng quang, đồng thời tập họp lực lượng, tổ chức cuộc duyệt binh lớn để kiểm điểm quân số trước khi ra trận, không thể chỉ tổ chức nội trong một ngày, nhất là ngày xưa phương tiện truyền thông chưa tiến bộ. Theo người viết, khi quân Thanh đến Lạng Sơn vào cuối tháng 10, Phan Khải Đức đầu hàng, Nguyễn văn Điểm rút lui về Kinh Bắc, thì Ngô văn Sở đã cấp báo cho Nguyễn Huệ, và trễ nhất khoảng từ 15 đến 20 tháng 11 Nguyễn Huệ đã biết tin và tính toán kế hoạch hành động.

[11] Năm 980, trước khi ra trận, tướng Phạm Cự Lượng triệu tập các tướng lãnh đang cầm quân, và nói rằng: “... Thưởng người có công và phạt kẻ không vâng mạng, đó là phép hành binh. Bây giờ chúa thượng (chỉ Đinh Toàn) hãy còn thơ ấu, bọn ta dẫu hết sức liều chết, may mà có chút công lao, thì ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn Thập Đạo Tướng Quân (chỉ Lê Hoàn) lên làm thiên tử, sau sẽ ra quân?” (Cương mục, bản dịch tập 1, sđd tr. 247.)

[12] HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 153.

[13] Tiêu biểu là Hoa Bằng, sđd., viết ít nhất 2 lần vào các trang 159, 185. Sách của Hoa Bằng được xuất bản lần đầu năm 1943, tái bản 1950. Hoa Bằng không cho biết xuất xứ từ đâu có con số 20 vạn.

[14] (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. tr. 1341.

[15] Trong sách của mình, tác giả Hoa Bằng viết rõ rằng: “Thấy Nghị thua chạy, đạo binh Vân, Quý (Vân Nam, Quý Châu) vừa đến Sơn Tây, phải vội tìm đường tháo về”. (Hoa Bằng, sđd. tr. 197.) Trong sách Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên viết: “Còn quân của Ô Đại Kinh tại Vân Nam thì chưa đến nơi”. (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tr. 1343.)

[16] Tối hậu thư Potsdam: Sau khi Đức thất trận và trước khi Nhật đầu hàng, từ ngày 17-7 đến 2-8-1945, đại diện Hoa Kỳ là Harry Truman, đại diện của Anh lúc đầu là Winston Churchill, sau là Clement Attlee (lãnh tụ đảng Lao Động, thắng cử ngày 25-7, lên làm Thủ tướng thế Churchill), đại diện Liên Xô là Stalin họp tại Potsdam, ngoại ô Berlin, để bàn về các vấn đề hậu chiến, và vấn đề Nhật Bản đang còn chiến đấu ở Á Châu. Đại diện các nước Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa (Tưởng Giới Thạch không họp, nhưng đồng ý qua truyền thanh) cùng gởi một tối hậu thư cho Nhật Bản ngày 26-7-1945. Liên Xô không được tham dự vào tối hậu thư này vì lúc đó, Liên Xô chưa tham chiến ở Á Châu. Tối hậu thư này buộc Nhật Bản phải đầu hàng vô điều kiện, chấp nhận những điều kiện của Đồng minh như chấm dứt quân phiệt, giải giới quân đội, từ bỏ đế quốc... Riêng về vấn đề Đông Dương, quân đội Nhật sẽ bị giải giới do quân đội Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, và do quân đội Anh ở nam vĩ tuyến 16. Vì vậy, quân đội Trung Hoa đã tràn vào phía bắc nước ta để giải giới quân đội Nhật.

[17] HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tt. 152, 179.

[18] Cương mục, bản dịch tập 2, sđd. tr. 845.

[19] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện (chữ Nho), Huế: bản dịch cuả Nxb. Thuận Hóa, 1993, tập 2, tr. 517. (viết tắt: ĐNCBLT) Với hai số liệu của hai sách HLNTC và ĐNCBLT quá cách biệt (dầu cho sách HLNTC chỉ nói đến quân Nghệ An), có lẽ số lượng quân của vua Quang Trung (bao gồm quân Thuận Quảng và quân Nghệ An) không lên tới mười vạn tức 100.000 quân.

[20] Khuyết danh, Lê quý dật sử (chữ Nho), Phạm văn Thắm dịch, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội, 1987, tr. 77. Sách này khuyết danh, nhưng những nhà nghiên cứu tin rằng do Bùi Dương Lịch (1757-1827) viết. (Người viết bài này cũng nghĩ vậy, vì rải rác trong suốt sách này ghi rất rõ những chi tiết về hành trạng riêng tư của Bùi Dương Lịch) Bùi Dương Lịch là quan nhà Lê, đã vào Phú Xuân yết kiến vua Quang Trung sau chiến tranh đánh giặc Thanh.

[21] (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. tr. 1344. Cần chú ý đây là tài liệu Trung Hoa chứ không phải của người Việt để tự ca tụng mình.

[22] Khuyết danh, Lê quý dật sử; tt. 87, 96.

[23] Theo Toàn thư, khi ra bắc năm 1593 để chúc mừng vua Lê trở về Thăng Long, Nguyễn Hoàng đã sử dụng những khẩu đại bác dẹp yên các cuộc nổi dậy của gia đình và tướng lãnh nhà Mạc sau năm 1593. (Ngô Sĩ Liên và nhiều tác giả, Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, 1998, bản dịch tập 3, tr. 185) Đội tượng binh của Thuận Hóa cũng rất hữu hiệu trong việc chống đỡ các cuộc tấn công của quân Trịnh trong chiến tranh Trịnh Nguyễn sau đó.

[24] Cương mục, bản dịch tập 2, sđd. tr. 845.

[25] Nguyễn Thiếp (1723-1804): người làng Nguyệt Ao, huyện La Sơn xứ Nghệ An (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh), đậu hương giải năm 1743 (Quý Hợi), đến năm 1756 (Bính Tý) ra làm huấn đạo Anh Đô (Nghệ An). Năm 1768 (Mậu Tý) thì từ quan, ở ẩn. Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ba lần mời ông vào Phú Xuân hội kiến, nhưng ông không nhận lời. Khi Nguyễn Huệ ra bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, ông ghé lại Nghệ An, đóng quân ở núi Nghĩa Liệt, viết thư mời lần thứ tư vào tháng 3 năm Mậu Thân (1788). Nguyễn Thiếp đến gặp Nguyễn Huệ lần đầu. Khi ra đánh quân Thanh, đây là lần thứ nhì hai bên gặp nhau.

[26] (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. 1052.

[27] Sông Lục Đầu: khúc sông Thái Bình, giáp giới Bắc Ninh và Hải Dương, là nơi tập trang ba sông Nguyệt Đức (Đuống), Nhật Đức (Thương), và Cầu.

[28] HLNTC hồi thứ 14, bản dịch tập 2, sđd. tr. 182.

[29] Sông Giản: tức Giản Thủy. Các sách từ HLNTC đều viết là Giản Thủy. Sách Cương mục, trong một đoạn trước đó, viết về việc Võ văn Nhậm ra bắc đánh Nguyễn Hữu Chỉnh, nói đến Gián Khẩu (bến đò Gián) ở Ninh Bình gần đèo Ba Dội. (Cương mục, bản dịch tập 2, sđd. tr. 518, 520). Đại Nam nhất thống chí, quyển 14 (Tỉnh Ninh Bình), mục “Đò cầu” công nói Gián Khẩu (chứ không phải Giản Thủy). (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, (tập 3, quyển 14), Huế: Nxb. Thuận Hóa, Huế, tái bản, 1997, tr. 269.) Trong sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19, Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, Hà Nội, Nxb. Khoa học Xã hội, 1981, tr. 119, viết rằng xã Giản Khẩu, thuộc tổng Tri Hối, huyện Gia Viễn, phủ Trường Yên, đạo Thanh Bình (vua Minh Mạng đổi thành Ninh Binh).

[30] Sau đây là nội dung một sắc thư của vua Càn Long mà Tôn Sĩ Nghị đã bỏ lại, và Tây Sơn lấy được: “Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ họp nghĩa binh, tìm tự quân nhã Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thừ xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quần ta kéo đến, ai là chẳng găng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai tự quân đuổi theo, rồi đại binh cửa ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc, xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân (Phúc Kiến), Quảng (Quảng Đông) đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch thế tất phải chịu. Bấy giờ ta sẽ nhân mà làm ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan (Nghệ An), châu Ái (Thanh Hóa) trở ra bắc thì phong cho tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau” (VNSL, tt. 374-375)

[31] Cương mục, bản dịch tập 2, sđd. tr. 847, HLNTC, bản dịch tập 2, sđd. tr. 186 đều viết là cầu phao bị gãy hay bị đứt. Trong Thánh vũ ký, Ngụy Nguyên viết rằng khi qua khỏi cầu, Tôn Sĩ Nghị đã chặt gãy cầu. (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. tr. 1344. Sách này cũng viết số người chết lên đến hàng vạn người.

[32] Trấn Nam quan: Nghĩa là: cửa để trấn giữ phương Nam. Vùng này là ải (đèo) Pha Lũy, xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn. Tại đèo này, người Trung Hoa xây một cửa lớn, và tường thành ngăn hai biên giới hai nước, và đặt tên cửa này là Trấn Nam quan. Do tên này, người Việt gọi cửa ải này là “Nam Quan”. Theo Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán nhà Nguyễn soạn bằng chữ Nho, Phạm Trọng Điểm dịch, Đào Duy Anh hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, 1997, tập 4, tt. 384-385, thì Nam Quan: “cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Vân Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường (Pingxiang / P’inghsiang) tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam quan. Cửa này dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh (1522-1566), đến năm Ung Chính (1723-1735) thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là ‘Đại Nam Quan’, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, [4] cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề ‘Trấn Nam Quan’, dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở”. Ở đây cần phân biệt cửa “Nam Quan” (tên gọi theo thói quen của người Việt) tức “Trấn Nam quan” (theo tên gọi Trung Hoa) và ải Nam Quan, tên khác của đoạn đèo chiến lược Pha Lũy, xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn.

[33] (Hoàng Xuân Hãn toàn tập, tập 2), sđd. tr. 1344.

[34] Có một số tác giả kể thêm một câu chuyện như sau: “Để làm như binh mã từ trên trời sa xuống, vua Quang Trung muốn cho cực kỳ thần tốc, nên trong lúc hành binh, ngài ra lệnh này cho đám quân Bắc phạt: cứ ba người một tóp, luân phiên võng lẫn cho nhau, suốt dọc đường, anh lính nào cũng phải võng người và được người võng. Như thế hết lượt anh này phải đi, lại đến lượt anh khác nghỉ. Nghỉ, đi; đi, nghỉ, cứ võng lẫn mãi cho ra đến chỗ đất mục đích. Vì thế, vừa trẩy được nhanh, vừa khỏi kiệt quân lực”. (Hoa Bằng, sđd. tr. 181.) Viết lại chuyện này, có tác giả thêm rằng: “Chắc hẳn lúc đó võng làm bằng tre, vì tre là thứ vật liệu dễ có nhất ở nước ta ở khắp xứ và có thể làm thành chiếc võng giản dị và mau chóng nhất”. (Phạm văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 3, Sài Gòn: 1959, tr. 430). Ý kiến này, trên lý thuyết, nghe ra rất đúng: nghỉ, đi; đi, nghỉ, luân phiên di chuyển và nghỉ ngơi thì không gì hay bằng, nhưng rất tiếc thực tế không thể áp dụng được, vì ba lẽ: 1).- Thứ nhất, nằm trên võng thì rất khó ngủ hoặc nghỉ, mà còn thêm mệt vì nhồi lên nhồi xuống (nằm trên xe hơi hay xe hỏa ngày nay mà còn khó nghỉ thì làm gì mà có thể nghỉ hay ngủ trên võng). Người khiêng võng lại cao thấp không đều, sức mạnh cũng không đều, đường đi lại không bằng phẳng, mà chỗ lồi chỗ lõm, dễ bị vấp ngã, đong đưa chiếc võng đủ mệt rồi, thì làm sao mà nghỉ. 2).- Thứ nhì, khiêng bất cứ một vật gì, lúc đầu thì rất nhẹ, nhưng chỉ cần vài trăm thước là bắt đầu cảm thấy nặng dần, cho đến vài cây số thì không thể khiêng nhanh được, huống gì là khiêng người (trung bình 50 kí-lô) cả hàng chục cây số. 3).- Thứ ba, võng không đủ để dùng khiêng lính đi. Ông Phạm văn Sơn nói võng làm bằng tre, vì ở Việt Nam đâu cũng có tre, nghe ra cũng rất đúng, nhưng tác giả này quên rằng tre được chẻ ra rất sắc, sợi lạt tre cũng sắc, làm võng nằm, tre sẽ cứa đứt da chảy máu càng khổ lính chứ chẳng ích lợi gì cả. Kết luận: đây chỉ là truyền thuyết chứ thực tế khó thể xảy ra. Để kiểm chứng, đề nghị một tổ chức văn hóa đứng ra thí nghiệm, tổ chức cuộc thi: một bên đi bộ, một bên đi võng theo kiểu trên đây để xem bên nào đi xa hơn và nhanh hơn. Tuy nhiên, theo người viết bài này, có thể câu chuyện được thi hành như thế sau: Khi hành quân, người lính phải mang theo quân trang, quân dụng. Ba người lính có thể lập thành một tiểu tổ, hai người dùng võng khiêng quân trang quân dụng, một người đi tay không cho khỏe, rồi tuần tự thay nhau mà khiêng.

[35] Nguyên vào tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), quân Minh bắt được Hồ Quý Ly cùng hai con là Hồ Nguyên Trừng và Hồ Hán Thương ở Nghệ An, không giết mà chỉ giải về Trung Hoa. Hồ Nguyên Trừng có tài về cơ khí, đã chế tạo được súng thần công, nên khi bị bắt, người Minh không giết mà còn trọng dụng. Theo Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ, mục “Vựng điển loại”, trích dẫn sách Cô thụ biểu đàm, Hồ Nguyên Trừng hay Lê Trừng được nhà Minh phong làm Hộ bộ Thượng thư. Lê Quý Đôn cũng trích dẫn Minh sử nói rằng: “trong niên biểu của thất khanh (bảy vị quan to), có nói đến tên Lê Trừng làm Binh bộ Thượng thư”. Minh sử còn chép rằng: “Năm Vĩnh Lạc (1403-1424), vua Minh thân chinh Mạc bắc. Khi giặc kéo ào đến, bèn đem thần sang của nước An Nam ra đánh...” (Văn đài loại ngữ, bản dịch của Phạm Vũ và Lê Hiền, Sài Gòn: Nxb. Tự Lực tái bản, Hoa Kỳ, tt. 238-239). Thần sang An Nam nói đến ở đây là súng thần công do Hồ Nguyên Trừng chế tạo. Hồ Nguyên Trừng còn soạn sách Nam ông mộng lục, viết về 31 nhân vật nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Có lẽ nhờ Nguyên Trừng mà Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương không bị giết, mà chỉ bị đày đi Quảng Châu.

[36] Xem chú thích số 21.

[37] Người viết đã thấy những khẩu đại bác này ở Đà Nẵng, có thể được trang bị tại đây để chống Pháp vào những năm 1858-1860. (Đại bác này nhỏ, không giống những khẩu thần công to lớn chỉ để trưng bày trong Thành nội Huế).

[38] Voi chỉ có thể chở đại bác ra trận chứ không thể kéo xe trên đặt đại bác ra trận vì: thứ nhất voi rất khó cột dây để kéo xe chở đại bác; thứ nhì voi cao, xe chở đại bác thấp mà kéo đàng sau đuôi thì làm sao đại bác có thể bắn tới phía trước?

[39] Ví dụ có thể dùng bông hay vải nhét vào lỗ tai voi, hoặc có thể khi huấn luyện, họ đốt pháo cho voi quen với tiếng nổ, hoặc họ hy sinh một số voi, làm cho các con voi mang súng ra trận bị điếc và không còn nghe được tiếng nổ súng thần công. Hơn nữa, voi chiến Tây Sơn rất thuần thục và khôn ngoan. Dưới đây là một mẩu chuyện về voi của thời này: Sau khi Nguyễn Phúc Ánh thành công và lên ngôi vua năm 1802 tức Gia Long (trị vì 1802-1819), ông ra lệnh xử tử gia đình nhà Tây Sơn và các tướng lãnh Tây Sơn. Khi nữ tướng Tây Sơn là Bùi thị Xuân bị đưa ra xử tử, “người ta kể rằng dầu voi đã bị kích thích, cũng còn phải thúc giục lắm nó mới tung bà (Bùi thị Xuân) lên, dường như nó còn nhận được bà là chủ cũ của nó”. (Thư của giáo sĩ De La Bissachère viết vào năm 1807 gởi về Pháp, Nguyễn Phương trích dịch trong Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn, Sài Gòn: Nxb. Khai Trí, 1967, tr. 397.)