← Quay lại trang sách

Chính sách ngoại giao của Quang Trung hoàng đế-- Lê văn Ba

Mùa Xuân Kỷ Dậu 1789!

Mùa Xuân Kỷ Tỵ 1989!

Hai trăm năm xưa đã lâu rồi, nhưng hôm nay nhắc lại lòng người Việt nào lại chẳng thấy rộn lên một nỗi niềm hứng khởi từ những ngày xuân chiến thắng chói lọi vinh quang ấy.

Quang Trung đại đế đã cấp thảo một nét đậm vàng son trong lịch sử chiến tranh thế nhân. Chỉ trong vòng ba ngày ngắn ngủi - từ mồng 3 đến mồng 5 tháng Giêng. Người đã đánh tan một binh đoàn 20 vạn quân tinh nhuệ bậc nhất của thế giới và quét sạch cũng chừng ấy đoàn dân binh của đạo quân xâm lược Thanh triều.

Tưởng cho đến ngày hôm nay, thế kỷ 20, với vũ khí tối tân, với chiến lược phối hợp không, thủy, lục quân cũng chưa có trận nào ghi được chiến công thần tốc như vậy.

Chúng ta đang tự hào và sung sướng tắm ngợp trong ánh sáng vinh quang của tổ tiên thủa nào vẫn còn chiếu rọi đến hôm nay và ngày mai nữa.

Tuy nhiên chúng tôi không muốn viết, không muốn kể về các trận đánh sắt máu oai hùng nhưng cũng đầy đau thương cho loài người mà chúng tôi lại muốn nhắc đến cái tài ngoại giao của Quang Trung hoàng đế.

Nhà vua mến thương và cao cả của chúng ta chẳng những là người có tài quân sự, giỏi nội trị, vững kinh tế... mà còn rất khéo ngoại giao để đưa nước Đại Việt nhỏ bé lên một tầm mức quan trọng hơn các tiểu quốc ở Á châu lúc bấy giờ.

Dưới đây chúng tôi xin lần lượt đề cập đến các vấn đề:

1.- Sự giao hòa sau chiến tranh Kỷ Dậu

2.- Ép Thanh sứ vào Thuận Hóa phong Vương

3.- Giả vương triều kiến vua Kiền Long

4.- Yêu sách đặc sản, đặc vật của Thanh triều

5.- Phá lệ cống người vàng từ đời Lê

6.- Đòi đất miền biên giới

7.- Cầu hôn công chúa và xin đất lập kinh đô

1.- Sự giao hòa sau chiến trận Kỷ Dậu

Ngay từ ngày mới ra quân đuổi giặc, việc chiến thắng đã nắm chắc trong tầm tay, nhà vua cũng đã nghĩ đến sự yên ổn cho dân, và tìm cách dập tắt ngọn lửa chiến chinh.

Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788) vua Quang Trung đến núi Tam Điệp, được bầy tôi Ngô văn Sở, Phan văn Lân, Ngô Thì Nhậm nghênh đón và chịu tội. Sau khi quở trách và phủ dụ đôi điều, ngài đã tâm sự: “Nay ta ra tới đây, thân đốc việc binh, chiến thủ ra sao đã có phương lược định sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch được giặc Thanh. Song le, ta nghĩ: Nước Thanh lớn hơn gấp nước ta mười lần, Thanh thua rồi, tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài, mãi không yên ổn, thật không phải là phúc nhân dân, lòng ta sao nỡ? Nên chi, sau khi chiến thắng ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh. Việc ấy ta sẽ giao cho Ngô Thời Nhậm”.

Vua lại sai Trần Danh Bính cầm đầu tám sứ thần, đưa đến cho Tôn Sĩ Nghị ba đạo biểu văn, một đạo của Lê Duy Cận, một đạo của quần thần và một đạo của nhân dân, nói rõ sự tình phải lên thay nhà Lê. Thêm vào, vua lại thả, trả cho Thanh những đạo tuần dương binh do Hác Thiện Tông cầm đầu bị tướng Tây Sơn bắt được từ trước.

Đành rằng mặt khác việc cung thuận hòa bình này cũng là một chiến thuật đánh lừa quân địch kiêu ngạo khinh xuất quân ta để dễ dàng chiến thắng về sau, nhưng bản ý cũng là cuộc vận động hòa bình trước khi lưỡi gươm rút ra khỏi vỏ.

Rồi như lịch sử đã ghi, sau đó cuộc chiến mở màn thầm lặng từ đêm 30 Tết trên sông Gián Thủy (Ninh Bình) và bừng cháy lên trong đêm mồng 3 Tết Kỷ Dậu ở Hà Hồi. Với tiếng chiêng trống vang lừng, với loa gọi, tiếng hô kêu thiên binh vạn mã. Hà Hồi khiếp sợ kéo về đầu hàng.

Mờ sáng mồng 5 voi rống, ngựa hí, súng bắn, tên bay, khói tỏa, pháo nổ, lửa cháy, Nam quân hò reo dũng lược tiến lên, Ngọc Hồi sụp đổ, Văn Điển tan tành, Yên Quyết ra tro. Những tướng giặc Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng... đều bỏ thây nơi chiến địa. Riêng Khương Thượng, quân Nam hàng hàng lớp lớp bổ vây, Sầm Nghi Đống hết đường trốn chạy phải mượn dây oan nghiệt kết thúc cuộc đời bại tướng. Gò Đống Đa, đầm Mực (Hà Đông) là nơi vùi nông, phủ cạn bao nắm xương tàn của hàng vạn bại binh Thanh triều.

Đặc biệt Tây Long cung (nay là chỗ đền Tây Lương của Hoa Kiều thờ Quan Công ở Hà Nội gần bờ sông Nhị Hà), Đại nguyên soái Tôn Sĩ Nghị thấy các quân phi báo Hà Hồi, Ngọc Hồi... lần lượt lọt vào tay Tây Sơn rồi Khương Thượng chìm ngập trong bể lửa trong lúc Nam quân ồ ạt kéo vào các cửa ô Thăng Long nên không kịp đóng yên ngựa vội vàng lên ngựa vượt cầu phao sông Nhị. Tướng sĩ các doanh xô đẩy chạy theo, cầu gãy, hàng vạn con người rơi xuống chết đuối làm ô nghẽn cả dòng nước trong sạch. Sĩ Nghị chạy đến Phượng Nhãn (Bắc Giang) lại gặp phục binh nên ném cả ấn tín, cờ sắc, bài lệnh để thoát thân.

Các đạo quân khác cũng chạy trối chết.

Tàn binh khi chạy về Trung Hoa đã gây nên cảnh hoang mang trong dân chúng nên người dân già trẻ nam nữ đùm bọc nhau chạy xa biên giới hàng mấy chục dặm khiến cho chó không sủa, gà không gáy!

Khoảng giờ thân mồng 5 Tết, Quang Trung đại đế hiên ngang đạp trên đầu voi tiến vào Thăng Long giữa tiếng khải hoàn ca của quân dân Việt.

Chiến bào của trang anh hùng dân tộc giờ này đã đổi màu từ vàng sáng của uy nghi sang đen sạm của hỏa binh, nhưng dòng Ngân vẫn không đổi, vẫn từ ái, hòa bình như con đường đã định từ lúc xua quân đuổi giặc.

Nhà vua hạ lệnh cho quân Thanh chạy trốn ra đầu thú và cấm nhân dân không được giết hại. Họ được tập trung ban phát áo mặc, cơm ăn và chờ ngày giao trả cho Thanh triều.

Ngay ở điểm này, chúng ta cũng rất thán phục chính sách tù hàng binh của Vua Quang Trung từ 200 năm trước mà giờ đây rất nhiều nước còn vi phạm ở thế kỷ 20 này.

Thua trận này, Thanh triều tím mặt căm giận, nhưng cũng gờm sợ Tây Sơn nên cử Thang Hưng Nghiệp, là Tả giang binh bị đạo gởi mật thư gợi ý Tây Sơn nên nhân cơ hội này và vận động thay nhà Lê, ông sẽ ngầm giúp cho. Quang Trung biết ý nhà Thanh muốn rửa mặt chứ thật ra đã thấm đòn mạnh rồi, nên sai Phan Huy Ích lập đồ biểu và giao Hô Hổ Hầu đem sang tình Thanh đế.

Quang Trung phác xưng là Nguyễn Quang Bình, ở nơi hẻo lánh (ấp Tây Sơn) miền An Nam nhưng vẫn tắm gội ơn Thanh giáo nên nước loạn, binh kiêu, dân oán phải từ một kẻ áo vải phất cờ làm việc lớn diệt Trịnh, trả nước cho vua Lê không làm điều phế truất...

Nhưng Tôn Sĩ Nghị không xét kỹ căn do để phân xử công bằng hợp lẽ mà chỉ ham tài sắc, nghe lời đàn bà, làm nhục sứ giả gây chuyện tâng công.

Bản tâm của nhà Vua không muốn đất cát và nhân dân của nhà Lê nhưng nhân dân, quần thần và cả tôn thất Lê triều ép buộc nên phải gánh vác việc lớn.

Tôn Sĩ Nghị giết người lương thiện, đàn bà con trẻ và chực đuổi bắt giết hết vây cánh của Tây Sơn nữa. Đứng trước tình trạng trước sau thọ tử, nên lòng người phải gắng hăng hái vươn lên. Và ngày mồng 5 tháng Giêng Kỷ Dậu tiến voi đến Thăng Long, những mong “ngửa xin Tôn Sĩ Nghị nghĩ lại cho yết kiến” bày tỏ hơn thiệt.

Tôn Sĩ Nghị đánh trước, quân của nhà vua ít oi dăm ba tên trai tráng trong làng trẩy ra làm sao địch nổi đại quân chỉ vì quân Thượng quốc dùng ngựa mà ngựa thấy voi thì hí lên và bỏ chạy quay lại đạp lên quân sĩ thành ra chết chóc! Chứ châu chấu đâu dám đá xe! Và nhà vua ta nhún nhường thêm:

“Nép nghĩ: Đại hoàng đế là bậc theo ý trời, ban trị hóa, làm cho cành khô lại xanh tươi, cây kiệt lại nảy nở. Xin ngài lựa theo tự nhiên, thứ cho cái tội đón đánh Sĩ Nghị và xét cho tấc thành mấy phen đã gõ cửa ải, dâng lời tâu bày. Xin Ngài lập kẻ tư mục để chăn dân, dựng nước phên giậu để vững thế, ban ơn mệnh mới cho tôi làm An Nam quốc vương, đứng làm phiên binh một phương, kính giữ chức phiên mục, khiến cho bản quốc có người cầm đầu cai quản.

Tôi xin kính cẩn sai sứ sang cửa cung khuyết, xưng phiên sửa lễ cống. Lại sẽ xin đem sổ người (tù binh) hiện còn của nhà vua mà dâng nạp để tỏ tấc dạ rất thật này”.

Kèm theo tờ biểu khiêm cung này thì gởi Thang Hùng Nghiệp một lá thư khinh miệt đe dọa đúng chính sách nhu nhu cương cương.

Thư có đoạn viết:

“Ôi! Quân lính cốt hòa thuận, không cốt đông, cốt tinh nhuệ, không cốt nhiều. Người khéo thắng là thắng ở chỗ mềm dẻo, chứ không phải lấy mạnh đè yếu, nhiều hiếp ít. Ví bằng chút tình trước đây không được bày tỏ. Thiên triều không chịu khoan dung một chút, cứ muốn động binh để tranh chiến, thế là làm cho nước nhỏ không được phục sự nước lớn thì bấy giờ Đại quốc có dạy bảo gì, tôi cũng chỉ xin theo thôi!”

Câu cuối cùng có ý rõ ràng, nếu tôi nói nhu mà các ông cứ đánh thì đánh chơi!

Đã lỗ đầu chảy máu một phen rồi thì chắc chắn là Thanh triều không dám nữa!

2.- Ép Sứ Thanh vào Thuận Hóa phong vương

Nếu bên châu Âu, ngày xưa các Hoàng đế phải được Đức Giáo hoàng gia phong mũ miện thì bên trời đông các vì vua nước nhỏ phải được vua nước lớn sách phong vương tước. Do đó thường thường vua nước ta khi lên ngôi và nhất là vị vua mở đầu cho một triều đại mới thì đều phải cần đến sự phong vương của đại quốc bên cạnh. Thể thức ấy ngày nay luật học gọi Việt Nam là nước phụ dung của Trung Hoa.

Tuy bề ngoài Quang Trung hoàng đế mềm dẻo xin phong vương tước, nhưng thật ra bên trong lòng nhà vua chả cần gì cái sắc phong của kẻ chiến bại thừa nhận mình là vua nước Nam nên kiếm kế trì hoãn cuộc lễ truyền phong.

Ngày 26 tháng 7 năm Kỷ Dậu được tin có chỉ dụ vua Thanh phong Ngài làm An Nam quốc vương, mà Ngài ở Thuận Hóa chẳng muốn ra Thăng Long nhận sắc, nên đã kiếm kế thoái thác là nước Nam hay lụt lội vào mùa hè, đường sá hư hại phải sửa chữa mới tiện đi lại, có thể chậm một ít ngày giờ. Xin hẹn độ tháng 9 mới đến Thăng Long được!

Đánh giặc thì đi cấp tốc có mười ngày mà đi lãnh sắc phong lại để những hai tháng.

Nhưng qua thư thứ hai thì nhà Vua nói là có quân lạ vào cướp bóc quấy nhiễu duyên hải nên phải quay về Phú Xuân khi đã ra được đến Nghệ An.

Rồi tiếp đến thư sau thi bảo là “Đất Thăng Long đã tiêu hết vượng khí: Tản Viên là núi có mạch chạy xuống đã băng mất ngọn dưới và ngọn trên. Nước sông Phú Lương đã bồi lấp mất hậu đầu... cung khuyết hoang tàn cư dân thưa thớt.

Đô thành Phú Xuân sinh tụ dần thành chỗ đông vui. Hiện nay, đó là chỗ các mán đến sum họp, tứ dân (sĩ, nông, công, thương) đều ở đậu, sầm uất hơn cả các xứ khác...”

Nhà vua lại nói là sẽ từ Nghệ An ra Thăng Long bái nghinh sắc thư và mời nhị vị đại quan vào Phú Xuân để làm lễ tuyên phong, nhưng vì cảm thương hàn, gắng gượng ra đi lại gặp lúc tiết thu nên chứng cũ tái phát, phải sai con Nguyễn Quang Thùy và các thân thần Ngô văn Sở, Loan Hồi Đại, Ngô Thì Nhiệm đến Thăng Long đón gọi sứ giả và hẹn mười lăm ngày nếu khỏi bệnh sẽ đón tiếp và cùng vào Phú Xuân hành lễ.

Như vậy chúng ta thấy Quang Trung đã coi thường mệnh lệnh nhà Thanh và bắt Thanh sứ làm theo ý mình dù có khéo léo thác bệnh tật cho qua chuyện.

3.- Giả vương triều kiến Vua Càn Long

Thanh triều gia phong cho Quang Trung hoàng đế là An Nam quốc vương nhưng bắt buộc nhân dịp bát tuần khánh thọ của Vua Càn Long, quốc vương An Nam phải thân sang triều yết và lập đền thờ cúng Hứa Thế Hanh đã tử trận mùa Xuân Kỷ Dậu.

Vua Quang Trung đã không nhận sắc phong thì đâu có phải sang tận Bắc quốc để triều yết, cho nên vua nói thác là có tang mẹ nên không tiện đi, xin sai con là Quang Thùy đi thay.

Phúc An Khang, Tổng đốc Lưỡng Quảng, phải phái người sang dỗ dành và mớm kế: Nếu cực chẳng đã, Quốc vương không đi được thì nên chọn lấy một người dung mạo giống mình cho đi thay.

Thế là Phạm Công Trị được giao trọng trách đóng vai Giả vương lên đường diễn vở kịch lớn mà chắc xưa nay lịch sử ngoại giao khó lòng xảy ra lần thứ hai.

Tuy nhiên Thanh triều không hay biết và vẫn đón tiếp trang trọng như thật.

Vua Càn Long căn dặn Phúc An Khang phải lo liệu hành trình cho vừa vặn, đừng mau quá mệt nhọc vua Nam.

Sứ bộ gồm cả 150 người gồm Giả Vương, Nguyễn Quang Thùy, Ngô văn Sở, Phan Huy Ích, Đặng văn Châu, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ văn Công, Đoàn Nguyên Tuấn... và một đội nhạc công tài giỏi.

Tặng vật, ngoài các thứ thường lệ còn có hai thớt voi. Chính vì hai thớt voi này mà quan quân Thanh triều khổ sở nhọc nhằn lo cỏ rác, chuyên chở phiền phức dọc đường.

Giả vương đi tới đâu cũng được các nhà chuyên trách Thanh triều cung phụng đầy đủ thức ăn, món uống, cung cấp phương tiện nghiêm túc. Hễ có của ngon vật lạ là vua Thanh cho chạy trạm thết khách.

Vua Càn Long đã tặng Giả Vương bánh sữa, trái vải, quạt và đồ hương khí. Vua Càn Long lại sai chế áo mão đúng kiểu và một giải hoàng kim thinh đới, một thứ đai bằng da có nạm vàng. Nên biết rằng loại đai này chỉ tặng cho các phiên thần đồng tông của nhà vua Thanh, nay đặc biệt ban cho Giả vương như vậy là vua Thanh quý Quang Trung đến bực nào.

Đặc biệt vua Thanh lại tặng cho Giả Vương một tập Ngự chế tập, Thạch cổ thi tự vừa in xong.

Theo sự kính trọng của vua Thanh, các quan viên địa phương vừa theo để chi tiêu cho các cuộc đón rước linh đình mỗi ngày tốn đến 4.000 lạng bạc! Thực ra mỗi ngày chỉ mất có 200 lạng thôi. Cho hay cái tệ tham ô lãng phí của công không phải chỉ có ở thời gian gần đây mà nó đã có từ thủa xa xưa vậy.

Đến Nhiệt Hà, Giả Vương được vua Thanh đón tiếp ân cần và ban tặng thơ, nguyên văn chữ Hán:

Tam phiên kỳ định phi giai binh,

Tạc tuế An Nam trọng hữu chinh.

Vô lại phục Lê, Lê yếm đức,

Phiên giao phong Nguyễn (Tây Sơn), Nguyễn thâu thành,

Thủ phong cương vật tư tha tộc;

Truyền tử tôn hằng phụng Đại Thanh.

Hạnh mộc thiên ân, khâm cửu đạo,

Bất hoàn nhật giám, lẫm trì doanh...

(Bài thơ này có chép trong Hoa Trình Tùy bộ tập của Vũ Huy Tấn)

Đại ý nói: Năm trước phải đem binh sang Nam là cốt khôi phục cho nhà Lê. Nhưng nhà Lê đã đến lúc không được trời tựa nên phải phong cho Nguyễn, vì Nguyễn đã quy phục thật tình. Vậy phải giữ đất nước đừng để họ khác nổi lên. Dặn con cháu phải dốc một lòng thần phục nhà Đại Thanh. Lúc nào cũng kính cẩn như bưng bát nước đầy. Như vậy mới được tắm gội ơn trời và hưởng phúc lâu dài.

Thanh đế thết tiệc tại điện Chính Đại Quang Minh để đãi sứ bộ và hai bồi thần của Giả vương cũng được đặc cách được mời rượu “đề hồ” do tay vua Càn Long rót trong chén ngọc.

Như vậy đủ thấy Thanh đế rất quý trọng Quang Trung hoàng đế của ta. Cũng nên biết vua Càn Long là một vì vua văn võ kiêm toàn anh hùng của Trung Hoa. Cho hay chỉ có anh hùng mới cảm thấy và kính trọng cái anh hùng của kẻ khác!

Đặc biệt khi tiễn Giả Vương về nước vua Thanh tự tay viết chữ “Phúc” và “Thọ” để tặng làm kỷ vật, và tặng trái cây, hà bao đựng đồ bát bảo, áo mặc, một vạn lạng bạc và đồ phương trân cổ ngoạn. Chính vua Càn Long cũng tự thấy cách tiếp đãi một vị phiên bang xưa nay chưa bao giờ được quý trọng như vậy nên có câu:

“Cận quang ưng sủng tích, tái kê thanh sử vị tiền văn”. Và trong một bài thơ tặng Giả vương, vua Thanh cũng xem Quang Trung là khách tri kỷ!

“Sơ kiến, hỗn như cựu thức thân” (Mới gặp nhau lần đầu mà thân mật như quen biết đã lâu).

Thật là một sự thắng lợi về ngoại giao!

Tưởng không gì hơn chúng ta hãy nghe lời của Đoàn Nguyễn Tuấn một vị quan trong sứ bộ đã viết về chuyến đi ấy như sau:

“Chuyến đi này được nhà vua (Thanh) đặc cách cho quan Tổng đốc (Thanh) đi bạn tống. Thuyền, xe, cờ, quạt quáng cả tai mắt người ta. Đi tới đâu quan lại phải bôn tẩu tiếp đón đến đó. Mùa Thu năm Nhâm Tuất (1790) đến hành cung ở Nhiệt Hà; lại theo xa giá vua Thanh về Yên Kinh, đi Tây Uyển. Luôn luôn yến tiển hàng tuần, được ơn trời âu yếm ưu đãi khác thường. Trước giờ, người mình đi sứ Tàu chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như vậy”.

4.- Yêu sách đặc sản và đặc vật của Thanh triều

Vua Quang Trung rất khôn khéo biết rằng nhà Thanh sẽ kiểm duyệt thư từ qua lại giữa sứ bộ và chính quốc, nên vua sai Nguyễn Hoàng Khuông đem thư dặn sứ thần phải mua nhân sâm cho Quốc Thái (mẹ vua Quang Trung) đã 80 tuổi dùng.

Quả nhiên Phúc An Khang xem được thơ ấy lật đật lấy lòng tìm kiếm bốn lạng nhân sâm giao cho Thanh Hùng Nghiệp cắt người đưa sang Lạng Sơn chuyển đệ lên Quang Trung hoàng đế.

Như vậy, nhà vua muốn Thanh triều cung đốn nhân sâm mà khỏi mất công mang tiếng đi xin.

Đến khi nhà vua Thanh hay được lại phái người tặng ngài một cân (16 lượng ta) nhân sâm thượng hạng và một đạo dụ khen ngợi nữa:

“Quốc vương An Nam nhân mùa Xuân năm nay phải sang chầu chúc phúc, muôn dặm đi xa phải tạm nhãng việc định tĩnh, nên có dặn bồi thần mua nhân sâm để phụng dưỡng mẹ già. Thế thì đủ thấy rằng Quốc vương đã chăm tỏ tấc thành chiêm cận lại tha thiết lo việc thần hôn. Thật là trung hiếu kiêm toàn, đáng khen, đáng chuộng lắm lắm!”

Khi Giả Vương sang triều kiến Thanh triều được vua Thanh tặng cho một con ngựa quý vua Quang Trung rất thích chí. Nhưng thủy thổ khác biệt nên con ngựa quý ấy chết mất, lại viết biểu “Khất mã biểu” sang xin con khác. Nói là xin nhưng kỳ thật là yêu sách. Trong bài biểu có câu:

“Thứ kỳ mạo vọng can cầu chi tội,

Tích dĩ quyền kỳ tri sính chi lương”.

Thứ cho cái tội cầu bậy, xin liều,

Ban cho thứ ngựa giống hay, chạy khỏe.

5.- Phá lệ cống người vàng.

Theo tục lệ nhà Lê phải triều cống người vàng để đền mạng cho tên bại tướng Liễu Thăng bị quân ta giết chết ở Chi Lăng năm 1427. Nhưng đất nước mới yên giặc giã nên Lê Thái Tổ phải chịu quyền biến trong ngoại giao lúc đầu, sau thành lệ.

Đến đời Tây Sơn, Phúc An Khang cũng nhắc nhở việc đúc người vàng triều cống nhưng đời nào trước đã chiến thắng về quân sự, sau lại thắng về ngoại giao lại chịu gánh lấy cái nợ vô lý bất công ấy.

Quang Trung hoàng đế đưa thư phản kháng Phúc An Khang nguyên văn bằng Hán văn được ông Hoa Bằng dịch như dưới đây:

“... Xưa, các đời Trần Mạc vì có tội với Trung Quốc phải dâng người vàng để thế hình.

Quốc trưởng nước tôi từ bước là một người áo vải, nhân thời thế, vùng lên làm việc, đối với Lê vương vốn không có cái vai lứa ai là vua ai là tôi chi cả. Còn hay mất, là ở số trời; theo hay là bỏ, là ở lòng người. Quốc trướng nước tôi có ý lấy nước của vua Lê đâu mà sánh với kẻ giành cướp được?

Vả trước đây, Tổng đốc họ Tôn (Sĩ Nghị) đem binh lính đến; Quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải ứng phó lại chứ không hề xâm phạm bờ cõi để có tội với Thượng quốc.

Nay thấy ngài (Phúc Khang An) theo lệ Trần, Lê, Mạc cũ mà bắt cống người vàng, thế thì Quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại, té ra lại phải liệt vào hàng tiếm ngụy như nhà Mạc, mà chút lòng cung thuận ra từ tấc thành sợ Trời, thờ nước lớn lại phải chịu chung một luật như nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng ư?

Thế thì kể về tình, Quốc trưởng nước tôi có điều bị ức, không thể không trông ở ngài cân nhắc cho vậy.

Này, xưa kia, chư hầu triều kiến thiên tử, hoặc chực ở phương nhạc, hoặc chầu ở kinh sư. Ai đi được thì tự mình đến, ai không thân đi được thì sai con em vào hầu, chỉ cốt dâng ngọc thắm, tỏ đồ tin, để cho cái tình trên dưới được thông suốt.

Đến như bắt lấy người vàng thế hình vào chầu thì suốt từ Đường, Ngu, Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đến Hán, Đường và Tống đều chưa làm thế bao giờ.

Ngài đã rao truyền tiếng tăm giáo hóa của thượng quốc cũng nên đem phép hay, ý tốt của triều đại thịnh trị đời xưa mà sai bảo mọi nước dưới, chứ bắt chước làm gì việc làm của Nguyên, Minh không học theo cổ ấy?

Mong ngài soi xét, miễn cho sự đúc dâng người vàng...”

Bức thư phản kháng ấy quả có công hiệu, Vua Thanh phải nhượng bộ, rồi tỏ cái ý (bắt chẳng được, tha làm phúc) trong câu thơ này tặng Giả Vương do vua Quang Trung phái sang Thanh năm Canh Tuất (1790).

Thăng triều vãng sự bỉ kim nhân!

Nhà Thanh đây cho việc triều trước (thăng triều: triều đã bại) bất cống người vàng là đáng khinh bỉ!

Thế là vua Quang Trung đã làm được một việc ngoại giao thắng lợi cũng như về quân sự, đã hoàn tất thắng lợi ở Xuân Kỷ Dậu (1789).

6.- Đòi các đất miền biên giới bị sáp nhập vào Trung Hoa

Cuối đời Lê, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, các quan nhà Lê mới sang Tàu cầu cứu. Vua Minh nhân dịp muốn tái hiện cái mộng “Giúp Trần đánh Hồ để cướp nước” như trước nên sai Cửu Oan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ đem quân sang An Nam. Mạc Đăng Dung lật đật tự trói mình, dâng sổ đinh điền đầu hàng ở ải Nam Quan và nhất là dâng một số đất ở miền biên giới để chuộc tội và hối lộ cho vua Minh.

Sau này các gian thần biên giới như Vi Phúc Liêm, Hoàng Công Thư lại đem một số đất nữa dâng cho vua Minh để họ được tự trị, tách ra khỏi quyền vua Lê.

Từ khi vua Quang Trung lên ngôi, ngài không nỡ để một tấc đất của Tổ tiên phải lọt vào tay ngoại nhân. Do đó vua mạnh bạo đưa biểu nhờ Lưỡng Quảng tổng đốc Phúc Khang An tâu lên Thanh đế xin đòi lại các đất nói trên.

Đại ý bài biểu có những đoạn quan trọng như sau:

“Thần tử áo vải dấy lên, may có đất nước. Một thước đất, một người dân đều là ơn của Đại hoàng đế ban cho cả. Há dám phân biệt bờ này cõi khác làm nhàm đến bậc chí tôn? Chỉ vì phần đất cõi Nam lạm đúng làm phên dậu, bốn bề giáp ranh những đâu, đã có sách báo chép rõ... Thần không dám bỏ một phân đất làm đất hoang, nên không thể không đem tình do và khúc nôi mà giãi bày ở dưới ánh sáng.

Thần kính sai các viên chức chuyên trách chờ đợi ở cửa Nam Quan, lại sai văn võ viên mục đến tận cõi Hưng Hóa lần lượt tra xét cho rõ ràng ổn thỏa để đất bảy Châu ấy lại được ban về thuộc trong bản đồ bản quốc”...

7.- Cầu hôn và xin đất lập kinh đô.

Việc đòi đất nói trên không được nhà Thanh trả lại nên lòng vua Quang Trung nhất quyết phải thu hồi đất đai của ta trở lại. Ngài lo chuẩn bị quân lực để chờ ngày Bắc phạt.

Muốn dò ý Thanh triều và do thám nội tình, cũng như địa thế Trung Hoa, nên vua Quang Trung cử một phái bộ sứ giả đa số là võ tướng do Võ văn Dũng làm chánh sứ.

Cũng nên biết rằng trước khi dâng biểu cầu hôn, vua đã cho thị thần gởi thư nhờ Tri phủ Thái Bình đạo đạt lên Công trung đường làm mối cho vua.

Tờ biểu bằng Hán văn và ông Hoa Bằng đã dịch:

“Thần vốn là một kẻ áo vải, được nhờ ơn cả, lạm giữ cõi Nam. Từ khi vào triều, cận nơi cung khuyết, đã được đặt cách làm lễ bảo kiến vấn an, lại được ban thưởng trọng hậu, ơn lạ dồi dào. Phàm những sự mà cõi Giao Nam từ xưa chưa ai từng được đều nhất nhất ban cho thần cả.

Kịp khi thần khâm mạng về nước, lại được dũ ơn đoái thương, luôn ban thánh chỉ. Cái ơn lồng lộng của nhà vua thật không sao kể ra, tả ra cho xiết! Thần là kẻ hèn mọn ở nơi hẻo lánh, chẳng ngờ lại được hưởng ơn đến thế! Tấc lòng canh cánh mong báo đáp bậc tôn thân, song vẫn chưa bởi đâu nià đền bồi được!

Chỉ mong được thường gõ cửa trời, gần nhìn bóng nhật, nhưng đất ở xa, thế cách trở, sức làm không được như ý muốn: hễ qua khỏi cửa Nam Quan thì lại thành xa và sơ ngay!

Thần vẫn mơ tưởng nhạc Quân thiều, ngóng trông Vân hán, hằng e mình rồi cũng đến như hạng tầm thường, phải liệt tràn ở ngoài vòng Thanh giáo, làm cô phụ cái ơn sinh nuôi tất cả của thánh từ!

Trộm nghĩ: Thánh nhân tỏ lòng giúp đỡ chư hầu, liên lạc chỗ sơ cho thành thân mật, phàm việc đều cư xử theo đạo xưa.

Nước thần, ban đầu, vua Kinh Dương chịu mệnh nơi Viêm đế, bà Âu Cơ kết duyên với vua Lạc Long: tổ nước Văn Lang, mở cõi Giao Chỉ, trăm trai nối dõi, dời làm phên giậu phía Nam, may nhờ phúc ở Trung Hoa, được nổi danh là nước văn hiến. Thế đại dẫu xa, sử sách còn đủ khảo xét.

Từ khi nhà Tống dấy lên, ràng buộc nước thần, ruồng ra ngoài vòng đức hóa không liệt vào hàng Minh đường, chỉ để cũng như hạng Bành bộc.

Nhà Thanh ta được trời quyến cố, rộng có muôn phương, chỗ nào có bóng mặt trời soi đến đều coi nhân dân là chung một bọc mà ra lấy hoàn doanh làm gia đình mà không gẩy ai ra ngoài cả.

Kính nghĩ: Đại hoàng đế bệ hạ đức ngang với trời đất, đạo cao hơn vua Hiền Viên, vua Ngu Thuấn, vỗ về cho chư hầu mến phục, dịu dàng cho người xa hướng về, không choèn hoèn theo cái lối thường của các triều đại gần đây.

Thần lạm được Thánh thượng coi như con ruột, liệt vào hàng các thân vương. Phận này dẫu tận nơi xa khuất, nhưng tình ấy vẫn được kể như đẻ nuôi.

Thiết nghĩ: muôn vật không giấu hình với trời đất, con cái không giấu tình với mẹ cha, thì câu chuyện tâm sự về gia đình dám chẳng giải tỏ ở trước bậc chí tôn? Mới đây nhà thần gặp vận rủi ro, thiếu người giữ việc dâng cơm canh thờ cúng! Trên nền gây dựng phong hóa đang thiếu người đỡ đần. Vậy muốn núp dưới bóng cây ngọc, hòng bám vững vào gốc dâu.

Ngước thấy thánh triều phát tích từ Trường Bạch, đầy dãy phúc lành con cháu hàng nghìn hàng ức, nối đời phồn thịnh. Bấy nay lề lối của nhà vua, vẫn chọn những chỗ quý hiển gần gũi đề gả các công chúa, chứ không có lệ gả tràn đến các bầy tôi ở ngoại phiên. Cái phận đã nghiêm chia trong ngoài như thế, thì thật khó bài đâu mà chòi vói được. Chỉ vì một niềm tôn mến, lòng riêng ngóng trông, nên cứ trằn trọc không sao thôi được.

Trộm mong cành ngọc nhà trời lan rộng đến cả kẻ ngoại phiên ở dưới, ngõ hầu thần được ngửa đội ơn lành, gần gũi gót lân, đem phong hóa Quan thư ban ra những phúc nguyên cát. Những điều kính nhịn hòa thuận từ nơi gia đình sẽ nêu làm khuôn mẫu cho người trong nước để họ tập quen cái dư phong của chốn trung hạ, trút bỏ cái thói cũ của nơi bờ biển khiến thần dân trong nước của thần được thỏa sự trông mong ở trong vòng đức hóa.

Chắt chút dòng dõi nhà thần đời được giữ mãi phiên phong, hưởng sự tốt lành không cùng. Đó là điều mong mỏi lớn của thần vậy. Chỉ vì nay cần ơn ngoài phận, việc xảy khác thường nên bàn với những kẻ chấp sự, không ai dám vì thần mà chuyển tâu lên! Cửa vua muôn dậm, trông ngóng đăm đăm. Nay bèn đánh bạo không tự suy xét mạo muội, nhằm tỏ tấc thành kính sai kẻ bồi thần sang chầu hầu để sau lúc tâu bày rảnh rang sẽ vì thần mà kêu thay kể lể khúc nôi cơn cớ.

Nép mong bậc cao sáng dũ thương, xét cho thần lòng thành thiết tha trìu mến, tha cho thần cái lỗi rợ mọi cầu liều.

Thần xa ở biển Nam, ngóng trông sao Bắc, xin kính chúc Thánh Thiên tử thọ khảo muôn vạn dặm, mãi làm cha mẹ muôn nước. Thần bao xiết quá đỗi run sợ trồng mong...”

Cứ theo gia phả của họ Vũ thì Vũ văn Dũng bệ kiến vua Thanh Kiền Long và đã tâu hai việc:

Cầu hôn vì Quốc vương đã lớn tuổi mà việc hôn nhân chưa định, song trong nước toàn hạng thần tử, các phiên phong láng giềng thì lại không được Quốc vương ưa thích nên muốn vua Thanh chuẩn tình cho.

Xin đất đóng đô vì nước Nam hẻo lánh, thủy bộ bất tiện, vượng khí mất hết và nhất là đóng đô càng gần Thiên triều càng dễ được ơn mưa móc và thấm nhuần phong đức của vua Thanh.

Vua Thanh chuẩn y cả hai và định ngày lành tháng tốt đưa công chúa Thanh triều lên đường vu quy. Còn đất sẽ được bàn chi tiết sau.

Nhưng sau đó, phái bộ sứ giả nhận được tin dữ. Vua Quang Trung mất!

Mọi việc dở dang, Võ văn Dũng đành ôm mối hận quay về cố quốc!

Đọc đến đây, chắc chúng ta không có ít người phải rơi lệ tiếc rẻ, nếu vua Quang Trung không mất đi thì bản đồ Việt Nam ngày nay có lẽ đã đổi khác nhiều.

Ta thương tiếc cho người bao nhiêu thì ta lại càng kính phục con người tài ba xuất chúng toàn tài ấy bấy nhiêu. Nếu về võ công, người ta thường ví vua Quang Trung là một Napoléon Việt Nam thì chẳng biết về ngoại giao ta có thể ví người với ai ở trong các vĩ nhân của nhân loại?

Hôm nay, vừa đúng 200 năm ngày Ngài chiến thắng vẻ vang đưa dân tộc Việt lên đài vinh quang tuyệt đỉnh, ngoài niềm vui phấn khởi:

Nào ai áo vải, cờ đào,

Giúp dân dựng nước biết bao công trình!

của con dân Việt tộc, ta không khỏi bùi ngùi nhắc lại vần thơ bất hủ của Ngọc Hân công chúa khi kết thúc bài Ai tư vãn:

Mấy lời tâm sự trước sau,

Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Đặc san Tây Sơn Xuân Kỷ Tỵ (1989)

(Trang 16-29)

Tài liệu tham khảo:

- Ngô Thời Chí - Hoàng Lê Nhất Thống Chí

- Trần Trọng Kim - Việt Nam Sử Lược

- Hoa Bằng - Quang Trung Nguyễn Huệ

- Hoàng Xuân Hãn - La Sơn Phu Tử

HẾT