← Quay lại trang sách

Một giai thoại giữa vua Quang Trung và một số nhà nho xứ Bắc-Phạm văn Sơn

Quân Nam Hà đã ào ạt kéo vào Thủ đô Thăng Long như gió bão sau khi những lực lượng cuối cùng của Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ đã tan rã hết ở bến Nam Dư và Tây Luông cùng quanh bốn cửa ô của đế thành. Hỏa hổ của quân Tây Sơn bắn ra ầm ầm cùng một loạt với những ống đựng thuốc súng ném ra như mưa khiến nhiều phố phường bị chìm trong khói lửa. Trong các lâu đài, cung điện về phía Tây bắc, có Văn miếu thờ Khổng Tử và là Quốc Tử Giám cũng bị đốt cháy và tàn phá. Không người dân xứ Bắc nào đi qua nơi này mà không bùi ngùi và không oán hạn chiến tranh, nhất là các nho sĩ. Vì sao? Vì nơi này là chỗ thờ vị “Vạn thế sư biểu” và các tiền hiền, nơi này là nơi kỷ niệm, tôn sùng sự truyền bá đạo học nhân nghĩa Đông phương, nơi này còn là chỗ dựng bảng vàng bia đá để nghìn năm đất nước nhớ đến nhân tài của các thế hệ đại diện cho tầng lớp lãnh đạo dân tộc.

Tại Trung Quốc Văn miếu có từ đời Hán Cao Tổ (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên). Ông vua này sau khi diệt Tần hạ Sở, gồm thâu được sáu nước, thống nhất được Trung nguyên đã công nhận rằng ngồi trên lưng ngựa lấy được thiên hạ nhưng không thể cũng ngồi trên lưng ngựa mà chinh phục được nhân tâm. Có lẽ vì quan niệm này mà đẳng cấp nho sĩ đã được đề cao và duy trì để đóng vai trò hướng dẫn nhân dân, xây dựng nền bình trị, mở mang phong hóa do đó từ đời Hán người ta sùng thượng Khổng thánh và chư hiền.

Ở Việt Nam, chúng ta học hỏi người Tàu từ hai chục thế kỷ cũng kính mến đạo Nho nên trong khi lập quốc kiến quốc đã dựa vào đạo Nho và lấy đạo Nho làm căn bản cho nền văn hóa dân tộc.

Đời Lý là một triều đại thịnh trị đã lập Văn miếu vào năm 1070 tức năm Thần Vũ thứ hai (dưới Lý Thánh Tông) nhưng có điều khác với Trung Quốc, Triều Tiên v.v... Ở chỗ ngoài việc Văn miếu là nơi vua quan đến tế lễ Khổng Tử và các môn đồ của Ngài, Văn miếu còn là nhà Quốc học cho các con vua, con quan và các thanh niên tài tuấn trong dân chúng. Thêm vào đó Văn miếu còn là chỗ in sách và là kho mộc bản (bản khắc chữ trên gỗ để in sách) để phổ biến văn hóa ra toàn quốc.

Ai đi qua Giám (Hà Nội ngày xưa) đều thấy miếu thờ Khổng Tử trước đây không khác gì các ngôi đình lớn nằm ngang, đối diện có cái sân rất rộng và hai bên tả hữu có hai dãy nhà chạy dọc nhiều gian. Cửa Đại Thành có ba gian hai chái, lợp bằng ngói ống, cửa Thái học ba gian có tường ngang cũng lợp ngói ống. Ở hai bên phía Đông, phía Tây có 2 dãy nhà bia mỗi bên 12 gian, kho chứa mộc bản gồm 4 gian. Tất cả chiếm một khu vực khá rộng từ đầu đường Sinh Từ sang tới giáp đường Sơn Tây.

Khi vào Văn miếu, người ta tiến qua cửa Đại Trung đến gác Khuê Văn và nhìn vào bên trong thì thấy phía hai bên giếng Thiên Quang mỗi bên có hai lớp bia gồm 82 tấm.

Bia bằng đá hình chữ nhật, chiều cao dài hơn chiều ngang dựng trên bệ đá hình con rùa cổ nghển cao, bốn chân lấy gân bò tượng trưng một trách nhiệm nặng nề, một sức chịu đựng bền bỉ.

Bản thân bia, trên đầu có chạm trổ rồng phượng vân ám, nhật quang, mặt trăng, hình bảo ngọc và chạy dọc theo thân bia là hoa lá lẫn thân rồng quấn thừng v.v...

Ở mặt bia có nhiều hàng chữ khối vuông nói về tổ chức giáo dục, thi cử, mục đích việc dựng bia và tên tuổi, quán chỉ của các vị đậu Tiến sĩ. Mỗi bài văn bia còn ghi cả tên người soạn, người nhuận sắc, người khắc, người viết, người vẽ triện và ghi niên hiệu khoa thi và năm dựng bia. Cái bia thứ nhất ra đời vào năm Nhâm Tuất (1442) tức năm Đại Bảo thứ ba. Cho đến đời vua Lê Chiêu Thống là khoa cuối cùng của triều Lê (1787) có tất cả 124 khoa thi Đình. Nếu chỉ kể khoa thi Tiến sĩ (không kể các khoa Đông các và Chế khoa) thì phải có số bia là 96 khoa của triều Lê và 21 khoa của triều Mạc, cộng tất cả là 117 cái bia. [1]

Xét ra sau ngót tám thế kỷ, Văn miếu thờ Khổng Tử với những tấm bia tiến sĩ đề danh im lìm dưới những dãy cây cổ thụ xanh um cao ngất là một di tích vô cùng quý giá, là một thắng cảnh trong những thắng cảnh của Thăng Long, là một cái gì thiêng liêng đặc biệt bởi nó tượng trưng cuộc sống tinh thần và nền văn hóa Việt Nam. Vậy người ta không làm sao không tiếc được khi thấy nó xơ xác tiêu điều hay bị đốt phá tan tành sau thời chinh chiến, chẳng vậy Nguyễn Du trước cánh biển dâu thay đổi đã than:

Thiên niên cựu thất thành quan đạo,

Nhất phiến tân thành một cố cung.

Điều ta biết chắc là tới khi Tây Sơn ra đánh chiếm Bắc Hà nói chung, thành Thăng Long nói riêng thì Văn miếu ở nơi cựu đô cũng đã bị hủy hoại nhiều rồi. Nhưng mỗi khi cuộc binh đao chấm dứt thì các triều đình Việt Nam ta lại lo sửa chữa lại, có lẽ không ngoài ý niệm miếu Khổng còn thì đạo Khổng còn, đạo Khổng còn thì còn sĩ phong, sĩ khí, điều này liên hệ rất nhiều đến vận mệnh và tương lai của quốc gia.

Nay lại một phen nữa miếu Khổng và bia tiến sĩ bị ngửa nghiêng trong tro bụi, thà với bọn xâm lược ngoại bang có lẽ không đáng giận. Nhân sĩ Bắc Hà hẳn nghĩ rằng việc đốt phá này đã do quân đội Nam Hà ít ngày trước bởi Trịnh Khải sau khi bại trận trốn ra ngoài thành Thăng Long dầu có giận một số khoa mục theo quyền lực mới cũng không còn đầu óc nào mà cho người về phá hủy Văn miếu và bia tiến sĩ. Tóm lại, trước sau họ nghĩ chỉ người Nam Hà mới đang tâm hành động như vậy, nhất là từ đời các Chúa Nguyễn, Nam Hà đã tự xưng mình là một nước, một nước riêng biệt như cả về chủng tộc (chứng cớ là Thái Đức anh Nguyễn Huệ ra Bắc qua cuộc đàm thoại với vua Lê Chiêu Thống, đã tuyên bố: “Hai nước chúng tôi sẽ đời đời giao hiếu, hòa mục với nhau, thế là phục...” [2] Rồi thân sĩ Bắc Hà nhờ Tam Nông tiên sinh làm giúp một bài sớ đội tên nông dân trại Văn chương đòi vua Quang Trung dựng lại bia tiến sĩ, sửa lại Văn miếu. [3]

Xin nhắc rằng Tam Nông tiên sinh tên là Hà Năng Ngôn bây giờ là quân sư bí mật của nhà vua. Ông sinh tại thôn Vân Đài, huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay. (Xưa kia thuộc Sơn Nam, sau thuộc về tỉnh Hưng Yên).

Nguyên văn bài sớ:

Chúng tôi một lũ dân cấy hái,

Trái mùa sinh vào trại Văn chương.

Trong khi cày ruộng, cuốc nương,

Vành ngoài trông vọng cung tường miếu văn.

Có một thá băn khoăn trong dạ,

Mượn thầy nho phô tả ra tờ.

Dám mong lọt cửa quân cơ,

Gió Nam đưa tới dưới cờ ngài Quang Trung.

Bia tiến sĩ dựng trong Văn miếu,

Khởi từ năm Đại Bảo thứ ba (1442).

Xí vào Nhâm Tuất hội khoa,

Thái Tông ngự trị thuộc nhà Hậu Lê.

Rồi từ đó lệ về Quốc giám,

Trải ba trăm ba mươi tám năm ròng.

Đến năm thứ bốn mươi hiệu Cảnh Hưng [4]

Là khoa Kỷ Hợi cuối cùng hết bia.

Tính gồm lại số bia trong Giám,

Cả trước sau là tám mươi ba.

Dựng theo thứ tự từng khoa,

Bia kia sáu thước cách xa bia này,

Nhà bia đủ đông tây mười nóc,

Vuông bốn bề ngang dọc bằng nhau.

Mỗi bề hai chục thước tàu.

Cột cao mười thước, có lầu chồng diêm.

Coi thể thế tôn nghiêm có một,

Cửa ra vào then chốt quan phòng.

Bốn quan nhất phẩm giám phong,

Ba cơ, bảy vệ canh trong quét ngoài.

Bia mới dựng đầy hay nóc trước,

Tám nóc sau còn gác lưu không.

Năm năm chờ đợi bảng rồng,

Các quan bộ Lễ bộ Công chiếu hành.

Kề cửa Khổng, sân Trình gang tấc,

Đào tạo nền nhiều bậc anh tài,

Một nền văn hiến lâu dài,

Tiếc thay chưa được đón Ngài ngự thăm!

Bốn năm trước, giữa năm Bính Ngọ (1786),

Ngài đem quân ra thú Bắc Hà.

Oai trời sầm sét thoảng qua,

Cơ đồ họ Trịnh bỗng ra tro tàn,

Bia tiến sĩ, vô can, vô tội.

Mà vạ lây vì lỗi cháy thành:

Bia thì đạp đổ tung hoành,

Nhà bia thì đất tan tành ra tro.

Tội ác ấy là do Trịnh Khải,

Lúc sa cơ hắn phải trốn ra.

Cho vời các bậc đại khoa,

Trước sau chẳng thấy ai qua theo mình.

Sau có một nghè Canh ứng tiếp. [5]

Lại đưa nhầm vào mép hổ mang.

Đến khi việc đã nhỡ nhàng,

Giận người khoa giáp lại càng tím gan.

Nhân có cháu là Lan trốn lủi,

Khải trao cho một túi vàng kho.

Dặn về thuê kẻ côn đồ,

Phá bia tiến sĩ để cho bõ hờn.

Trịnh Lan cũng đang cơn giận bực,

Trốn được về, tức tốc làm ngay,

Dân nghèo mộ được nhiều tay,

Mấy trăm lính cũ cùng thầy tớ thân,

Cho tiền bạc, cho ăn, cho uống,

Cho cuốc, vồ, mai, thuổng, búa, dao.

Thừa cơ binh lửa ồn ào,

Phá bia, đốt Giám, lửa cao lưng trời.

Có kẻ nói:

Những lời trước là lời bịa tạc,

Nào có ai đích xác mắt tai,

Hay chăng quân lính nhà ngài,

Trong khi xung sát, ra oai thị hùng.

Bia chí sĩ bỗng không mà hóa đổ,

Chẳng qua vì khí số xui nên,

Xét soi nhờ ở lượng trên,

Phá đi rồi lại dựng đền nay mai.

Chúng tôi chiếu lại hai lời,

Sự thực hư chưa thấy rạch ròi.

Song le, việc đã qua rồi,

Chẳng chỉ bới móc, tìm tòi uổng công.

Chỉ xin được Ngài trông vì nước,

Dựng lại bia, cùng nhà bia cho được y nguyên.

Trước là giáo dục kẻ hiền,

Sau là văn mạch rõi truyền dài lâu.

Nấn ná nữa, mưa dầu, nắng dãi,

Dùng dằng rồi, ngày lại tháng qua.

Cát vùi, rêu phủ chữ nhòa.

Tay sờ không thấy, lệ sa bằng thừa.

Muốn tìm lại dấu xưa, vết cũ,

Ai là người khảo cổ cho hay?

Vậy nên mong ở ngày nay,

Một giờ nào sớm, càng hay một giờ.

Chúng tôi kíp chờ chiếu ngọc,

Mong Ngài trông vào nhà Quốc học ngay cho.

Chúng tôi mừng vận làng nho,

Mừng hơn cày cấy mà trời cho được mùa.

Chúng tôi chúc nhà vua muôn tuổi,

Vì nước nhà mà hội hà thanh

Còn bia tiến sĩ đề danh,

Vẫn còn bàn thạch triều đình non tây.

Dưới bài sớ này có lời phê như sau của Nguyễn Huệ:

Ta không trách nông phu,

Ta chỉ gớm thầy Nho,

Cả gan lớn mật dám kêu vua bằng Ngài.

Thầy Nho là ai?

Sắc cho Bộ hỏi, dân khai...

Thôi, thôi, thôi, việc đã rồi,

Trăm nghìn hãy cứ trách bồi vào ta.

Nay mai dọn lại nước nhà,

Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.

Cơ đồ họ Trịnh đã tan,

Việc này cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải.

Sau khi đọc bài sớ kể trên chúng tôi có một vài nhận định như sau: Việc dâng sớ lên vua Quang Trung để “bắt đền” nhà vua đã để binh đội Tây Sơn tàn phá Văn miếu trong dịp tiến đánh vào thành Thăng Long đã được nghiên cứu rất kỹ trên mọi khía cạnh tâm lý: Thân sĩ Bắc Hà biết Nguyễn Huệ chịu nghe lời phải trái, lẽ trọng khinh. Họ lại hiểu rằng nhà vua tuy xuất thân nơi bình dân, học ít nhưng rất thông minh lỗi lạc nên mới dám đưa ra chuyện “bắt đền” hay trêu chọc này. Quả vậy theo Vũ trung tùy bút trích dẫn trong Minh đô sử (sách 22, tờ 8, dòng 6) của Phạm Đình Hổ, Nguyễn Huệ đã có lời văn dụ các hương cống, sinh đồ triều Lê [6] rất là ân cần thì việc nêu ra vấn đề dựng lại bia Nghè, trùng tu Khổng miếu để rồi truyền văn mạch, giáo dục kẻ hiền là điều rất hợp lý đối với con người ấy.

Đây là một thái độ đúng đắn và xây dựng nhất là lại do nông dân đề cập tới, Nguyễn Huệ lại càng phải lưu ý tới tuy biết rằng kẻ bày trò bắt đền này có phải đâu là nông dân. Thân sĩ Bắc Hà đội lốt nông dân để “chẹt” ông vua, ông tướng từng vỗ ngực tuyên bố là con người cơm rau áo vải đó mà thôi. Sự việc lại hiển nhiên do mục đích tôn sùng văn hóa, bảo vệ nho phong là điều rất thích đáng thì Nguyễn Huệ từ chối làm sao được!

Nhưng có nên nói rằng thân sĩ Bắc Hà đã chơi “sược” với Nguyễn Huệ khi họ khoác lốt nông dân để dâng sớ. Họ thừa rõ trước là Nguyễn Huệ sẽ biết hơn ai hết và biết ngay tức khắc tác giả bài sớ không là nông dân mà là đám nho giả rồi có thể Nguyễn Huệ sẽ nghĩ: bọn nho giả miền Bắc không thèm nói chuyện với ta hay sao mà lại bày ra cái điệu nông dân trại Văn chương? (trại Văn chương sau này đổi ra là làng Văn chương ở ngay phố Sinh Từ thành Hà Nội ngày nay). Đã vậy đám nông dân ấy lại không tâu Ngài bằng Hoàng đế, do đó Nguyễn Huệ phê luôn:

Ta không trách nông phu,

Ta chỉ gớm thầy Nho,

Cả gan, to mật dám kêu vua bằng “Ngài”

Thầy Nho là ai?

Sắc cho Bộ hỏi, dân khai...

Rút cục Nguyễn Huệ vẫn chẳng chém giết cái bọn nông dân trá hình mà còn chịu luôn cả lời yêu sách cùng buộc tội của họ mà phán quyết rằng:

Nay mai dọn lại nước nhày

Bia nghè dựng lại trên tòa muôn gian.

Phái chi với một ông vua khác ưa hách xằng nịnh bậy sẽ có kẻ gièm pha thì đám thân sĩ Bắc Hà đã tha hồ mà rụng đầu đứt cổ. Được con người biết điều phải chăng, biết trọng hiền kính sĩ như vua Quang Trung đến ngày nay cũng vẫn chẳng có nhiều lắm đâu, thưa các bạn.

Về kỹ thuật của bài sớ, ta thấy trước khi buộc chết cho binh đội Tây Sơn đã tàn phá miếu, đình trong thành Thăng Long, tác giả đã dùng lối ỡm ờ (là con người rất tế nhị mới hiểu được điểm này) nên đưa ra một nghi vấn nói rằng có kẻ nói có lẽ thủ phạm việc này là Trịnh Khải khi sa cơ thất thế bị các nho thần bỏ rơi nên cho người nhà là Trịnh Lan mướn côn đồ đến phá bia và văn miếu. Nhưng liền đó, tác giả phủ nhận ngay giá trị của nghi vấn này:

Nhưng lời ấy là lời bịa tạc,

Nào có ai đích xác mắt tai...

rồi ấn định một cách trắng trợn:

Hay chăng quân lính nhà Ngài,

Trong khi xung sát ra oai thị hùng?

cũng như ở đoạn trên tác giả đã đề cập tới:

Bốn năm trước, giữa năm Bính Ngọ (1786)

Ngài đem quân ra thú Bắc Hà,

Oai trời sấm sét thoảng qua.

Cơ đồ họ Trịnh bỗng ra tro tàn

Bia tiến sĩ, vô can, vô tội,

Mà vạ lây vì nỗi cháy thành.

Bia thì đạp đổ tung hoành,

Nhà bia thì đốt tan tành ra tro. [7]

Sau khi viện ra các nguyên nhân vật chất, các nghi vấn mà trước sau vẫn cứ đổ lỗi cho quân Tây Sơn, tác giả đề nghị xóa bỏ luôn viết chứng minh mà nêu ra điều nhân nghĩa nói rằng dầu do Trịnh Khải hay Tây Sơn gây ra thì bia cũng đã đổ, văn miếu đã bị cháy ra tro, giờ đây chỉ nên vì mục đích giáo dục kẻ hiền, rồi truyền văn mạch và bảo tồn cổ tích là việc rất cần và rất quan trọng mà dựng lại bia cho xong:

Song le: việc đã qua rồi,

Chẳng chi bới móc, tìm tòi uổng công...

Trước kỹ thuật sắc bén của tác giả, ta không khỏi nghĩ đến một vài lề lối bài binh bố trận: rút một bước để tiến ba bước, rút để tấn công và lấy nhân nghĩa để khai thác lòng ham nhân nghĩa của địch: Thật là khôn ngoan, khéo léo vô cùng.

Bài sớ này trích ra trong Tam Nông truyện biểu và đã được Nguyễn Du tiên sinh phê:

Chắp tay tôi lạy bá Tam Nông,

Cuốc trăm nhát dật vào lòng cả trăm.

Đó cũng là lời tán thưởng thủ đoạn của kẻ làm bài sớ cho “nông dân trại Văn chương”, ngoài ra ở bài sớ này ta thấy văn Nôm đời Lê mạt đã có những lời đơn giản, sáng sủa nhiều câu rất điêu luyện chải chuốt đem lại cho bạn đọc chúng ta nhiều khoái trá. [8]

Văn Hóa Nguyệt San, Tập XIII, Quyển 7

Tháng 7 - 1964. Trang 741-749

Chú thích:

[1] Hiện giờ ở Văn miếu Hà Nội người ta thấy mất đi 42 tấm không rõ nằm ở đâu và sự thất lạc này có lẽ do việc binh biến qua nhiều thế hệ.

[2] Xin coi Quang Trung Nguyễn Huệ, anh hùng dân tộc của Hoa Bằng do xuất bản Bốn Phương phái hành. - Trang 95

[3] Theo ý chúng tôi, không phải là những người có sáng kiến trêu chọc vua Quang Trung không làm được bài sớ nhưng họ nhờ Tam Nông tiên sinh làm để Tam Nông tiên sinh gánh luôn trách nhiêm đối phó với Nguyễn Huệ nếu nhà vua có phản ứng mạnh

[4] Năm 40 hiệu Cảnh Hưng tức là đời vua Hiển Tông (1779)

[5] Nghè Canh đây là Lý Trần Quán.

[6] Trong Vũ Trung tùy bút, nói về lòng sốt sắng đối với nhân tài và văn hóa, Phạm Đình Hổ có ghi bằng những câu dưới đây:

Vấn khăn đỏ lấy ngồi ngai,

Ngó thử đáng ngôi hoàng cực (ngôi vua)

Vắt áo thâm đi như trẻ

Còn mong các chú cống sinh...

[7] Xem đoạn này ta biết bài sớ kể trên được dâng lên vua Quang Trung vào năm 1790, tức là bốn năm sau cuộc Bắc tiến năm Bính Ngọ (1786)

[8] Bài sớ trên đây do ông Đào văn Bình sao lục trong Tam Nông truyện biểu đưa qua Thúc Ngọc Trần văn Giáp tiên sinh để nghiên cứu, đính chính và bình luận nên họ Đào không chịu trách nhiệm về phổ biến. Chúng tôi nghĩ rằng việc phổ biến sử liệu lại là điều rất cần để hiệu đính hay cùng nghiên cứu cho có phần rộng rãi hơn. Phần nhận định trong bài này không giống bản phân tích và nghị luận của Trần quân và chúng tôi chỉ dựa vào tài liệu để đưa ra những ý kiến riêng. Và cũng do Trần quân thấy phổ biến sử liệu kể trên là hợp lý nên chúng tôi và Trần quân mới có cuộc gặp gỡ bài này, thật là may mắn vô cùng cho nền sử học nước nhà đang thiếu sót nhiều về mặt biên khảo.