← Quay lại trang sách

Tài dùng binh của Nguyễn Huệ Nguyễn Nhã-

Nguyễn Huệ: Một thiên tài quân sự chưa hề nếm mùi thất bại.

Chiến thắng bất hủ Xuân Kỷ Dậu đã đưa Nguyễn Huệ lên tột đỉnh đài vinh quang của dân tộc. Người đời về sau có thể vì quá thần thánh hóa con người hùng của Nguyễn Huệ, nên người ta đã coi Nguyễn Huệ như một thiên tài quân sự siêu việt. Thực ra thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ cũng đã được người cùng thời với Nguyễn Huệ xác nhận như là một sự thật không thể chối cãi.

Như các giáo sĩ là những người có nhiều thành kiến không mấy thiện cảm [1] với quân Tây Sơn, họ thường ví Nguyễn Huệ như là “Alexandre” hay “Tân Attila” [2]. Đại đế Hy Lạp Alexandre Le Grand và vua Hung Nô Attila đều là những nhà quân sự nổi danh “bách chiến bách thắng” ở châu Âu.

Vì quá sợ hãi tài dùng binh của Nguyễn Huệ cũng như sức mạnh của Tây Sơn, các giáo sĩ được tin Nguyễn Ánh nhờ Đức Giám mục Bá Đa Lộc cầu viện quân Pháp, đã không khỏi e ngại quân Pháp sẽ thất trận trước quân Tây Sơn. Trong bức thư để ngày 11 tháng 6 năm 1788, giáo sĩ La Bartette gửi cho giáo sĩ Letondal đã viết như sau:

... “Tôi không rõ cuộc viễn chinh của người Pháp khi nào sẽ xảy ra. Nhưng tôi sợ rằng quân Pháp của chúng ta vì khinh thường bọn người này (Tây Sơn) và không am hiểu tường tận cách hành binh của họ và không đủ sẵn sức mạnh và có thể trở thành nạn nhân” [3].

Người Việt cùng thời với Nguyễn Huệ như một cung nữ cũ của vua Lê, khi nghe tin vua Lê Chiêu Thống đã đưa Tôn Sĩ Nghị về Thăng Long, đã từ Trường An [4] ra Thăng Long nói với Thái hậu:

“Cứ xem những lời trong bài hịch, thì thấy Ngài (Tôn Sĩ Nghị) buộc cho ta nhiều lắm, mà Ngài thì cứ lượn lờ trên sông, chỉ dùng thanh thế dọa nạt, không biết Nguyễn Huệ là bậc anh hùng hão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam, thật là xuất quỷ nhập thần không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào còn dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh của y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn sấm sét. E rằng bất nhật y sẽ lại ra, quân Tôn tổng đốc còn có cái lo bên trong, địch sao cho nổi”! [5]

Các sử quan nhà Nguyễn cũng phải xác nhận:

“... Nguyễn văn Huệ là em của Nguyễn văn Nhạc, tiếng nói như chuông to, mắt lập lòe như ánh điện, là người giảo hoạt đánh giặc rất giỏi; người người đều sợ Huệ” [6].

Cái giỏi và độc đáo của Nguyễn Huệ ở điểm xuất thân là kẻ ít học, chỉ là kẻ “áo vải”, người trong “hang núi” như Nguyễn Huệ đã tự nhận, không xuất thân từ một trường dạy võ nào, hay một chức, quan võ nào của triều đình mà từ một kẻ bạch đinh trở thành một tướng lãnh tài ba.

Phàm là kẻ làm tướng tài, thì như Tôn Tử nói: “Tướng ấy là trí, là nhân, là kính, là tín, là dũng, là nghiêm. Trí là để bẻ gãy kẻ địch, nhân để làm cho người ham theo, kính là để chiêu người hiền, tín để đúng lệ thường, dũng là để thêm khí, nghiêm để nhất lịnh”.

Nguyễn Huệ thật là một người lắm mưu nhiều trí.

Không có trận đại thắng nào mà Nguyễn Huệ không dùng tới mưu từ trận đầu tiên đi vào sử sách là trận đánh úp quân Tống Phước Hiệp ở Phú Yên với kế “dụ địch”, khiến địch không đề phòng xuất kỳ bất ý đánh úp, giúp quân Tây Sơn lật ngược được thế cờ. Trận đánh chiếm Phú Xuân (1786) với kế “ly gián” phối hợp kế “dụ địch” khiến hai tướng Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể nghi kỵ nhau và Phạm Ngô Cầu mắc mưu bắt quân lính phục dịch mọi việc không còn hơi sức chiến đấu. Trận phá 20.000 quân và 300 chiến thuyền của Xiêm (1784) cũng dùng tới kế “phục kích”. Đến khi ra Bắc Hà diệt họ Trịnh, Nguyễn Huệ dùng đường thủy ngược theo sông Hồng Hà tới địa phận Lỗ Giang [7] gặp thủy quân của Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Huệ lại dùng kế “dụ địch” khiến quân Nhưỡng mắc lừa, bắn vào thuyền không lúc đêm tối, đến khi sáng ra thì bắn hết đạn, quân Nguyễn Huệ đã ập tới, phá tan quân Đinh Tích Nhưỡng làm phòng tuyến trấn giữ kinh thành bị chọc thủng, khiến quân của Nguyễn Huệ tiến tới kinh thành không mấy khó khăn.

Đến khi đại phá quân Thanh thì sự vận dụng mưu trí của Nguyễn Huệ đã đi đến mức tuyệt diệu.

Tôn Sĩ Nghị vốn tính hay kiêu khi sang nước ta chưa gặp được sức kháng cự nào, từ biên giới cho tới núi Tam Tằng [8], đường đi rất đễ dàng, Nghị dương dương tự đắc, gặp Tham tri Vũ Chinh nói về tình hình Tây Sơn có nói: “Nguyễn Huệ là tay lão luyện về việc hành trận, tay cầm một đội quân rất mạnh”. [9]. Tôn Sĩ Nghị cả cười mà rằng: “Nước người vì bị tàn ngược đã lâu, mất hết nhuệ khí nên động một tí thì đem hùm sói ra mà dọa, tự ta coi ra nó như hạng chó dê, chỉ sai một người dùng thừng buộc cổ lôi về chẳng khó khăn gì. Đợi khi ta đến La Thành chỉ nhổ nước bọt xoa tay là xong việc. Người hãy thử ngẫm mà xem” [10].

Nghị lại tỏ ra chủ quan hơn nữa khi Lê Quýnh đến dinh Nghị yêu cầu động binh, Nghị nói: “Việc gì mà phải lật đật như thế? Chẳng qua cũng như lấy của trong túi, lấy sớm được sớm, lấy muộn thì được muộn. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân đi xa cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội, giặc gầy thì ta béo, để tự nó đến nộp thịt. Nhưng ‘nước ấy’ đã xin như thế thì nên tính từ Đô thành về Nam, chừng 60 dặm, chia quân đóng ba đồn, đó cũng là cách phòng xa, chờ đến sang năm tiến quân mà bắt cũng chưa muộn” [11].

Chưa rõ tình hình ra sao, chưa có kinh nghiệm gì về địch mà Nghị dương dương tự đắc kiêu căng, như vậy làm sao có thể tránh khỏi kế kiêu địch của Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ đã gởi thơ tới Tôn Sĩ Nghị xin hàng [12]. Trước ngày tấn công, Nguyễn Huệ lại cho quân đến khiêu chiến và giả thua nhiều trận. Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám cương mục chép: “Ngày 4 tháng Giêng ấy, quân lưu động của giặc, đến trước, hễ đánh trận nào thì thua luôn trận ấy, Sĩ Nghị rất coi khinh” (13). Nhờ vậy, Quang Trung có được yếu tố bất ngờ, và với lối hành binh thần tốc, quân Thanh trở tay không kịp nên đại bại.

Nguyễn Huệ lại tỏ ra là người có tài tiên liệu thần tình, chẳng khác nào như Khổng Minh sắp đặt công việc.

Từ khi chiến thắng Phú Xuân,Nguyễn Huệ đã tỏ ra một người có mưu trí về cả chính trị. Những lời đối đáp với Nguyễn Hữu Chỉnh khi Chỉnh đưa ra đề nghị chiếm đất Bắc Hà đã chứng minh điều đó. Huệ đã quan tâm đến yếu tố nhân tâm trong cuộc chiến, nào e sợ nhân tài Bắc kỳ, nào lấy danh nghĩa tiến quân cho hợp lòng người; đến khi được Chỉnh nói trúng ý mình thì ông quyết định liền [14].

Nguyễn Huệ đã tiên tri được sự “trung thành” của Nguyễn Hữu Chỉnh. Sau khi diệt được họ Trịnh, Nguyễn Huệ trở về Phú Xuân, bỏ Nguyễn Hữu Chỉnh ở ngoài Bắc, nhưng Chỉnh đã vội đuổi theo gặp Nguyễn Huệ ở Nghệ An. Nguyễn Huệ cho Chỉnh cùng Nguyễn văn Duệ ở Nghệ An và dặn riêng bọn Duệ: “Chỉnh vốn là đứa vong mạng đến đầu ta, hắn phản phúc không thể tin được, ta lúc đầu muốn mượn tay người Bắc Hà giết hắn, chẳng ngờ hắn chạy thoát theo đây. Theo nghĩa ta cũng không nhẫn bỏ hắn, Nghệ An là quê quán hắn. Ngươi phải xem xét tinh tế động tĩnh của hắn mà phòng bị. Nếu có biến thì đưa thơ cấp báo” [15].

Quả nhiên, Chỉnh mưu chống lại Nguyễn Huệ khi nắm quyền hành ở Bắc Hà, sau khi được vua Chiêu Thống mời ra thanh toán bọn Trịnh Bồng. Nguyễn Huệ đã sai Vũ văn Nhậm ra bắt Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng Huệ đã tiên tri được những hành động của Nhậm nên đã cho bọn Ngô văn Sở và Phan văn Lân đi theo. Trước khi đi, Nguyễn Huệ nói kín với Ngô văn Sở và Phan văn Lân: “Nhậm trong chiến dịch này cầm trọng binh, chuyên việc nước lớn lao thì cái biến không thể nào liệu trước được. Điều ta lo không ở Bắc Hà mà chỉ ở Nhậm thôi. Bọn ngươi phải xem xét hắn tỉ như lửa vậy, dập lúc lửa mới nhen nhúm thí sức rất dễ” [16].

Đến khi được tin cấp bách của Ngô văn Sở về hành vi của Vũ văn Nhậm, Huệ liền bảo: “Vũ văn Nhậm, ta vốn biết hắn ắt làm phản, thì hẳn nhiên” [17].

Nguyễn Huệ như đã đoán trước những biến cố sẽ xảy ra cho Bắc Hà, và đã có con mắt tinh đời, biết Thời Nhậm, là người có thể đương đầu với thời thế khi có biến, đã dặn dò bọn Ngô văn Sở và Phan văn Lân nên tin cẩn nghe lời Nhiệm. Ông nói với bọn tướng tá rằng: “Phải hội đồng thương nghị với nhau, chớ vì mới cũ mà xa cách nhau, ấy là điều mong ước của ta”.

Quả nhiên nhờ có Ngô Thời Nhậm bàn kế rút lui để bảo toàn lực lượng thủy bộ và kế “dụ địch”, “kiêu địch”.

Khi gặp bọn Sở, Nhậm ở núi Tam Điệp (đèo Ba Dội) Nguyễn Huệ đã tiên đoán là do Nhậm bày kế ấy. Khi hỏi Nguyễn văn Tuyết quả nhiên đúng như thế [18].

Trước khi phát binh ra Thăng Long, Nguyễn Huệ lại nói với Ngô Thời Nhậm:

“Nay ta tự coi đốc tướng sĩ, phương lược tiến đánh đã tính sẵn rồi. Chẳng quá mười ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ nó là nước lớn, gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận ắt lấy làm thẹn mà cố báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, thật không phải phúc cho dân, lòng ta không nỡ làm vậy. Tới lúc đó, chỉ có một cách nói thật khéo, thì mới ngăn được cái ngòi chiến tranh, việc ấy phi Ngô Thời Nhậm thời không ai làm nổi. Đợi mười năm nữa ta đủ thì giờ gây nuôi nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì nó” [19].

Đến khi phá tan quân Thanh xong, lúc đầu để Hô Hổ hầu viết biểu cho Càn Long xin phong là An Nam quốc vương. Biểu ấy khi chuyển tới Thang Hùng Nghiệp, thì tên này cả kinh nói với sứ giả Hô Hổ hầu: “Nay không phải là hai nước đang đánh nhau, sao lại viết toàn một giọng giận dữ. Viết như thế là muốn cầu phong tước hay muốn khơi hấn chiến tranh chăng?” [20].

Sau Quang Trung phải giao hẳn cho Ngô Thời Nhậm: lo việc ngoại giao với nhà Thanh thì y như rằng việc giao hảo với nhà Thanh thật rất tốt đẹp, khiến vua tôi nhà Lê trở nên khổ nhục.

Những sự sắp đặt mưu kế, tiên liệu tính toán như vậy đã chứng tỏ mưu trí của Quang Trung cao đến mực nào!

Nói về cái dũng Nguyễn Huệ, chánh sử triều Nguyễn ghi: “Nguyễn Huệ đã bốn lần đánh phá Gia Định, lâm trận đi đầu các quân sĩ, hiệu lịnh rất nghiêm minh, quân sĩ đều kính phục”.

Khi chỉ huy trận đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ cỡi voi đốc xuất quân sĩ xông pha vào lửa đạn đến nỗi khi tiến vào thành Thăng Long, chiến bào của vua Quang Trung biến thành màu đen xám vì thuốc súng [22].

Trong một bản nhựt ký của Giáo hội Truyền giáo Bắc Hà gửi về cho Giáo hội Truyền giáo Trung ương ở Ba Lê có kể: “Ngày 30-1-1789 Quang Trung rời Kẻ Vôi (Hà Hồi) trên lưng voi và đến chung sức, khuyến khích đội ngũ ông, nhưng khi thấy họ chiến đấu không được hăng hái lắm, ông liền bỏ voi và dùng ngựa. Theo lời đồn ông đeo hai cái đoản đao (gươm) và chạy ngang dọc chém rơi đầu nhiều võ quan và binh lính Thanh, làm rất nhiều người chết về tay ông, ông luôn mồm hò xung phong và lúc nào cũng ở trận tuyến đầu” [23].

Điều này đã chứng tỏ sự vô cùng xông xáo của Nguyễn Huệ làm tướng coi cái chết nhẹ như lông hồng.

Tôn Vũ Tử xưa kia khi ra mắt vua Ngô Hạp Lư đã chứng tỏ sự áp dụng hiệu lệnh nghiêm minh của mình đã cho chém đầu hai người thiếp yêu nhất của nhà vua khi hai người này làm đội trưởng cho một toán 180 cung nữ để Tôn Vũ Tử áp dụng thử hiệu lệnh. Tôn Vũ Tử đã ba lần ra lệnh, năm lần nhắc lại và lại phải một lần thứ hai làm như vậy, mà bọn cung nữ cứ cười cợt không tuân theo, ông mới ra lệnh chém hai người thiếp yêu của vua dù vua can xin tha tội. Người đời về sau khen hiệu lệnh Tôn Tử thật là nghiêm. Hiệu lệnh của Nguyễn Huệ cũng nghiêm khắc không kém. Trong bức thư đề ngày 11 tháng 6 năm 1788, giáo sĩ La Barette gửi cho giáo sĩ Letondal có viết: “Quân giặc (quân Tây Sơn) đôi khi điều động được tới 200, 300.000 quân, sự thực thì đa số bị cưỡng bách, nhưng tất cả đều quyết tử, kẻ nào nhìn về sau trận địa, lập tức bị chém đầu” [24]

Ngày lễ thành phục vua Lê Hiển Tôn, Huệ mặc đồ tang đứng bên trái trên điện, có một người chấp sự cười lên - Huệ ra lệnh bắt đem ra chém. [25]

Khi Nguyễn Huệ ra Bắc dẹp họ Trịnh, bọn côn đồ thừa cơ hỗn loạn nổi lên cướp bóc khắp nơi, Nguyễn Huệ đã áp dụng sự trừng phạt gắt gao, giáo sĩ Le Roy (ở Nam Định) đã viết cho ông Blandin ở Paris ngày 11 tháng 7 năm 1786:

“... Những người Nam Hà này (quân Nguyễn Huệ) đã áp dụng sự xử án khắc nghiệt - mới thấy tố cáo chẳng cần đợi xét xử lôi thôi, họ đã chém đầu những bọn trộm cướp hay tất cả những kẻ nào bị người ta tố cáo là trộm cướp. Người ta rất lấy làm thích sự xử phạt như vậy và sự liêm khiết của Tây Sơn. Vì họ không cướp bóc ai, họ chỉ biết chặt đầu mà thôi. Điều đó đã khiến cho yên lành ở một vài nơi trong một thời gian”. [26]

Nguyễn Huệ nghiêm khắc việc quân như vậy, không hẳn con người sắt thép ấy không còn tình cảm mà sự thực Nguyễn Huệ lại là người nhiều tình cảm hơn hết. Bằng chứng như khi người vợ cả của ông mất, ông đã thương tiếc gần như điên khùng. [27]

Ngày 16-6-1792, giáo sĩ Le Labousse lại viết thơ cho người bạn của ông:

“Cuối cùng tôi được biết rằng một trong những bạn của chúng ta (Girard) ở Nam Hà hiện nay đương ở trong triều đình phiến loạn, ông ta bị bắt phải đến để chữa bệnh cho người vợ của ‘bạo chúa’ vì ông đã đòi một y sĩ người Âu. Tại triều đình, ông này được đón tiếp rất trọng hậu và hạnh phúc lớn lao nhất có lẽ chính là vợ của Tiếm Vương đã chết trước khi ông có thể khám bệnh. Ông ‘bạo chúa’ đã đau khổ đến cùng cực về việc ông Girard không được gọi đến kịp thời”. [28]

Nguyễn Huệ dù sắt đá đến đâu cũng phải mềm lòng trước nước mắt của giai nhân. Khi Lê Hiển Tông chết, Huệ giận Tự Tôn đã không mời trước đến bàn việc tang ông bố vợ mà lại để khi nhập liệm xong mới đến mời. Nguyễn Huệ cho đó là có ý coi mình như những người ngoài, lập tức sai người vào triều bắt phải hoãn lễ đăng quang, muốn lập người khác. Nhưng khi công việc đăng cực đã xong, triều đình đã cho người ra báo tin thành lễ với ông, Nguyễn Huệ giận dữ bèn truyền lệnh các quân thủy bộ sắm sửa hành trang cho kịp ngày mai rút quân về nước [29]. Nhưng đến khi Ngọc Hân công chúa khóc xin Huệ ở lại, thì Nguyễn Huệ không thể đành lòng.

Người anh hùng ấy cũng hơn một lần chìu theo ý của giai nhân. Ngọc Hân đã “thỏ thẻ” đến nỗi Huệ có ý không chịu lập Tự Tôn lên ngôi. Đến khi công chúa nghe nói triều đình giận mình, kết tội mình làm hại đến việc lớn của xã tắc thì Ngọc Hân công chúa lại về phủ để xin với Huệ lập Tự Tôn trở lại. Công chúa đã nói như thế nào để Nguyễn Huệ cũng lại mềm lòng, nể “người đẹp” mà bằng lòng.

Không phải là con người không có tình cảm nên Nguyễn Huệ thật cũng có thừa lòng nhân. Xem việc Nguyễn Huệ xử sự trước cái chết của Trịnh Khải thì biết. Khi bọn Nguyễn Trang đến nộp đầu Trịnh Khải, Nguyễn Huệ nói: “Đáng tiếc cho một hảo nam tử, lúc đầu nếu sớm đầu hàng thì hẳn không mất phú quý, sao lại khổ ử, hủy mạng”. Rồi Huệ cho lấy lễ bực vương tống táng Trịnh Khải [31]. Thật khác hẳn với kẻ hẹp lượng, chỉ muốn băm vằm kẻ địch, đến nỗi kẻ thù chết rồi công không tha cho quật mồ, quật mả. Thái độ đối với Trịnh Khải thật là độ lượng của người anh hùng.

Còn lòng kính hiền đãi sĩ của một võ tướng như Nguyễn Huệ thì thật khó ai bì kịp. Điển hình như sự đối xử của Nguyễn Huệ với La Sơn Phu Tử. Bao lần “mời cụ không ra, lễ cụ không nhận, lộc dưỡng lão cụ cũng từ... Thế mà Quang Trung chỉ ôn tồn kính cẩn, trách nhẹ mà thôi, rồi lại cố mời cụ ra. Lòng mến kẻ hiền lớn mạnh đến chừng nào!” [32]

Với tư cách ấy, Nguyễn Huệ đã tỏ ra một vị tướng tài ba vẹn toàn. Tài ba này đã hơn một lần được chứng tỏ bằng những chiến tích anh dũng của ông. Từ trận đánh úp tại Phú Yên quân Tống Phúc Hiệp (năm 1773) đến trận Đống Đa (1789), gần 20 năm trời vị tướng trẻ tài ba ấy đánh nam bắc không hề nếm mùi thất bại. Trong bài hịch gửi đến quan quân và dân hai tỉnh Quảng Ngãi, Quy Nhơn, ông đã nói: “Nơi nào có ta mang quân đến, nơi đó quân thù bị đánh tan tành” [33].

Trong sử sách không thấy đoạn nào ghi chép sự thất bại của Nguyễn Huệ. Trong bốn lần vào đánh Gia Định, nơi nào Nguyễn Huệ tới, nơi đó đối phương phải chịu thảm bại. Đại Nam thực lục chính biên của triều Nguyễn, vốn có ác cảm với Nguyễn Huệ cũng chỉ có thể viết: “Tháng 12 năm Giáp Thìn (1784) giặc Tây Sơn Nguyễn Nhạc nghe tin quân giặc cáo cấp, tức thì sai Nguyễn văn Huệ đem binh thuyền vào cứu Saigon. Huệ đến, đánh vài trận không được, muốn đem quân về. Có tên phản thần là Lê Xuân Giác bày kế cho Huệ đem hết quân mạnh mai phục ở rạch Gầm và ở sông Xoài Mút (Định Tường) rồi dụ quân Xiêm lại đánh [34]. Đó là lần duy nhất sách Thực lục nói Nguyễn Huệ không thắng, nhưng cũng không nói là thua.

Đánh Gia Định lần nhất vào mùa Xuân Đinh Dậu(1777), quân Nguyễn phải chạy dài, đến tháng 9 mùa thu năm ấy, chúa Nguyễn Duệ Tông bị giết, chỉ một mình Nguyễn Ánh thoát, lên thuyền đậu sông Khoa (Long Xuyên) rồi lẩn tránh.

Đánh Gia Định lần hai vào mùa Xuân (tháng 3) Nhâm Dần (1782). Quân Nguyễn không ngăn được sự tiến quân của Tây Sơn từ biển vào theo lối Cần Giờ Nguyễn Ánh phải chạy đến Lữ Phụ (Giồng Lữ) thuộc tỉnh Định Tường, nhặt tàn quân còn khoảng hơn 300 người. Nguyễn Ánh cố gắng vùng lên, đánh bại được quân của Tây Sơn là Đô đốc Nguyễn Học tới đánh; thừa thắng quân Nguyễn phản công Tây Sơn, khí thế lên mạnh. Nhưng khi quân Nguyễn tới đóng ở Ngã tư (Tứ kỳ giang) thuộc tỉnh Gia Định, Nguyễn Huệ đem quân mạnh ập tới, bày trận bối thủy (quay lưng xuống nước như Hàn Tín) mà đánh, quân Nguyễn thảm bại. Nguyễn Ánh chạy về miền Hậu Giang, tới Hà Tiên rồi ra Phú Quốc, và phải sai Nguyễn Hữu Thụy, Trần Xuân Trạch cùng Cai cơ Cao Trí Phúc sang Xiêm cầu viện [35].

Lần thứ ba, cũng vào mùa Xuân Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ cùng Nguyễn Lữ lại vào đánh Gia Định cũng từ cửa Cần Giờ tiến vào... Quân Nguyễn lại bị bại, Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Dòng (Tam Phụ, Định Tường), quân không còn đầy một trăm, bầy tôi còn năm, sáu người. Nguyễn Ánh phải chạy về Mỹ Tho rồi cùng mẹ và tang quyến chạy ra Phú Quốc. Lần này Nguyễn Huệ cho quân truy kích, cho phò mã Trương văn Đa đem thủy quân vây ba vòng Nguyễn Ánh ở đảo Côn Lôn. Nhờ có bão, Nguyễn Ánh thoát vòng vây, qua ở đảo Phú Quốc, rồi sai người mời Bá Đa Lộc đến nhờ đi Pháp cầu viện (tháng 7, Quý Mùi).

Và lần cuối cùng, vào tháng 12 năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đem quân đánh Gia Định và đại phá hai vạn quân Xiêm cùng 300 chiến thuyền [36].

Rồi từ năm Bính Ngọ (1786) trở đi, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ được phát triển, nảy nở toàn vẹn, khiến ông mạnh tiến trên đài danh vọng như diều gặp gió, thoát khỏi quyền kiềm tỏa của anh ông để rồi Nguyễn Nhạc đành phải chấp nhận sự thoái bộ của mình. Rút kinh nghiệm những trận chiến dai dẳng với Nguyễn Ánh, phải ba, bốn lần vào đánh Gia Định, mỗi lần phải ở tới năm, sáu tháng trời đánh dẹp, từ khi đánh Phú Xuân, ông đã phối hợp giữa mặt trận quân sự, chính trị, tâm lý và với lối đánh thần tốc, ông đã thắng những trận lớn một cách nhanh chóng.

Đối với kẻ nội thù, ông đã đánh trận nào thắng trận ấy, từ chiến trường miền Nam ra chiến trường miền Bắc, đánh tan quân Nguyễn và làm sụp đổ hoàn toàn cơ nghiệp họ Trịnh.

Đối với ngoại thù, ông cả thắng hai vạn quân Xiêm và đại phá 20 vạn quân Thanh [37] dù rằng nhà Thanh đã mưu nhờ tới cả quân Xiêm tiếp viện [38] để hai mặt cùng đánh.

Con người cái thế anh hùng như Nguyễn Huệ có thể làm nổi những chuyện kinh thiên động địa hơn nữa với mộng đánh Tàu của ông. Nhưng anh hùng mệnh đoản, vào mùa thu năm Nhâm Tý (1792) ông đã từ trần [39].

Nguyễn Huệ với lối hành binh vũ bão.

Đánh nhanh, đánh mạnh, đó là điểm đặc biệt về phép dụng binh của Quang Trung. Nếu Hưng Đạo vương sở trường về lối đánh “đoản binh” để chống lối “trường trận” hay Lê Lợi với phép “dĩ dật đãi lao” chuyên đánh du kích thì Quang Trung trái hẳn, rất sở trường lối đánh “trường trận”. Đó là lối đánh “vận động chiến”, “trận địa chiến”. Đó là lối đánh của một kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Quang Trung luôn tỏ ra ở thế mạnh.

Thế mạnh là nhờ ở quân số, hỏa lực, phương tiện và mưu kế (chiến thuật, chiến lược).

Trước hết về quân số, Nguyễn Huệ thật có tài huấn luyện rất mau chóng các tân binh để biến thành các chiến binh có khả năng chiến đấu cao.

Khi ra Bắc đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ qua Nghệ An và Thanh Hóa lấy thêm quân lính đến tám vạn người [40] Với hơn mười ngày tuyển binh và kể từ ngày bắt đầu tuyển (ngày 29-11 Mậu Thân tới Nghệ An) cho tới ngày ra trận, trong vòng chỉ khoảng một tháng trời, đồng thời lại phải chuyển quân một khoảng đường dài hàng mấy trăm cây số mà lính ấy ra trận đánh giặc lại hay, như vậy thực là ngoài sức tưởng tượng. Giáo sĩ Le Roy đã tả đạo quân Quang Trung thì gồm cả người già lão, trẻ con trông giống một toán bệnh nhân ốm yếu hơn là một đoàn chiến binh. Ấy thế mà đạo quân khốn khổ ấy lại tàn sát được đạo quân Trung Hoa [41].

Hồi Lê Lợi khởi nghĩa Ngài cũng tuyển đinh tráng ở các xứ Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa. Nhà nào có ba người thì một người làm quân, thuế khóa giao dịch đều miễn trong ba năm” [42]. Sang đời Lê Thánh Tông phép tuyển binh rất rõ ràng chu đáo:

Cứ ba năm thì làm hộ tịch một lần gọi là tiểu điển, sáu năm một lần gọi là đại điển. Sai quan đi các sứ, dùng nội thần và văn võ mỗi hạng hai viên, dựng lập tuyển trưởng để duyệt dân binh, chia làm các bực tráng hạng, quân hạng, dân hạng, lão hạng, cố hạng, cùng hạng, nhà nào có ba đinh thì một người bổ vào hạng lính tráng, một người bổ hạng quân, một người bổ hạng dân. Nhà có năm, sáu đinh trở lên thì hai người bổ hạng lính, một người bổ hạng quân để ứng vụ. Hạng lính thì kể riêng. Hạng lão nhiêu và tàn tật thì khai riêng. Những người phiêu lưu trốn biệt thì bỏ ra ngoài sổ. Trưởng thành đến 18 tuổi thì vào sổ. Trước hết tuyển những người cường tráng làm binh lính, rồi đến dân tráng sung vào hạng quân, ở nhà làm ruộng, khi nào có thải người già yếu thì chiếu theo thứ tự lấy bổ sung vào. Cứ mở sổ mà lấy binh, không cần phải bắt mà có đủ ngay [43].

Còn Nguyễn Huệ thì việc tuyển binh có phần gắt gao hơn. Trong thơ đề ngày 13-5-1787, giáo sĩ Longer gửi cho ông Blandin viết: “Người bạn đồng sự trẻ của chúng tôi bắt buộc phải chạy bởi người ta bắt tất cả mọi người phải đi đánh nhau từ 15 tuổi trở lên. Những người già, đàn bà góa, và con gái cũng bắt đi sửa cầu, đường sá” [44]. Một giáo sĩ khác viết: “Họ (quân Nguyễn Huệ) đã phá hủy ở đây tất cả những ngôi nhà thờ đẹp nhất của chúng ta cùng tất cả những ngôi chùa và bắt các sư tăng cầm khí giới ra trận” [45].

Việc kiểm soát đi lại rất gắt gao và khoa học nên sự trốn lính rất khó khăn. Giáo sĩ Doussaint gửi thư cho ông Blandin ngày 16-6-1788 viết:

“Rất khó đi lại, kẻ nào không có “thẻ” sẽ bị bắt giữ và bị tù: mỗi làng bắt buộc phải dựng lên hai hay ba căn nhà nhận dấu (tay) của người qua lại. Với phương tiện này, họ bắt được tận hết suất đinh” [46].

Với cách tuyển binh như trên, nên quân của Nguyễn Huệ lúc nào cũng có quân số đông đảo, hàng trăm ngàn người, rất cần thiết để dùng lối đánh vũ bão.

Về hỏa lực, Quang Trung có khí giới lợi hại nhất là ống phun lửa tục gọi là Hổ lửa và lực lượng xung kích lợi hại nhất là voi trận [47]. Chính Tôn Sĩ Nghị trước khi tiến quân sang, đã ban 8 điều quân luật để dặn dò quân sĩ. Trong đó có nói: “Người Nam đánh trận hay dùng sức voi. Lối đó nội địa (Trung Hoa) không quen, nên hễ gặp phải, ắt phải chạy trước để tránh...”

“Họ chỉ dùng các ‘ống phóng’ làm lợi khí. Thứ lợi khí ấy cũng gọi là Hổ lửa. Trong khi hai bên giáp nhau, trước hết họ dùng vật ấy đốt cháy quần áo người ta, để cho người ta phải lui...” [48]

Về loại ống phun lửa từ đời Lê Thái Tổ đã thấy nói đến. Mỗi vệ trang bị ống lửa hạng đại tướng quân 1 cái, hạng lớn 10 cái, hạng nhỏ 80 cái. [49]. Chắc loại ống phun lửa này còn sơ khai không tân tiến được như loại “hổ lửa” sau này.

Ngoài ra các khí giới khác cũng dùng như khí giới ở thời Lê Trung Hưng như kiếm, kích, giáo, mộc, đao, súng, thuốc đạn. Hoặc như nỏ bắn đá, súng báng gỗ, súng bọc da, tên lửa, thuốc lửa, đạn lửa, thuốc mù [50].

Về súng, quân đội Quang Trung trang bị các loại súng tay như súng chim [51], súng đại bác. Các súng đại bác dùng để phòng thủ, hay dùng để tấn công bằng cách cho voi chở như lời Ngụy Nguyên chép trong sách Thánh Vũ Ký: “Giặc (Tây Sơn) đều chở đại bác bằng voi mà xông vào trận” [52].

Súng đại bác đã được chúa Nguyễn ở Nam Hà dùng từ lâu và nhờ người Bồ Đào Nha lập xưởng đúc súng ở Phú Xuân. Trong một tập du ký viết về Nam Hà vào năm 1749, ông Le Poivre có cho biết chung quanh phủ chúa Nguyễn có tới 1.200 khẩu đại bác mà phần lớn là súng của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Súng thì không bắn được tới sáu phát và phần lớn đạn không cùng một cỡ [53]. Mỗi khẩu đội gồm sáu người [54]...

Voi có nhiều ở Cao Nguyên Trung Phần, Tây Sơn cũng như Nguyễn Huệ ở gần đất có voi, nên việc lập tượng binh rất dễ dàng. Các triều đại trước kia cũng phần lớn lấy voi ở miền đất giáp Chiêm Thành để làm voi trận. “Hiến Tông, (Lê) năm Cảnh Thống thứ hai (1499), ra lệnh cho quân dân ở Quảng Nam, [55] ai bắt được voi công thì báo cho ba ty khám thực, cứ bắt được một con thì được kể 20 người công đầu và 20 người công phụ mà thưởng cho theo thứ bậc” [56]. Xem thế, việc việc bắt voi làm voi trận vào thời Lê này còn khó khăn lắm. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, Chúa Nguyễn mở rộng bờ cõi về phía nam, gồm các vùng Cao nguyên, nên việc kiếm voi rất dễ dàng. Vì thế, Chúa Nguyễn lúc nào cũng có sẵn hàng trăm voi trận như giáo sĩ Delacourt có nói ít nhất là 400 voi trận (Ar-M. E, Coch 740, tlđd). Lực lượng tượng binh của Nguyễn Huệ không rõ cả thảy được bao nhiêu, nhưng cũng phải tới hàng trăm thớt voi trận. Sách Liệt Truyện chép: “Bình đắc thắng được hơn mười vạn, voi trận mấy trăm thớt”. Vua Quang Trung duyệt binh ở trên doanh. Vua Quang Trung thân cỡi voi ra doanh trại ủy lạo quân sĩ rồi hạ lệnh tiến phát [57].

Dùng voi trận rất lợi nhưng cũng rất hại. Vì nếu không khéo, chính voi ấy lại giết quân mình dễ dàng, làm quân mình thua trận mau hơn. Như trận tập kích Bích Kê, quân Tây Sơn la hét, gây tiếng động làm voi quân chúa Nguyễn có tới hơn 40 con sợ hãi, chạy tán loạn, đạp lên quân sĩ chúa Nguyễn chết nhiều hơn là bị quân Tây Sơn giết. [58]

Thời đó người ta thấy hầu như Nguyễn Huệ chỉ sử dụng voi trận ở chiến trường miền Trung và Bắc, còn miền Nam thì không. Sử sách không thấy nói tới việc mang voi vào đánh Gia Định. Có lẽ vì những lần mang quân vào đánh Gia Định, Huệ đều đi bằng đường biển, không tiện mang voi theo, một phần vì voi trận chỉ thích hợp chiến trường miền nhiều rừng núi, chứ không hợp với miền nhiều đồng lầy như ở Miền Nam.

Nguyễn Huệ ít khi dùng ngựa mà luôn luôn cỡi voi, lúc đưa đám ma vua Lê Hiển Tông cũng cỡi voi, lúc duyệt binh đến khi ra trận cũng vậy.

Vì thích dùng voi nên Nguyễn Huệ đã tạo ra tượng binh rất lợi hại. Sách Cương mục chép về Nguyễn Huệ dùng voi đánh quân Thanh: “Hồi trống canh năm sớm hôm sau, Văn Huệ xăn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa quân rầm rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi trước. Tờ mờ sáng, quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy voi, ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn nhau. Giặc lại lùa voi xông đến, quân Thanh, trong cơn gấp rút không cứu nhau được, ai nấy rút vào trong đồn lũy để cố thủ. Bên mặt đồn lũy quân Thanh đều cắm chông sắt, súng và tên bắn ra như mưa. Giặc dùng các bó rơm to lớn để che đỡ mà lăn xả vào rồi quân tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và quân Thanh đều chạy. Giặc được đến đồn Đông nam, thừa thắng, ập lại giết chết quân Thanh bị chết bị thương quá đến nữa”. [59]

Voi trận của Nguyễn Huệ thật là một lực lượng xung kích rất lợi hại, chẳng khác nào như lực lượng “xe tăng thiết giáp” thời nay, khiến cho quân Nguyễn Huệ thêm dũng mãnh.

Nguyễn Huệ rất giỏi về lối dụng binh thần tốc. Binh pháp xưa cũng dạy kẻ làm tướng phải lấy yếu tố nhanh làm quý. Tôn Tử nói: “... Việc binh nên rằng thà vụng mà chóng chứ không nên khéo mà lâu. Việc binh kéo dài mà nước lợi, chưa từng có vậy”.

Trước hết, Nguyễn Huệ có lối chuyển quân rất nhanh chóng. Trong bức thư của Giáo sĩ Labartette đề ngày 23-7-1788, không rõ gửi cho ai, có kể Nguyễn Huệ chuyển quân từ xứ Nam về Phú Xuân chỉ mất mười ngày trong khi bình thường phải mất tới 20 ngày [60]. Trong một bức thư của Giáo sĩ Le Breton, đề ngày 2-8-1788, gửi từ xứ Nghệ đã viết: “Như thế Nguyễn Huệ đã trở về Phú Xuân vào đầu tháng 7. Ông đã bắt quân phải về gấp rút đến nỗi có nhiều binh sĩ chết vì mệt mỏi và nắng nực. Ngay cả voi ngựa cũng chết”. [61]

Lúc ra Thăng Long bắt giết Vũ văn Nhậm, từ Phú Xuân, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ đã tự đốc thúc bộ, kỵ binh ngày đêm gấp đường trẩy đi. Chừng hơn mười ngày đến Thăng Long [62].

Trong Nhật ký của Giáo Hội Truyền Giáo Bắc Hà [63] gửi và cho Hội Truyền Giáo Trung Ương có thuật lại sức tiến quân vũ bão của Quang Trung như sau: “Ông (Nguyễn Huệ) tiến như vũ bão ra Bắc và chỉ mất có một ngày, không quản đường xa khó nhọc đã giết chết nhiều ngựa voi của ông, trong khi người khác phải mất ba hay bốn ngày”.

Với khoảng đường dài hơn 600 cây số, thời gian di chuyển quân chỉ mất mười ngày; đường sá lại bị núi sông cách trở, việc di chuyển cả một đoàn quân lớn như vậy thật là phi thường. Sức ngựa voi còn không chịu nổi phải chết dọc đường huống hồ sức người. Về kỹ thuật di hành cho bộ binh, Nguyễn Huệ đã áp dụng nguyên tắc “tập thể di chuyển liên tục ngày đêm, cá nhân luân phiên nghỉ dưỡng sức”.

Nguyễn Huệ cho quân cứ ba người thành một tốp, luân phiên võng lẫn cho nhau, suốt dọc đường, anh nào cổng phải võng người và được người võng. Như thế hết lược anh này phải đi, lại đến lượt anh khác được nghỉ. Nghỉ đi, đi nghỉ, cứ võng lẫn mãi cho ra đến mục đích. Vì thế, vừa trẩy được nhanh, vừa khỏi kiệt quân lực. Quân lính, đi trước, vài trăm voi trận đi sau [64].

Việc chuyển quân nhanh khiến địch quân không ngờ và trở tay không kịp khi bị tấn công.

Theo như nhận xét của một cung nữ vua Lê, sự xuất hiện của Nguyễn Huệ như thần xuất quỷ nhập [65]. Chính bởi chiến thuật của Nguyễn Huệ luôn khai thác yếu tố bất ngờ. Từ việc khai thác sự sơ ý của Tống Phúc Hiệp ở Phú Yên, sự không đề phòng và mệt mỏi của quân Phạm Ngô Cầu ở Phú Xuân đến sự lợi dụng ngày tết Nguyên Đán, quân Thanh đang mải mê ăn tết, Nguyễn Huệ đều xuất kỳ bất ý đánh địch không kịp trở tay. Ngay đến việc ra Bắc bắt Vũ văn Nhậm, Nguyễn Huệ cũng lợi dụng sự xuất kỳ bất ý, đến Thăng Long còn đêm vào lúc canh tư, đến nơi Nhậm còn đang ngủ, bắt giết Nhậm [66]. Trước đó, Nguyễn Huệ đã bỏ Chỉnh ở lại Bắc Hà, sau khi đã diệt họ Trịnh cũng thật đột ngột, bất ngờ xuống thuyền về Nam lúc nào Chỉnh cũng không hay.

Trong cuộc tiến quân ra Bắc đại phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đã áp dụng chiến thuật bôn tập. Xuất phát từ nơi xa cách mục tiêu khoảng hai trăm cây số, Nguyễn Huệ đã cho quân tiến rất nhanh. Trong những trang nhật ký của Giáo Hội Truyền Giáo Bắc Hà [67] có thuật rõ: “Quân Tây Sơn tới xứ Nam vào ngày 24-1 tức ngày 29 Tết [68]. Tới ngày 28-1-1789 tức ngày mùng 3 Tết, quân của Nguyễn Huệ đã tới Hà Hồi, chỉ cách Thăng Long một ngày rưỡi đường. Ngay sau đó quân của Nguyễn Huệ tấn công liền mấy tiền đồn của Trung Hoa. Quân Trung Hoa bị đánh bất ngờ và không kịp điều động binh lính đi cứu viện vì họ không đề phòng trước”.

Tài liệu còn nói rõ: “Vào ngày 29-1-1789 tức ngày mùng 4 Tết, quân Trung Hoa đã phản công lại, chống cự kịch liệt, gây thiệt hại nhiều cho binh sĩ Tây Sơn và khá nhiều voi trận. Nguyễn Huệ đã phải lo ngại. Nhưng Nguyễn Huệ đã đốc thúc, chính nhà vua dẫn đầu, miệng hô xung phong, lúc cỡi voi đến cỡi ngựa, dùng hai thanh gươm, chạy ngang dọc, chém giết nhiều quân Trung Hoa. Sáng ngày 30-1-1789, quân Trung Hoa bị dồn đánh cả bốn mặt, phải chạy về Thăng Long. Lập tức Nguyễn Huệ cho đuổi theo chúng bén gót, phá được một cửa thành Thăng Long và làm chủ tình hình vào cùng ngày, sau khi rong ruổi đánh đuổi quân địch, chạy dài hàng chục cây số. Thật là một cuộc rượt đuổi đầy hào hứng với sức tiến công như nước vỡ bờ. Tối ngày 30-1, rạng ngày 31-1, Điền Châu thái thú phải tự vẫn cùng khoảng 1.000 người binh lính bị thảm sát...”

Vào Thăng Long, Quang Trung liền gấp rút tổ chức ngay cuộc bố phòng đề phòng cuộc phản công của Trung Hoa, bằng cách cho xây trong 3 ngày 3 đêm liền một thành lũy xây bằng đất quanh điện vua Lê, dày 20 “piê” (tấc xưa bay bộ) cao 12 “piê” (mỗi piê dài: 0,m324). Chính giáo sĩ La Mothe phải thốt lên rằng “Thật là hiếm những người đáng sợ và quỷ quyệt như ông ta”.

Xem như vậy, sở trường của Nguyễn Huệ là hành động thật mau lẹ và bất ngờ, khó ai sánh kịp. Chính yếu tố này giúp Nguyễn Huệ có lối hành binh vũ bão.

Nguyễn Huệ với “Chiến tranh cách mạng”

Nạn đói khổ là nguyên nhân thúc đẩy cao trào cách mạng Tây Sơn.

Nguyên nhân nổi dậy có nhiều, nhưng người ta phải chú ý đến tình trạng cùng cực của dân hai miền Bắc Hà, Nam Hà.

Trước ngày Nguyễn Huệ chiếm Phú Xuân, nạn đói đã hoành hành thường xuyên, tại các tỉnh Bắc Hà và các tỉnh Nam Hà Thượng.

Tại vùng Định Cát, Quảng Trị, Giáo sĩ Labartette đã viết: “Nạn đói càng ngày càng gia tăng ở đây. Những nhu yếu phẩm cho đời sống đều quá giá... Từ một năm nay tất cả mọi người chết vì đói khổ và chúng tôi không còn có sự cứu giúp nào ngoài triều đình hay từ Bắc Hà, lại nữa làm chúng tôi phải trả một giá rất đắc. Ngoài đường, trong nhà đâu cũng đầy dẫy những xác chết và không còn ai nghĩ đến việc chôn cất”. [69]

Giáo sĩ Labartette [70] cũng cho biết:

“Ở đây có ít nhất một nửa dân vương quốc đã chết bởi chiến tranh chưa chấm dứt cũng bằng do nạn đói đang hoành hành đến cực độ. Người ta đã bán thịt người lâu rồi ở ngoài chợ. Tôi nhớ rằng ở năm đầu tiên, tôi đã hân hạnh lưu ý với ông như một sự kiện lạ lùng về cái đong gạo mà người ta gọi là ‘cái lương’ [71] được bán đến 10 quan trong khi trước kia người ta bán 4 hay 5 tiền. Tuy nhiên, ở năm nay, người ta mua tới 70 quan. Điều đó có vẻ như hơi khó tin. Tuy vậy, đó là hoàn toàn sự thực”.

Trong khoảng từ năm 1774 đến năm 1786 tức năm Nguyễn Huệ tiến đánh Phú Xuân và Bắc Hà, diệt họ Trịnh, không năm nào, các giáo sĩ không nói đến nạn đói kinh khủng đang hoành hành tại các tỉnh miền châu thổ sông Hồng.

Thư của Đức Giám mục Reydellet gởi cho các vị Giám đốc Chủng viện (Directeurs du Séminaừe) đề năm 1774 viết [72]:

“Sự khốn khổ trở nên trầm trọng ở khắp xứ, đầu tiên vụ hạn năm vừa qua làm mất cả cấy lúa, không có cá, không có gặt hái. Tiếp đến là những trận mưa dữ dội, nước lan tràn khắp đồng bằng, những nhà tranh vách đất và bằng tre nứa đe dọa làm sạt nghiệp người ta và những gia súc thì leo lên trên nơi cao, trên những loại róng bắt sàn. Chẳng bao lâu người cùng gia súc đều thiếu ăn, người ta không biết xê dịch gì hơn bằng tàu thuyền. Nạn lụt đầu tiên này đã kéo dài một tháng vừa mới bắt đầu sút giảm thì lại vụ lụt thứ hai xảy đến, đáng kể hơn, kinh khủng hơn, vụ lụt này kéo dài ba tháng...”

Theo giáo sĩ Le Breton trong vụ đói tháng 8, 9, 10 năm 1778, có làng chết đến quá nửa [73].

Tới cuối tháng 8 năm 1779, đê vỡ đã gây lụt lội nhiều vùng trong ba tỉnh trung châu Bắc Việt [74].

Trong một nhật ký [75] đề ngày 5-1785 đến 6-1786 cho biết: vào cuối năm 1785, có lụt lạ thường, lại hạn hán kéo dài, sâu bọ đã tàn phá nhiều nơi ngay cả gốc cây lúa mới cấy. Các nhu yếu phẩm tối cần thiết mỗi ngày một tăng giá. Cướp của đốt nhà hoành hành trên bộ cũng như ngoài biển, chính quyền không dám động tới chính những lý do trên đã gây ra nạn đói dữ tợn kéo dài gần ba tháng.

Dân chúng một khi chịu đói khổ triền miên như vậy, làm gì chẳng dễ nổi loạn.

Với tình trạng dễ gây bất mãn ấy, ta không lấy làm ngạc nhiên khi thấy quân đội Tây Sơn có nhiều dân Bắc Hà theo sau khi Nguyễn Huệ mới diệt được họ Trịnh. Trong một cơ đội của Vũ văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh cứ có một người lính gốc Nam Hà, trung bình lại có khoảng 30 hay 100 lính Bắc Hà [76]. Mặc dù theo các giáo sĩ nói rằng việc đi lính này có tính cách bắt buộc. Nhưng nếu xét đến tinh thần chiến đấu quân Tây Sơn lúc nào cũng dũng mãnh, ta phải công nhận có sự đồng tình, hưởng ứng của những người lính gốc Bắc Hà với Tây Sơn hay với Nguyễn Huệ.

Hồi phong trào Tây Sơn mới phát khởi, bản chất cách mạng thấy hiện rõ ở các hoạt động của quân đội Tây Sơn, mà dĩ nhiên Nguyễn Huệ là một trong những người đã đóng góp và thừa hưởng truyền thống cách mạng ấy. Quân Tây Sơn chia thành toán, mỗi toán chừng 300 đến 600 người. Mỗi toán lại có cờ đào (étandard de soie rouge), biểu hiệu cho cách mạng. Họ ngang nhiên xuống chợ ban ngày. Họ không gây thiệt hại đến ai, đến tính mạng, tài sản của ai. Trái lại họ muốn có bình đẳng cho nhân dân Nam Hà. Rồi họ vào các nhà giàu, nếu người ta biết tặng cho họ món gì, họ không gây sự thiệt hại. Nhưng nếu gặp sự chống đối, họ sẽ chiếm những vật quý giá để đem phân phát cho dân nghèo. Họ tuyên bố họ chiến đấu là vâng theo mệnh Trời... [77]

Một đoàn quân có những hành động táo bạo và theo một lý tưởng như vậy rõ ràng là một quân đội vì đại nghĩa, chống cường quyền, chống bất công. Chính là một quân đội cách mạng mà Nguyễn Huệ cùng anh em Tây Sơn người biết khai thác và lãnh đạo lực lượng cách mạng ấy.

Nguyễn Huệ với cuộc cách mạng về thủy quân.

Cuộc tương tranh giữa Trịnh Nguyễn kéo dài 45 năm (1627-72) với bảy lần đánh nhau bất phân thắng bại, đành phải giữ thế phân chia hai miền Nam Bắc kéo dài gần hai thế kỷ.

Hai bên đã không có bên nào thắng vì đã áp dụng chiến thuật, chiến lược cổ điển.

Cuộc cách mạng chiến lược chiến thuật của quân Tây Sơn cũng như của Nguyễn Huệ đã làm đảo lộn thế phân chia ấy. Cách mạng quân sự quan trọng nhất chính là sự sử dụng “Thủy quân chiến lược”.

Không phải quân Nguyễn hay Trịnh đã không có thủy quân. Theo Alexandre de Rhodes, lực lượng thủy quân chúa Nguyễn có khoảng 200 chiến thuyền (galère), lực lượng thủy quân chúa Trịnh gấp ba lần [78].

Nhưng thủy quân của họ không giữ vai trò tối quan trọng như thủy quân Tây Sơn.

Trong các cuộc đánh chiếm Gia Định, Phú Xuân cũng như Bắc Hà để diệt hai họ Nguyễn, Trịnh, Nguyễn Huệ luôn tiến đại quân bằng đường Thủy. Chính vì thế người ta không lấy làm lạ tại sao Nguyễn Huệ cũng mở “chiến dịch gió mùa”. Trong bốn lần đánh Gia Định, thì ba lần đầu Nguyễn Huệ tiến đánh vào mùa xuân, và lần cuối cùng vào mùa đông nghĩa là cũng vào mùa gió Đông bắc, thuận gió cho thủy quân. Và khi đánh Phú Xuân và Bắc Hà, Nguyễn Huệ tiến quân vào mùa hạ thuận gió Tây nam. Duy chiến dịch đánh quân Thanh, đại quân Nguyễn Huệ tiến bằng đường bộ, một phần chính vì lực lượng tương đối khá đông, không thể di chuyển bằng thủy quân, một phần vì ngược gió Đông bắc vì đây là mùa đông.

Nguyễn Huệ cũng như Tây Sơn chắc đã thấy rõ vai trò quyết định của Thủy quân đối với một chiến trường có bờ biển khá dài như bờ biển Việt Nam. Vào thời bấy giờ, đường thủy là phương tiện di chuyển và chuyên chở được nhiều nhất và mau lẹ nhất, rất thích hợp với lối đánh nhanh, đánh mạnh và bất ngờ. Dùng đường thủy lại có thể đánh tập kích sâu vào hậu tuyến địch một cách dễ dàng.

Nếu xưa kia, quân Trịnh dùng đường thủy là cốt yếu tiến đánh thắt vào thành Phú Xuân và hậu tuyến của đối phương thì quân Nguyễn thật khó lòng chống đỡ, và chiếm lũy Trờng Dục tất sẽ thành vô dụng mặc dù lực lượng phòng thủ tại Phú Xuân cũng khá hùng hậu, luôn túc trực từ 12 đến 15 ngàn quân và gần 300 chiến thuyền và hơn 400 voi trận [79].

Nguyễn Huệ đã gây dựng được thủy quân rất hùng mạnh. Gần mười năm sau khi Nguyễn Huệ mất, và dù thủy quân này đã bị tiêu hao đi nhiều [80] nhưng Chaigneau kẻ đã tham dự trận đại thắng [81], tiêu diệt hoàn toàn thủy quân Tây Sơn đã nhận định như sau:

“Trước khi thấy được thủy quân địch, tôi đã coi thường lực lượng này nhưng nay tôi đoan chắc với ông rằng đó là lầm lạc, quân Tây Sơn đã có những chiến hạm trang bị 50 và 60 đại bác”.

Barizy cũng thuật cho Letondal về lực lượng của hạm đội Tây Sơn do Vũ văn Dũng chỉ huy. Người ta thấy lực lượng này gồm có 673 chiến hạm đủ cỡ lớn nhỏ. Trong số đó, có những chiến hạm hạng nặng trang bị súng đại bác và có đoàn thủy thủ nhiều hơn cả những chiến hạm lớn nhất kiểu Tây phương mà quân Nguyễn có [82].

Lực lượng hạm đội Tây Sơn có tới 9 chiến hạm lớn (vaisseaux) trang bị 60 khẩu đại bác nặng 24 cân Anh (livres) [83] với thủy thủ đoàn 700 người, 5 chiến hạm lớn (vaisseaux) trang bị 50 đại bác 24 cân Anh nhưng số thủy thủ đoàn chỉ có 600 người và cũng loại chiến hạm lớn này còn có 40 chiếc trang bị 16 đại bác nặng 12 cân Anh và chỉ có 200 thủy thủ.

Về loạt chiến thuyền trung bình (galères) hạm đội của Vũ văn Dũng có tới 93 chiếc, mỗi chiếc chỉ trang bị một khẩu đại bác 36 cân Anh và 150 thủy thủ. Còn những chiến thuyền không có mang đại bác, hạm đội này cũng còn có 300 thuyền (chaloupes canonnières) và số 50 thủy thủ, 100 chiếc “lugger cochinchines” với 70 thủy thủ.

Ngoài ra Tây Sơn có rất nhiều những thuyền vận tải. Nguyên trận đánh Quy Nhơn kết thúc 16 tháng Giêng âm lịch, năm Cảnh Hưng 61, Tây Sơn đã mất tới 1.800 thuyền buồm [83].

Về kỹ thuật đóng tàu, người ta không rõ Nguyễn Huệ có dùng kỹ thuật đóng tàu Tây phương hay không? Người ta chỉ biết rằng Nguyễn Huệ từng bắt các thủy thủ trên tàu Tây phương sung vào đội ngũ để đi đánh trận, giáo sĩ Labartette có thuật với Descouvières trong bức thư ngày 1-8-1786: “Tây Sơn đã bắt giữ chiếc tàu từ Macao tới lấy tất cả những gì ở dưới tàu. Họ đã phá chiếc tàu để bắc cầu. Họ bắt viên thuyền trưởng theo người ta nói rất hiền lành cùng ba sĩ quan trên chiếc tàu. Họ đã giết tức thì những người này và các thủy thủ được đem phân tán trên các chiến thuyền của Bạo Chúa để đi đánh nhau” [84].

Trong bức thư đề năm 1787 (không rõ ngày), giáo sĩ Longer viết cho Blandin rõ hơn:

“Tôi quên nói với ông rằng quân (TS) đã dìm chết một người thuyền trưởng Bồ Đào Nha và anh (em) ông này sau khi đã trói ‘gô’ những người này đâu lưng vào với nhau. Họ cũng giết hai người khác trong thủy thủ đoàn, cùng đốt tàu đang đậu ở bến và buộc các thủy thủ còn lại sung vào lính của họ” [85].

Trong khi ấy, Nguyễn Ánh ở Gia Định đã dùng tàu Tây phương trang bị cho thủy quân của ông và đồng thời chính Nguyễn Ánh đã cho đóng tàu theo kiểu Tây phương. Nguyễn Ánh đã mua một chiếc tàu Tây phương cũ rồi đem tháo ra từng mảnh để thí nghiệm ráp lại giống như kiểu cũ và đẹp hơn trước. Sau thành công đó Nguyễn Ánh đã cho đóng thêm chiếc khác. Những chiếc hạm này trang bị từ 26 đến 36 đại bác và khoảng hơn 300 thủy thủ cho mỗi chiếc [86].

Nguyễn Ánh đã chú tâm rất nhiều đến việc phát triển thủy quân. Vì hơn ai hết, ông là người đã hiểu rõ vai trò chiến lược của thủy quân qua kinh nghiệm thất bại liên miên đối với quân Tây Sơn. Lực lượng thủy quân của Nguyễn Ánh sau trở thành rất hùng hậu [87], đã giúp ông mở những chiến dịch gió mùa mà trước đây quân Tây Sơn đã từng làm và cuối cùng ông đã tiêu diệt được nhà Tây Sơn.

Người ta cũng biết thêm Nguyễn Huệ không những có những chính sách cải cách táo bạo mà ông thật là người có tính thần “khai phóng”. Chính Nguyễn Huệ đã từng gửi sứ giả sang Ma Cao để thương lượng người Tây phương đến buôn bán [88] và Nguyễn Huệ đã dành nhiều dễ dãi cho các giáo sĩ Tây phương. Do đấy người ta có thể tin rằng Nguyễn Huệ không thể nào không để ý đến kỹ thuật đóng tàu của Tây phương, vốn đã nhiều tiến bộ vào thời bây giờ. Dù sao với lực lượng thủy quân hùng hậu đáng sợ như trên, kỹ thuật đóng cũng như sự thiết lập thủy quân Tây Sơn quả là một cuộc cách mạng quân sự lớn lao vào thời đó.

Trong lực lượng thủy quân của Nguyễn Huệ có những loại chiến thuyền nào?

Trong Thực Lục, người ta thấy có nhắc tới các loại thuyền chiến lớn (đại hiệu), thuyền đi biển, thuyền sai [89].

Còn các giáo sĩ đã phân chia các loại: vaisseaux, galères - Chaloupes canonnières, Lugger Cochinchines.

Phải chăng vào thời Nguyễn Huệ mới có loại chiến thuyền khổng lồ (vaisseau) trang bị tới 60 khẩu đại bác, chở tới 700 thủy thủ?

Những chiến thuyền (galère) của chúa Nguyễn vào cuối thế kỷ 17 theo Vachet có chiều dài, chiều cao như chiến thuyền Tây phương thời bây giờ nhưng không được rộng bằng. Nhưng cách kiến trúc có khác. Mỗi chiến thuyền có chừng 60 mái chèo mỗi bên 30 mái. Mỗi chiến thuyền trang bị hơn ba khẩu đại bác ở mũi chiến tàu và hai khẩu nhỏ hơn ở hai bên cạnh. [90]

Theo Tập du ký của P. Poivre cho biết ông đã thấy các chiến thuyền của Chúa Nguyễn trong những xưởng đóng tàu dọc theo sông Hương, Chúa Nguyễn có khoảng 400 chiến thuyền đủ cỡ, và chiến thuyền lớn nhất có chiều dài từ 90 đến 100 bộ (pieds) và 7 hay 8 bộ về chiều cao.

Ông còn kể thêm những chiến thuyền chỉ cao trên mực nước khoảng 2 bộ rưỡi, số người chèo thuyền có thể có từ 40 đến 60 người - Và về phía trước chiến thuyền có buồng nhỏ (cabinet) có chiều cao hay bề rộng chừng 7-8 bộ, có 4 cửa (thuộc loại cửa lùa). Loại tàu này chạy rất tốt và chịu đựng với gió, và có trọng tải từ 100 đến 150 tấn [91].

Những loại chiến thuyền có trước thời Tây Sơn không bao lâu, đã được các giáo sĩ tả lại rất rõ. Thời Tây Sơn, sự trang bị súng ống cũng như sức chuyên chở lớn lao của các chiến thuyền Tây Sơn đã làm ngạc nhiên các giáo sĩ. Điều này chứng minh kỹ thuật đóng chiến thuyền thời Tây Sơn có sự cải tiến lớn lao, nếu không nói là phi thường.

Như thế, vai trò quan trọng về chiến lược của thủy quân cùng sự trang bị ghê gớm của thủy quân thời Nguyễn Huệ đã tạo ra một cuộc cách mạng về thủy quân nước ta vậy.

Nguyễn Huệ với chiến tranh tâm lý

Nguyễn Huệ cũng như quân Tây Sơn rất chú trọng đến mặt trận “chiến tranh tâm lý”, luôn quan tâm đến việc tuyên truyền để nâng cao thanh thế.

Tây Sơn đã tung ra hàng ngàn chuyện, bịa đặt những điềm mộng, điềm trời để chứng minh sứ mạng của họ [92].

Đến khi Nguyễn Huệ ra đánh họ Trịnh, quân của Huệ đã viết lên cờ bốn chữ: “DIỆT TRỊNH PHÙ LÊ”.

Nguyễn Huệ cũng đã áp dụng những đòn tâm lý lâm trận như để binh sĩ la hét làm mất tinh thần địch. Trong trận Bích Kê, quân Tây Sơn đã la hét ầm vang đến nỗi hơn 40 voi trận quân Nguyễn nghe cũng phải sợ bỏ chạy, đạp lên quân lính Nguyễn, khiến quân Tây Sơn đại thắng.

Đến khi đánh quân Thanh ở Hà Nội, nửa đêm mùng ba tháng Giêng, quân Nguyễn Huệ bí mật vây kín Hà Nội, đừng ống loa truyền lịnh, quân sĩ dạ lên nghe như gần mấy muôn binh. Trong đồn run sợ, không đánh mà tự vỡ tan [93]. Chính Nguyễn Huệ khi ra trận luôn luôn hô xung phong [94]. Đó chính là những kỹ thuật khai thác về Tâm lý để giữ vững và làm tăng tinh thần quân sĩ và làm nhụt tính thần địch quân.

Trước khi hành động, Nguyễn Huệ luôn sửa soạn tinh thần bằng những hình thức tác động tinh thần quân dân. Như hồi ở Nghệ An kén lính mới, trước khi kéo quân ra Bắc phá quân Thanh, Nguyễn Huệ đã tự ra trước dinh, truyền lịnh quân

sĩ hết thảy ngồi xuống rồi đứng nói để khích động lòng ái quốc của quân sĩ:

“Người Tàu không phải nòi giống nước ta, bụng họ ắt là khác hẳn. Từ đời nhà Hán đến nay họ đã mấy phen chiếm cướp đất cát, giết hại nhân dân, vơ vét của cải của ta. Người nước ta không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi. Trong đời Hán có Trưng Nữ Vương, trong đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, trong đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, trong đời Minh có đức Thái Tổ Hoàng đế nhà Lê, các ngài không nỡ ngồi mà nhìn chúng làm tàn bạo phải theo lòng người mà dấy quân nghĩa, chỉ đánh một trận, liền thắng được chúng về Tầu” [93].

Trước khi Nguyễn Huệ định cử đại binh vào đánh Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đã gửi tờ hịch [94] cho quân dân hai trấn Quảng Ngãi và Quy Nhơn, là dân đã đóng góp việc tạo dựng nhà Tây Sơn đang bị giao động mạnh vì những cuộc tấn công mới của Nguyễn Ánh. Những lời lẽ khích động quần chúng vừa khơi đầy lòng tự ái dân hai trấn vừa tỏ chí cương quyết của nhà vua thật có tác dụng tác động tinh thần mạnh mẽ.

Nội dung bài chiếu [95] lên ngôi của Nguyễn Huệ cũng thật có giá trị sâu sắc về phương diện chiến tranh tâm lý. Để làm yên lòng dân về vấn đề chính thống, bài chiếu đã trình bày trước hết về cái lẽ thay ngôi đổi họ từ Đinh, Lê, Lý, Trần mà vận kỳ suy phế, hưng thịnh, dài ngắn thật đã do trời ban cho. Bài chiếu cũng lược qua về tình trạng nhà Lê mất quyền bính, họ Trịnh và Nguyễn tương tranh, nhân dân rơi vào vòng đồ thán rồi đến công việc gây dựng lại cơ đồ nhà Lê mà vua Lê Chiêu Thống không biết giữ nước.

Để lấy lòng dân, bài chiếu đã công bố những biện pháp rất khoan dung như tha thuế hoàn toàn, xá tội nhân, tôn trọng tục lệ địa phương, khoan hồng dễ dãi cho quan quân nhà Lê.

Những chiến tích vẻ vang cũng như tài tổ chức quân sự, lối hành binh độc đáo và sự cách mạng về chiến thuật chiến lược đã chứng tỏ thiên tài quân sự hay tài dùng binh của Nguyễn Huệ, khiến Nguyễn Huệ trở thành một con người đáng sợ cho mọi đối thủ của ông, dù nội thù hay ngoại thù và đã được sự khâm phục của mọi người. Sự nghiệp của Nguyễn Huệ có thể còn tiến xa hơn nữa, phi thường hơn nữa, nhưng người anh hùng này đã “đoản mệnh”. Cái chết của Nguyễn Huệ đã ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đối với tình hình Việt Nam lúc bấy giờ. Giáo sĩ Lelabousse nhận định rằng: “Tin Nguyễn Huệ chết này đối với Nguyễn Ánh có giá trị hơn chiến thắng mà Nguyễn Ánh vừa mới gặt hái được bởi người em thứ này là một đối thủ mạnh, mưu lược và rất đáng sợ. Ông đã chết vào đầ