ĐÁNH THỨC
Khi Will đến Tal y Llyn, cậu biết mình phải tìm cách lẩn đi, không để người khác nhìn thấy. Không thể nào biết được Caradog Prichard đang ở đâu; liệu lão đã đến trang trại của Idris Jones chưa và từ đó lão sẽ đi đến đâu... Will đã nghĩ đến chuyện rẽ qua trang trại để kiểm tra xem sao, bằng cách trốn sau khúc quanh trên đường, đề phòng trường hợp chiếc xe tải màu xám méo mó đang đậu ở đó. Nhưng rồi cậu đổi ý. Còn quá ít thời gian. Cậu ôm bọc đàn chặt hơn vào người và đạp xe đi tiếp bên trên con đường dẫn qua trại Ty-Bont, tiến đến góc đường nơi nó uốn vòng quanh bờ hồ.
Hồ Tal y Llyn đang nằm phía trước cậu, mặt hồ gợn sóng nhờ làn gió đã thổi dồn những cụm mây bay khắp bầu trời. Ngọn núi xanh cỏ điểm những cụm dương xỉ diều hâu màu nâu vươn lên ở cả hai bên bờ hồ; mặt hồ tối sẫm trải dài khắp thung lũng đến tận đầu bên kia, nơi hai rặng núi gặp nhau thành một hình chữ V lớn, tạo thành đèo Tal y Lyn. Will nhìn làn nước lăn tăn không chớp mắt.
Lửa bùng lên trên núi, tìm được đàn hạc vàng.
Tiếng đàn làm thức tỉnh, Người Say Ngủ thuở nào
Nhưng cây đàn phải được chơi ở đâu, và khi nào? Chắc chắn không phải là ở đây, trên con đường trống trải xuyên qua thung lũng, không có gì bảo vệ này. Cậu rẽ trái và đi về phía thung lũng, nơi bên trên những cánh đồng xanh tươi hiền hòa dưới thấp, là những sườn núi sẫm màu đầu tiên của Cader Idris vươn lên như một bức tường với bầu trời làm mái. Chính trên sườn núi đó họ đã tìm thấy con cừu bị chết; sườn núi nơi vị chủ nhân Vua Xám của nó đã định xô Will xuống dưới hồ. Thế nhưng bản năng của một Cổ Nhân vẫn đẩy Will loạng choạng đi về chỗ ấy; tiến về pháo đài của kẻ thù, như một lời thách thức cố ý dành cho sức mạnh dữ dằn đang chặn bước cậu. Cậu tự nhủ, hai bên càng không ngang sức ngang tài thì chiến thắng càng thêm vĩ đại.
Trong tai cậu có một tiếng ù ù ầm vang, khi cậu tiếp tục đạp xe đi tới với cây đàn hạc quấn trong bọc kẹp dưới cánh tay. Sườn núi vươn cao tiến đến mỗi lúc một gần hơn. Chẳng mấy chốc nữa con đường sẽ vòng đi theo một ngả rẽ khác. Nếu muốn đi men theo bờ hồ, cậu sẽ phải xuống xe, dắt bộ qua các cánh đồng và đi lên con dốc nguy hiểm đầy đá răm kia, để đứng một mình nhìn xuống mặt hồ. Nhưng cậu biết đó là nơi mình phải đến.
Thế rồi, bất thình lình, Caradog Prichard bỗng từ đâu bước ra chắn đường cậu, túm lấy ghi đông xe đạp, khiến cho Will ngã nhào xuống bên đường, đau ê ẩm khắp mình.
Trong lúc lồm cồm bò dậy, ôm cây đàn hạc bằng cánh tay giờ còn đau hơn cả lúc trước, Will không cảm thấy giận dữ hay sợ hãi mà chỉ thấy hết sức bực mình. Lão Prichard: lúc nào cũng là lão Prichard! Trong khi Vua Xám hiện lên ở đằng xa như một mối đe dọa đáng sợ đối với Ánh Sáng, thì lão Prichard lại giống như một con chuột nhắt kêu chin chít không mời mà đến, lúc nào cũng chăm chăm chực kéo Will về với những chuyện tranh chấp và cãi vã nhỏ mọn tầm thường của con người. Cậu lừ mắt nhìn Caradog Prichard với cái vẻ khinh bỉ câm lặng mà lão không đủ khôn ngoan để nhận ra là vô cùng nguy hiểm.
“Mày đi đâu, thằng người Anh kia?” lão Prichard hỏi, tay vẫn nắm chắc chiếc xe đạp. Mái tóc đỏ đã bắt đầu hói của lão rối bù; cặp mắt ti hí của lão thì ánh lên kỳ lạ.
Will đáp lại, giọng lạnh như băng, “Chuyện ấy chẳng liên quan gì đến ông hết.”
“Hỗn láo, hỗn láo quá,” Caradog Prichard nói. “Ta biết rõ mày đang đi đâu, anh chàng thân mến ạ - mày với thằng Bran Davies lại đang định giấu con chó giết cừu khốn kiếp kia chứ gì. Nhưng chúng mày không thể làm gì để ngăn ta tìm ra nó đâu. Mày có cái gì kia hả?”
Trong đầu không biết đến cái gì khác ngoài nỗi nghi ngờ, lão đưa tay ra định giật cái bọc quấn bao bố kẹp dưới tay Will.
Phản ứng của Will còn nhanh hơn cả mắt nhìn của cậu. Cây đàn hạc quá quan trọng, không thể để rơi vào một hoàn cảnh nguy hiểm ngớ ngẩn như thế này được. Ngay lập tức, cậu trở thành một Cổ Nhân với toàn bộ quyền năng bùng ra, vươn lên khủng khiếp như một cột ánh sáng khổng lồ. Người vươn cao trong cơn thịnh nộ, cậu giơ một tay ra chỉ vào Caradog Prichard - nhưng ngay lập tức bị một cơn thịnh nộ mạnh mẽ không kém của Vua Xám đáp trả bằng một bức tường chống cự dữ dằn.
Mới đầu lão Prichard co rúm người lại trước mặt cậu, mắt mở đến rách kẽ, miệng méo xệch vì kinh hoàng, chờ đợi đòn hủy diệt giáng xuống. Nhưng khi thấy mình được bảo vệ, vẻ ranh mãnh dần dần lại hiện lên trong mắt lão. Will cảnh giác quan sát lão, vì biết rằng Brenin Llwyd đang dẫn thân vào sự mạo hiểm lớn nhất mà một Chúa Tể Bóng Tối hay Ánh Sáng có thể liều lĩnh, đó là truyền sức mạnh vô biên của mình vào một người trần tầm thường, kẻ không hề biết mình đang có khả năng điều khiển một quyền lực đáng sợ đến thế nào. Hẳn là vị Chúa Tể Bóng Tối này phải đang rất tuyệt vọng thì mới giao cả sự nghiệp của mình cho một kẻ thuộc hạ hèn yếu như vậy.
“Hãy để tôi yên, ông Prichard,” Will nói. “Tôi không đem theo con chó của bác John Rowlands. Tôi thậm chí còn không biết là nó đang ở đâu nữa kia.”
“Ồ có, mày có biết đấy, thằng nhóc kia, và ta cũng vậy.” Lão Prichard tuôn ra một tràng, những lời ấy lão mới nghĩ ra, trong lúc còn chưa kịp kinh ngạc vì quyền năng mới có của mình. “Nó đã được đưa đến trang trại của Jones Ty-Bont, đưa đi xa khỏi ta, để nó có thể tiếp tục giết cừu. Nhưng sẽ chẳng có tác dụng gì đâu, đúng vậy, chẳng có hy vọng gì đâu, ta đâu có ngu đến thế.” Lão trừng mắt nhìn Will. “Và tốt hơn hết là mày cho ta biết nó đang ở đâu đi thằng nhóc kia, cho ta biết mày đang định làm gì, nếu không thì mày sẽ phải chịu hậu quả đấy.”
Will có thể cảm nhận được sự điên giận và thù hằn của lão đang quay cuồng trong đầu như một con chim phát rồ vì bị nhốt trong căn phòng không có lối ra. Trời ơi, Brenin Llwyd, cậu nghĩ thầm với một thoáng buồn rầu, quyền lực của ngươi phải được truyền cho một kẻ xứng đáng hơn, chứ không phải là một lão già không được huấn luyện, không biết tự chủ, không có đủ trí khôn để dùng chúng một cách đúng đắn....
Cậu nói, “Ông Prichard, xin hãy để tôi yên. Ông không biết mình đang làm gì đâu. Thật đấy. Tôi không muốn phải làm hại ông.”
Caradog Prichard trố mắt nhìn cậu trong giây lát với vẻ sững sờ thực sự, đến đờ đẫn cả người, giống như một người ngay khi hiểu ra được trò đùa, rồi lão phá lên cười sằng sặc. “Mày không muốn làm hại ta ấy à? Tử tế quá nhỉ, ta rất vui khi được nghe chú mày nói thế, chu đáo ghê. Nhân từ quá đi mất...”
Ánh nắng vừa chập chờn chiếu sáng buổi sớm hôm ấy giờ biến mất; những đám mây xám đang kéo đến trên bầu trời, bao trùm lên khắp cả thung lũng, nhờ có làn gió đã làm mặt hồ gợn sóng. Đâu đó trong tâm trí Will, một bản năng lên tiếng giúp cậu bất thần nhận ra rằng sự u ám này đang lan tỏa khắp bốn bề như một sức nặng, và khiến cậu quyết định một điều, trong khi những tiếng cười sặc sụa của Caradog Prichard tắt dần. Cậu lùi lại một hai bước, tay vẫn giữ chặt cây đàn hạc bên mình. Rồi cậu nhắm hờ mắt lại và lặng lẽ gọi đến những khả năng đã cho cậu quyền lực toàn vẹn của một Cổ Nhân, gọi những lời thần chú đã giúp cậu cưỡi gió, bay trên trời và dưới biển; gọi cả vòng liên kết Ánh Sáng đã giao sứ mệnh này cho mắt xích cuối cùng trong cuộc chiến của họ chống lại Bóng Tối đang trỗi dậy.
Trong hồ Tal y Llyn, Llyn Mwyngil, vang lên một âm thanh như tiếng sóng biển rì rào, và từ phía bên kia mặt nước tối sẫm, một con sóng khổng lồ kéo tới. Đầu sóng nhô cao, trắng xóa, ngầu bọt, nom như sắp đổ ụp xuống. Thế nhưng nó không đổ xuống, mà lại ào tới ngang qua mặt hồ, kéo đến chỗ họ, với sáu con thiên nga trắng cưỡi trên đỉnh sóng cuộn xoáy, lướt đi êm ái như trên mặt kính, những đôi cánh lớn dang rộng, các đầu cánh chạm vào nhau. Đó là những con chim rất lớn, đầy sức mạnh, bộ lông trắng muốt sáng óng lên như bạc được đánh bóng, ngay cả dưới ánh sáng ảm đạm của bầu trời đầy mây. Khi chúng tiến tới gần hơn, gần hơn nữa, một con thiên nga trong bầy ngẩng cao đầu trên cái cổ uốn cong duyên dáng và cất lên một tiếng kêu dài, thê lương, như một tiếng cảnh báo, hay một bài điếu ca.
Chúng tiếp tục lướt tới bờ hồ, lướt đến chỗ Will và Caradog Prichard. Con sóng chồm lên mỗi lúc một cao: một ngọn sóng xanh ngắt, tỏa ra thứ ánh sáng trong mờ kỳ lạ dường như bắt nguồn từ đáy hồ. Rõ ràng là bầy thiên nga sẽ lao vào họ, làn sóng sẽ trùm lên đầu họ và trào về phía thung lũng, cùng với tất cả nước trong hồ, cuốn băng mọi trang trại, nhà cửa và con người ra biển, tàn phá hết thảy.
Will biết đó không phải là sự thật, đó chỉ là hình ảnh cậu đang truyền vào đầu Caradog Prichard mà thôi.
Con thiên nga trắng lại kêu lên một tiếng não lòng, như tiếng thét của một linh hồn hoàn toàn trống rỗng, và Caradog Prichard loạng choạng lùi về phía sau, cặp mắt ti hí lồi hẳn ra vì kinh ngạc và hoảng sợ, một bàn tay túm chặt lấy mớ tóc đỏ. Lão mở miệng, để buột ra những âm thanh lạ lùng, không thành lời. Rồi bỗng như có cái gì đó bất ngờ đập vào lão, khiến lão giật nảy người rồi đứng trơ ra bất động, chân tay giơ lên thành những góc quái dị, và khắp trong không trung tràn ngập một tiếng rít ào ào kéo tới nhanh đến nỗi không biết nó đến từ hướng nào.
Nhưng Will, trong nỗi kinh hoàng, hiểu rõ chuyện gì đã xảy ra. Khi chấp nhận sự trợ giúp của Bóng Tối, lão già người Wales kia đã đẩy đầu óc của chính mình vào cảnh điên loạn.
Cậu nhìn thấy mắt Caradog Prichard lóe lên nét man dại khi mọi lý trí của con người trong lão đều bị quyền năng đáng sợ của Vua Xám xóa sạch. Cậu thấy trí óc lão đảo điên, cũng như người lão, bị ám ảnh mà không biết. Rồi lão Prichard vươn thẳng lưng lên; thân hình phì nộn của lão dường như cao hơn lúc trước, đôi vai khom lại báo hiệu một sức mạnh phi thường. Quyền năng ma thuật của Vua Xám đã nhập vào lão, truyền ra từ người lão, và lão nhìn chằm chằm vào con sóng đang kéo tới rồi cất cái giọng khàn đục hét lên mấy từ bằng tiếng Wales.
Ngay lập tức đàn thiên nga nhào lên không trung, kêu thét, những đôi cánh lớn chậm rãi đập mạnh, đưa chúng bay xa, còn ngọn sóng đang chồm lên thì đổ sụp xuống vì sức nặng của hàng ngàn, hàng vạn con cá đang quẫy đạp. Chúng trào lên trên mặt nước, với những chiếc vây đủ màu xám, bạc và xanh sẫm lấp lánh, cá rô, cá hồi và những con lươn mình uốn éo, cùng những con cá chó với đôi mắt quỷ quyệt, miệng nhếch lên để lộ hàm răng nhọn hoắt. Tựa hồ tất cả tôm cá trong tất cả các hồ nước trên toàn xứ Wales đã tụ họp về đây trong hồ Llyn Mwyngil, để đập tan ngọn sóng, để cho mặt nước hồ yên tĩnh trở lại, chỉ còn chút sóng lăn tăn.
Thế nhưng lời thần chú vô cùng hùng mạnh đó lại bắt nguồn từ trí não con người, được thốt ra bằng giọng nói của con người. Will thấy ớn lạnh, khi cậu chợt hiểu ra âm mưu mới xảo quyệt của Brenin Llwyd. Sẽ không có chuyện đối đầu trực diện với hắn. Bản thân cậu sẽ không bao giờ gặp lại Vua Xám nữa, bởi vì khi hai quyền phép trái ngược nhau như vậy đối đầu với nhau thì một trong hai bên sẽ có nguy cơ bị hủy diệt. Thay vào đó, như lúc này đây, Will sẽ phải đối mặt với quyền năng của Vua Xám được truyền qua một con người ngây ngô nhưng có tâm địa xấu xa: một kẻ đã bị biến thành công cụ của Bóng Tối, không có gì để tự vệ. Nếu trong cuộc chạm trán này mà Ánh Sáng giáng xuống một đòn chí tử thì Bóng Tối sẽ vẫn được bảo vệ, trong khi trí óc của con người kia sẽ bị tàn phá vĩnh viễn. Nếu bây giờ Caradog Prichard vẫn còn tỉnh táo, thì lão sẽ rơi vào cảnh điên loạn không gì cứu chữa nổi, cho đến hết đời. Sẽ không thể làm gì khác được, trừ phi Will có thể tìm cách nào đó để tránh một cuộc đối đầu như vậy. Vua Xám đang dùng lão Prichard làm một tấm khiên che chắn, vì hắn biết rằng mình sẽ vẫn được bảo vệ ngay cả khi tấm khiên đã bị hủy diệt.
Will đau khổ kêu lên, gần như không biết là mình đang nói gì, “Caradog Prichard! Dừng lại đi! Hãy để chúng tôi yên! Vì tính mạng của chính ông, hãy để cho tôi yên!”
Nhưng cậu không thể làm gì xoay chuyển tình thế. Sự xung đột giữa họ đã có đà quá lớn, chẳng khác nào một cái bánh xe đang lăn vùn vụt xuống dốc. Caradog Prichard nhìn mặt hồ đầy nghẹt cá với vẻ thích thú ngây ngô, lão xoa xoa hai tay vào nhau, miệng liên tục lẩm bẩm bằng tiếng Wales. Lão đưa mắt về phía Will và cất tiếng cười khúc khích. Lão vẫn không ngừng nói, nhưng đã chuyển sang tiếng Anh, và các từ ngữ điên loạn tuôn ra khỏi miệng lão thành một tràng nhanh như gió.
“Mày có nhìn thấy những sinh vật đẹp đẽ kia không, hàng ngàn con, tất cả là của chúng ta và sẽ làm theo lệnh chúng ta, chúng mạnh hơn sáu con thiên nga kia, mạnh hơn là mày tưởng, phải không, dewin bach (thằng bé phù thủy)? À, mày không biết là mày đang phải đối đầu với những gì đâu, chúng ta đã chơi những trò vớ vẩn này thế là đủ lắm rồi, các bạn của ta và ta ấy, bây giờ đã đến lúc mày phải chỉ chỗ giấu con chó cho ta, con chó ấy, vì cho dù mày có định làm gì hòng cản bước chúng ta thì cũng chẳng ích gì đâu. Chẳng ích gì hết. Tao muốn có con chó, thằng bé người Anh kia, mày phải cho ta biết con chó đang ở đâu, khẩu súng tốt của ta đang ở trong xe đợi nó đây, rồi trong thung lũng này sẽ không còn chuyện cừu bị cắn chết nữa. Ta sẽ lo liệu việc đó.”
Lão quan sát Will bằng cặp mắt nhỏ tí đảo lia lịa, nom cũng giống như hai con cá nhỏ, và đột nhiên, mắt lão dừng lại trên cây đàn quấn trong bọc một lần nữa.
“Nhưng trước hết tao muốn biết thật ra mày đang ôm cái gì trong tay kia, nhóc ạ, vì thế nếu mày muốn bọn ta để cho mày yên thì hãy đưa ra đây.” Nói xong lão lại cười khúc khích, và Will biết rằng giờ cậu không còn hy vọng gì đến được sườn núi bên kia nữa, nơi an toàn nhất và thích hợp nhất để chơi cây đàn hạc vàng.
Cậu chậm rãi bước lui về phía sau, cố tình cử động thật từ từ để khỏi làm Caradog Prichard giật mình, và khi vẻ cảnh giác cuối cùng cũng thức tỉnh trong đôi mắt sáng quắc của lão nông dân thì đã quá muộn, cậu đã lôi cây đàn hạc ra khỏi cái bọc, ôm nó nghiêng nghiêng trên tay theo cách mà cậu đã thấy Bran làm trước kia, rồi đưa tay kia lướt qua những sợi dây đàn.
Và toàn bộ thế gian thay đổi.
Bầu trời đã tối hơn lúc trước, vì buổi chiều muộn đã gần ngả về đêm và những đám mây dông kéo đến dày đặc hơn. Nhưng khi những nốt nhạc du dương luyến láy phát ra từ cây đàn nhỏ và tràn ngập khắp không gian, tạo thành một giai điệu êm ái xao lòng, thì dường như có một vầng hào quang kỳ lạ dần dần tỏa ra từ mặt hồ, từ những đám mây và bầu trời, từ ngọn núi và thung lũng, từ những bụi dương xỉ và lớp cỏ. Các màu sắc trở nên tươi thắm hơn, các góc tối thì càng sâu thẳm và bí hiểm hơn; mọi hình ảnh và cảm giác đều trở nên sống động, rõ rệt hơn. Những con cá đang chen chúc trên mặt hồ cuộn sóng cũng thay đổi; từng con một đua nhau nhảy bật lên không trung rồi lại uốn mình rơi xuống, vảy bạc óng ánh, cho đến khi lòng hồ không còn trĩu nặng bởi sức nặng khủng khiếp của những con vật nằm lờ đờ nữa, mà sinh động hẳn lên với những dải bạc sáng lấp lánh đang nhảy nhót.
Từ trên bầu trời, ở đầu thung lũng gần biển, một âm thanh khác vang lên, vọng tới mặt hồ, hòa cùng những hợp âm rải nhịp nhàng qua lại của cây đàn trong khi Will khe khẽ đưa ngón tay lướt qua những sợi dây. Đó là một tiếng kêu chói tai, giống như tiếng chim hải âu. Rồi, những con chim cốc lông đen chao liệng bay tới thành từng đôi hoặc từng nhóm, không theo đàn, tạo thành một hình elip kỳ lạ, tất cả có khoảng hai mươi hoặc ba mươi con, Will chưa bao giờ thấy nhiều chim cốc bay cùng nhau đến thế.
Chúng là vua của loài chim bắt cá ở biển, thường không bao giờ xuất hiện trong đất liền, giữa những vách đá và mỏm núi, vậy mà giờ đây chúng lại đang là là bay trên mặt hồ Llyn Mwyngil và chộp lấy những con cá đang nhảy lên. Will chợt nhớ Bran đã kể với cậu rằng Mỏm đá Tổ chim, Craig yr Aderyn, là nơi duy nhất trên thế giới chim cốc lại bay vào đất liền để xây tổ, vì trên bờ biển trong lãnh địa của Vua Xám không có các vách đá thích hợp cho chúng làm tổ, chỉ toàn là các bãi sỏi đá và những đụn cát.
Chúng lướt xuống. Những con cá lấp lánh nhảy lên; đàn chim cốc nuốt chửng lấy chúng; quay đi; rồi lại lao xuống và chộp lấy những con cá khác. Caradog Prichard thốt ra một tiếng kêu bực tức như một đứa bé không được chiều ý. Ánh hào quang kỳ lạ kia vẫn tỏa sáng khắp thung lũng. Ngón tay của Will không ngừng lướt trên dây đàn, tiếng nhạc phát ra chậm rãi và trong trẻo như nước suối mùa xuân. Một nỗi căng thẳng xâm chiếm cậu, đau nhói như điện giật, một sự mong đợi mãnh liệt đối với những điều kỳ diệu gì chưa biết sẽ xảy ra; cậu thấy khắp người căng ra như thể tất cả các sợi tóc đều đang dựng đứng lên.
Thế rồi, bất thình lình, tất cả tôm cá biến mất, mặt hồ lại nhẵn bóng như một tấm kính sẫm màu, đàn chim cốc cũng lao vút lên một đám mây và bay đi, miệng kêu ầm ĩ, rồi biến mất phía trên khoảng thung lũng rộng dẫn về Mỏm đá Tổ chim. Và qua ánh sáng mờ ảo nửa như ánh sáng ban ngày, nửa như ánh trăng, đang bao trùm khắp thung lũng, Will nhìn thấy sáu hình người đang hiện lên.
Đó là sáu kỵ sĩ đang ngồi trên lưng ngựa. Họ phóng ra từ trong núi, từ trên các sườn núi thấp của ngọn Cader Idris vươn từ bờ hồ lên đến pháo đài của Vua Xám. Những dáng người ấy có màu xám bạc long lanh, cưỡi những con ngựa cũng có màu lờ mờ kỳ lạ như vậy, họ phi qua mặt hồ mà không chạm vào nước, không tạo ra một tiếng động nào. Tiếng đàn bao bọc lấy họ, và khi họ lại gần, Will thấy họ đang mỉm cười. Họ mặc áo dài ngang gối, bên ngoài khoác áo choàng. Người nào cũng có đeo bên hông một thanh gươm. Hai người có mũ trùm. Một người đội trên đầu một chiếc vòng vàng, dấu hiệu của dòng dõi quý tộc, nhưng không phải là chiếc vương miện của một vị vua. Người đó quay về phía Will, trong khi nhóm kỵ sĩ mờ ảo phóng qua, và cúi đầu chào, cái miệng giữa chòm râu rậm mỉm cười. Tiếng nhạc từ cây đàn trên tay Will lan tỏa ra xung quanh thung lũng như tiếng chuông, và Will nghiêm trang cúi đầu đáp lại, nhưng không hề ngừng chơi.
Sáu người kỵ sĩ phóng ngựa qua chỗ Caradog Prichard, lão đang đứng há hốc miệng, đờ đẫn nhìn cái hồ, tìm kiếm những con cá thần kỳ đã biến mất, rõ ràng là không nhìn thấy gì khác. Lão ta có quyền lực của Vua Xám, Will thầm nghĩ, nhưng không có cặp mắt của hắn... Rồi các kỵ sĩ đột ngột vòng về phía sườn núi, và Will chưa kịp cảm thấy kinh ngạc thì cậu đã thấy Bran đứng trên con dốc, ở khoảng giữa đám đá răm, gần gờ đá đã chặn đứng cú ngã của cậu sáng sớm hôm ấy. Chú chó chăn cừu màu đen, Pen, đang đứng bên cạnh nó, và phía sau, đang khó nhọc leo lên dốc, là Owen Davies, người còng xuống đầy mệt mỏi, trên mặt ông cũng là cái vẻ đờ đẫn giống như của Caradog Prichard. Người trần không thể nhìn thấy các Người Say Ngủ vừa được đánh thức sau bao nhiêu thế kỷ dài yên nghỉ, và giờ đang thúc ngựa lên đường để cứu thế gian khỏi Bóng Tối trỗi dậy.
Nhưng Bran thì lại nhìn được.
Nó đứng ngắm các Người Say Ngủ với một vẻ vui sướng sáng bừng trên khuôn mặt tái nhợt. Nó giơ một tay lên chào Will, rồi dang rộng cả hai tay ra làm một cử chỉ khen tiếng đàn của cậu. Trong giây lát ấy, nom nó chẳng khác gì một cậu bé bình thường đang kinh ngạc vì được chứng kiến một cảnh tượng tuyệt diệu, phi thường.
Nhưng chỉ trong giây lát thôi. Sáu kỵ sĩ, sáng lên màu xám bạc trên những con ngựa cũng có màu xám bạc, vòng quanh vị chỉ huy của họ và dừng lại thành một hàng phía trước sườn núi nơi Bran đang đứng. Họ tuốt gươm ra và đặt gươm thẳng đứng trước mặt để chào, rồi hôn lên lưỡi kiếm như để tỏ lòng tôn kính một vị vua. Và Bran đứng đó, người mảnh dẻ vươn thẳng như một cây non, mái tóc trắng sáng rực lên như bạc, rồi nghiêm trang cúi đầu với họ, oai nghiêm như một vị vua vừa ban ân huệ cho quần thần.
Họ lại tra gươm vào vỏ và quay đi, sáu con ngựa màu xám bạc lao vút lên trời. Những Người Say Ngủ, đã được đánh thức và lên đường, bay cao bên trên mặt hồ rồi phóng đi xa dần, xa mãi, chìm vào bóng tối đang kéo đến ở đèo Tal y Llyn, rồi đi xa hơn, cho đến khi họ rời thung lũng, rời nơi còn xa hơn thế, và biến mất khỏi tầm mắt.
Lúc ấy những ngón tay Will mới ngừng lại trên cây đàn hạc vàng, và giai điệu du dương của nó tắt ngấm, chỉ còn lại tiếng gió rì rào. Cậu cảm thấy mệt lử, như thể bao nhiêu sức lực đã bị vắt kiệt cả. Lần đầu tiên cậu mới nhớ ra rằng mình không chỉ là Cổ Nhân, mà còn là một người ốm đang dưỡng sức, vẫn còn yếu vì vừa thoát khỏi một cơn bệnh kéo dài, chính vì nó mà cậu mới được gửi đến xứ Wales.
Trong khoảnh khắc ấy, cậu cũng nhớ lại những gì John Rowlands đã nói về sự lạnh lùng trong thâm tâm của phe Ánh Sáng, và cậu chợt nhận ra rằng cậu đã ốm đột ngột và nặng như vậy là vì cái gì. Nhưng tất cả chỉ là trong thoáng chốc mà thôi. Đối với một Cổ Nhân thì những chuyện ấy không còn quan trọng nữa.
Bỗng nhiên cậu bị đẩy sang bên, và một bàn tay thô bạo giật lấy cây đàn hạc vàng trên tay cậu. Quyền năng của Vua Xám hình như đã rời bỏ Caradog Prichard, nhưng lão cũng không còn giống như trước nữa.
“Thì ra tất cả những chuyện này chỉ là vì cái này,” lão Prichard khó nhọc nói. “Một cây đàn hạc chó chết, một cây đàn bằng vàng, giống như cái cô ả đã chơi.”
“Trả nó đây,” Will nói. Rồi cậu chợt ngừng lại. “Cô ả ấy à?”
“Đó là một cây đàn hạc xứ Wales, thằng nhóc người Anh ạ, một cây đàn cổ.” Lão Prichard trợn mắt lên ngắm cây đàn. “Sao nó lại lọt vào tay mày? Mày chẳng có quyền gì mà được sờ vào một cây đàn hạc xứ Wales cả.” Đột nhiên lão lại trừng mắt nhìn Will vẻ hung ác. “Xéo về nhà đi. Cút về chỗ của mày ấy. Đừng xía vào việc của người khác.”
Will nói, “Cây đàn đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông nói, nghĩa là sao?”
(*) giống như cái cô ả đã chơi
“Đừng có xía vào việc của người khác,” lão Prichard dữ dằn nhắc lại. “Đó là chuyện đã lâu lắm rồi, chẳng liên quan gì đến mày hết.”
Qua khóe mắt Will có thể trông thấy Owen Davies đã đến bên Bran ở trên sườn núi, và con Pen bồn chồn chạy đi chạy lại giữa hai người. Cậu tuyệt vọng cố truyền tín hiệu cho Bran, bảo nó lẩn đi, tránh khỏi tầm mắt; cậu không thể hiểu tại sao nó lại đứng giữa chỗ lộ liễu như vậy, ở đó thì chỉ cần liếc một cái là Caradog Prichard đã nhìn thấy tất cả. Tránh đi! cậu hét thầm trong đầu. Hãy đi khỏi đây đi! Nhưng đã quá muộn. Cái gì đó, có lẽ là những bước chân qua lại đầy lo lắng của chú chó chăn cừu, đã làm lão Prichard chú ý; lão đưa mắt nhìn lên núi vẻ gần như vô thức, và lập tức đứng như trời trồng.
Toàn bộ khoảnh khắc ấy như in dấu vào đầu Will, đến nỗi mãi về sau này cậu vẫn còn cảm thấy nỗi kinh hoàng ầm vang báo trước tai họa sắp đến, vẫn còn mường tượng ra, như trông thấy một bức tranh rực sáng vẽ hình bầu trời xám xịt nặng nề, ngọn núi đang vươn lên, mặt hồ tối sẫm gợn sóng, với hai mảng màu nổi bật là mái tóc trắng của thằng bé cùng bộ tóc đỏ rực của lão già kia: và bao trùm lên tất cả là vầng hào quang kỳ lạ, tựa ánh sáng cảnh báo tỏa lên vùng đồng quê trước một trận bão khủng khiếp.
Caradog Prichard quay về phía cậu, trên mặt là một vẻ đáng sợ pha trộn giữa giận dữ, trách cứ cùng với đau đớn, và ở trong thâm tâm là một nỗi căm hờn sâu thẳm cùng mong muốn được trả thù cho nỗi đau đó. Lão nhìn thẳng vào mặt Will, rồi vung tay về phía sau và ném cây đàn hạc vàng thật xa vào giữa mặt hồ. Gợn nước trên mặt hồ sẫm tối tỏa ra thành những vòng tròn nối tiếp nhau, và lại bằng phẳng như cũ.
Sau đó lão Prichard vùng chạy đi, nhẹ nhàng như một thằng nhãi, lao về phía ngọn núi, về phía Bran đang đứng tựa một bức tượng chạm ở mũi tàu, với con Pen ở bên. Khi đến ngay phía trước con dốc, lão lại rẽ sang bên và chạy dọc theo con đường uốn lượn dẫn về thung lũng; Will thấy rằng lão đã đỗ chiếc xe tải màu xám lại đây và giờ đang phóng hết tốc lực về phía đó.
Cùng lúc ấy cậu cũng hiểu ra lão chạy đến chỗ cái xe để làm gì, và liền ném vào lão Prichard một bùa phép ngăn cản thật mạnh - nhưng nó lập tức bị gạt sang bên bởi phép bảo vệ của Vua Xám mà lão nông dân vẫn mang trên mình tuy không biết. Caradog Prichard đã đến chỗ cái xe tải, giật mở cửa sau và lấy ra khẩu súng săn nòng dài, chính là khẩu súng lão đã dùng để bắn chết chú chó Cafall của Bran. Lão nhanh nhẹn lên cò súng, rồi quay ngoắt lại và bắt đầu đi chậm rãi, chân bước đều đều, về phía thằng bé và con chó đang đứng trên đồi. Giờ thì lão chẳng việc gì phải vội nữa. Không có chỗ ẩn náu nào cho chúng chạy tới trốn cả.
Will siết chặt nắm đấm làm móng tay cắm vào lòng bàn tay, trong khi cậu cố vắt óc nghĩ ra một cách tự vệ nào đó. Rồi cậu nghe thấy tiếng một chiếc ô tô khác ầm ầm chạy tới. Chiếc Land-Rover đang vùn vụt lao trên con đường chạy qua Trang Trại Ty-Bont, với tốc độ chóng mặt, rồi vòng qua khúc quanh dẫn đến bờ hồ. Hẳn là ông John Rowlands đã nhìn thấy Prichard, chiếc xe tải và khẩu súng của lão trong cùng một giây phút kinh hoàng, vì chiếc xe con thấp và ngắn xông tới rồi phanh kít lại gần như ngay sát chân lão ta. Cánh cửa xe vừa hé mở, dáng người cao gầy của John Rowlands đã lao ra. Ông đứng yên, đối mặt với Caradog Prichard cùng với thằng bé và con chó trên sườn đồi phía trên.
“Caradog,” ông nói. “Ở đây không có con cừu nào bị cắn rách cổ cả. Ông không có quyền làm như thế này, và cũng không cần phải làm thế.”
Giọng lão Prichard vang lên the thé, đầy dữ tợn. “Trên đó giờ đang có một con cừu chết!” Và Will thấy là xác con cừu cái bị bọn milgwn tấn công vẫn còn nằm trên gờ đá thành một đống trắng toát, có thể nhìn thấy được từ vị trí của họ. Giờ thì cậu mới hiểu ra tại sao Vua Xám lại ra lệnh cho bầy milgwn của mình tha con cừu đến chỗ đó.
“Đó là một con cừu của trại Pentref, thuộc đàn cừu đang trú đông ở Clwyd,” John Rowlands nói.
“Còn khướt,” lão Prichard gầm gè đáp.
“Tôi sẽ chỉ cho ông thấy. Lên mà xem.”
“Ngay cả có đúng thế đi chăng nữa thì cũng liên quan gì nào? Tất cả những chuyện cắn giết ấy đều là do con chó khốn nạn của mày gây ra - nó cắn cả cừu do chính mày trông coi, phải không? Mày làm sao vậy, Rowlands, sao mày vẫn còn giữ nó?”
Mặt bóng nhẫy mồ hôi vì giận dữ, lão Prichard đưa súng lên ngang hông và quay lại đối diện với sườn núi.
“Không” John Rowlands lên tiếng sau lưng lão, giọng trầm hẳn xuống.
Như có cái gì đó trong tâm trí Caradog Prichard nứt vỡ, và lão quay phắt lại đối mặt với ông Rowlands, khẩu súng vẫn giương lên. Giọng lão càng cao lên hơn, lão giống như một sợi dây căng quá đến độ sắp đứt.
“Lúc nào mày cũng dính mũi vào chuyện của người khác, John Rowlands ạ. Bây giờ mày lại định ngăn ta lại, cũng như trước kia chứ gì. Lẽ ra lúc ấy mày không được ngăn cản ta, ta đã có thể nện cho hắn một trận và chiến thắng, và rồi cô ả sẽ phải theo ta. Lẽ ra cô ả đã theo ta rồi, nếu như không vì mày xía vào”
Lão siết chặt khẩu súng đến nỗi bàn tay trắng bệch hết cả; những lời lão thốt ra gấp gáp đến nỗi lời nọ vấp lời kia. John Rowlands đứng lặng đi, nhìn lão trân trối, và Will thấy vẻ kinh ngạc trên khuôn mặt khắc khổ, hiền hậu của ông dần dần được thay thế bởi vẻ thấu hiểu, khi ông nhận ra Prichard đang nói về chuyện gì.
Nhưng ông chưa kịp đáp lại thì giọng nói của Owen Davies đã vang lên từ sườn núi trên đầu họ, mạnh mẽ và rõ ràng đến không ngờ, nghe như tiếng chuông. “Không đâu, không đâu, cô ấy sẽ không đi theo ông đâu, Caradog. Không bao giờ. Ông không thể thắng được trong vụ đánh nhau ấy, có cả trăm năm nữa ông cũng không thể thắng được, và may cho ông là John Rowlands đã can thiệp vào. Khi ấy tôi không biết mình đang làm gì, nhưng tôi lẽ ra đã giết chết ông nếu có thể, vì ông đã dám làm hại Gwen của tôi.”
“Gwen của mày ấy à?” Lão Prichard nói như nhổ vào mặt ông. “Có mà là Gwen của bất kỳ thằng đàn ông nào cũng được ấy! Chuyện ấy rõ ràng như ban ngày rồi. Nếu không thì tại sao cô ả lại chọn một thằng như mày, hả Owen Davies? Một con bé xinh đẹp hoang dại như thế, từ trên núi xuống, với khuôn mặt như hoa, và bàn tay thì có thể tạo ra một tiếng nhạc không giống với bất kỳ tiếng nhạc nào ta đã từng được nghe, từ cây đàn hạc đem theo bên mình...”
Trong thoáng chốc, trong giọng nói của lão có một nỗi khát khao vô bờ. Nhưng gần như ngay tức thì, bộ mặt nhăn nhúm, quằn quại, điên dại của lão lại trở nên nham hiểm như cũ. Lão liếc nhìn mái tóc trắng của Bran.
“Còn thằng con hoang kia, mày đã giữ nó ngần ấy năm chỉ để tra tấn ta, để nhắc cho ta nhớ lại - mày cũng chẳng có quyền nuôi nó, ta đã có thể trông nom cô ấy và đứa bé tốt hơn mày nhiều...”
Bran lên tiếng, giọng xa vắng như vọng ra từ trong quá khứ, khiến Will ớn lạnh xương sống: “Và khi ấy thì ông có bắn chết con chó của tôi không, ông Prichard?"
“Con chó ấy cũng cóc phải là của mày,” lão Prichard cộc cằn nói. “Nó là con chó của bố mày.”
“Ồ, đúng thế,” Bran nói, vẫn với cái giọng trong trẻo mà xa xăm ấy. “Đúng như vậy. Cha tôi có một con chó tên là Cafall.”
Máu trong người Will bừng lên, vì cậu biết con Cafall mà Bran nói đến không phải là chú chó Cafall đã bị bắn chết, và người cha đó cũng không phải là Owen Davies. Như vậy có nghĩa là Bran, vị Pendagron, hẳn đã biết được dòng dõi đích thực của mình, một dòng dõi vĩ đại nhưng cũng vô cùng khủng khiếp. Rồi một điều cuối cùng chợt nảy ra trong đầu Will, khiến cậu kinh ngạc. Chắc hẳn Owen Davies là người đã đặt tên cho chú chó bị bắn chết là Cafall, bởi vì Bran nói rằng Cafall đã đến với hai bố con khi bản thân thằng bé hãy còn nhỏ. Tại sao Owen Davies lại đặt tên cho con chó của con trai mình theo tên con chó của vị vua vĩ đại?
Cậu đưa mắt nhìn dáng người gầy guộc dễ mến của Owen Davies, và thấy rằng ông cũng đang nhìn cậu.
“Ồ, phải,” ông Davies nói. “Tôi biết. Tôi đã cố không tin đó là sự thật, nhưng tôi đã luôn biết như vậy. Nàng đến từ Cader Idris, và trong tiếng Anh thì ngọn núi đó được gọi là Ngai Vàng của Vua Arthur. Nàng đã đến từ quá khứ, với con trai của Arthur, bởi vì nàng đã phản bội nhà vua, đức lang quân của mình, và sợ rằng vì thế người sẽ từ bỏ đứa con trai của chính mình. Nhờ vào phép thuật của vị dewin đã đưa thằng bé đến tương lai, rời xa mọi đau khổ của họ - tương lai, có nghĩa là thời hiện tại của chúng ta. Và nàng đã để nó lại. Và có lẽ, có lẽ nàng đã không phải quay về quá khứ, nếu như lão già béo phị ngu ngốc kia không xía vào, nghe thấy tiếng đàn hạc, thèm muốn nàng Guinevere(1) của tôi, và tìm cách bắt nàng đi.”
(*) 1
Guinevere là vợ của vua Arthur. Guinevere ngoại tình với Lancelot, một hiệp sĩ thân tín của Arthur. Sự phản bội này khiến Arthur suy sụp và sau đó bị giết trong chiến trận. Sau cái chết của Arthur, Guinevere lui về sống ẩn dật trong một tu viện.
Ông lạnh lùng cúi xuống nhìn Caradog Prichard. Với một tiếng gầm gừ giận dữ, Prichard đưa khẩu súng lên vai, nhưng John Rowlands lập tức đưa cánh tay dài ra giật lấy khẩu súng trước khi ngón tay lão kịp bóp cò. Prichard điên cuồng gào lên, đẩy mạnh ông một cái và lao đi, trèo lên gờ đá nơi Bran và Owen Davies đang đứng, trong cơn thịnh nộ hiểm độc.
Bran chạy đến bên ông Davies, vòng tay ôm lấy ông và đứng sát vào ông. Đó là lần đầu tiên Will thấy hai bố con có một cử chỉ tỏ ra âu yếm nhau. Một vẻ ngạc nhiên ngỡ ngàng nhưng đầy yêu thương hiện lên trên khuôn mặt mệt mỏi của Owen Davies, khi ông nhìn xuống mái tóc trắng của thằng bé, và hai bố con cùng đứng yên, chờ đợi.
Lão Prichard leo lên chỗ họ, mắt lóe lên đầy sát khí. Nhưng John Rowlands đã bám sát phía sau lão. Ông giơ khẩu súng lên tựa một cây gậy, đập vào Prichard, gạt lão sang bên, rồi túm lấy lão, giữ chặt lão với sức lực như của một người trẻ tuổi hơn nhiều. Caradog Prichard điên cuồng vùng vẫy, nhưng đã bị túm chặt không còn cựa quậy gì được, rồi lão ngửa đầu về phía sau, thét lên một tiếng man dại khủng khiếp khi quyền năng Bóng Tối rời bỏ người lão, và trí óc lão mãi mãi chìm vào cảnh tàn phế. Những người Say Ngủ đã lên đường, hy vọng hòng làm hại Bran cũng không còn nữa, Vua Xám cuối cùng đành phải bỏ cuộc.
Tiếng thét của lão Prichard vang vọng khắp dãy núi, biến thành một tiếng hú dài vang cao, hạ xuống, rồi lại vang lên, vọng từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác, trong khi mọi quyền lực của Bóng Tối vĩnh viễn rời bỏ núi Cader Idris, rời bỏ thung lũng Dysynni, rời bỏ hồ Tal y Llyn. Lạnh lẽo chẳng khác nào cái chết, đau đớn tựa mọi nỗi mất mát trên toàn thế gian, tiếng kêu ấy đã tắt ngấm rồi mà như vẫn còn vọng lại trong không gian.
Tất cả mọi người đứng bất động, kinh hoàng.
Và màn sương mà người ta gọi là hơi thở của Vua Xám kéo xuống từ trên đèo, từ hai bên sườn núi, cuộn xoáy thành từng dải mỏng, che kín hết thảy những nơi nó tràn đến, cho tới khi rốt cuộc họ không còn thấy nổi mặt nhau nữa. Một âm thanh sột soạt hốt hoảng vang lên trong màn sương, nhưng chỉ mình Will là nhìn thấy được hình thù xám mờ khổng lồ của những con cáo ma, bầy milgwn của Brenin Llwyd, đang lao từ trên núi xuống mặt hồ, và biến mất.
Rồi màn sương khép lại bên trên Llyn Mwygnil, hồ nước tươi đẹp, và một sự im lặng lạnh lẽo bao trùm lên khắp thung lũng, chỉ thỉnh thoảng mới nghe thấy vẳng lại tiếng be be của một con cừu, nghe như tiếng một chàng trai đang gọi tên một cô gái, vọng về từ rất xa.
***Những hình ảnh hỗn độn thoắt ẩn thoắt hiện trong đầu cậu: những con sóng lớn ầm ầm vỗ vào một bờ biển đầy sỏi đá... ánh sáng màu lục dưới lòng biển, trong lãnh địa của Tethys, nơi ở của những sinh vật kỳ lạ... rồi đến một mặt biển hiền hòa hơn, với những con sóng dài chậm rãi vỗ vào một bãi biển cát vàng dài vô tận. Bờ biển... bãi biển... bãi biển... Rồi hình ảnh đó nhòa đi, thay đổi. Nó biến thành hình ảnh một rừng cây xanh lốm đốm nắng đầy những cây cổ thụ nhiều mấu xù xì, các thân cây to bè phủ một thứ vỏ xám nhạt nhẵn mịn kỳ lạ. Các tán lá xao động trên đầu, những phiến lá non mềm xanh mượt như thể mang trong mình mọi nguồn nhựa sống của mùa xuân. Một tiếng reo đắc thắng vang lên trong đầu Will.
“Bờ biển,” cậu nói. “Bãi biển nơi sóng biển vỗ tới. Nhưng nó cũng là một loại gỗ, với thớ gỗ nhẫn mịn, được dùng làm tay cầm của chiếc đục, làm chân ghế, làm cán chổi và miếng đệm lót trên yên cương của con ngựa thồ. Và tôi dám thề rằng hai chiếc rương nằm giữa ngai của các ngài được chạm khắc từ thứ gỗ ấy. Nơi duy nhất nó không được dùng đến đó là dưới bầu trời, trên mặt biển rộng, bởi vì thứ gỗ này sẽ mất hết mọi tính năng tốt nếu bị ngấm nước. Lời giải đáp cho câu đố của ngài, thưa chúa tể, chính là gỗ của cây sồi
(*) (Một câu đố mẹo: trong tiếng Anh, bãi biển (beach) và cây sồi (beech) đọc giống nhau.)”
Lửa bùng lên sau lưng chúng, và đột nhiên cả căn phòng bừng sáng. Niềm vui nhẹ nhõm dường như tràn ngập khắp không khí. Hai vị chúa tể áo xanh đứng lên khỏi ngai và đến bên vị chúa tể thứ ba: họ vươn lên bên trên hai thằng bé như ba tòa tháp, mặt vẫn bị che kín bởi chiếc mũ trùm. Rồi vị chúa tể thứ ba lật chiếc mũ trùm trên cái áo choàng màu xanh sẫm của mình xuống, để lộ ra một gương mặt dữ dằn với cái mũi diều hâu, cặp mắt sâu và mớ tóc bạc trắng bù xù. Và cùng lúc ấy tấm rào chắn của Pháp Thuật Tối Cao ngăn cản cậu nhận ra người đó cũng sụp đổ.
Will sung sướng kêu lên, “Ông Merriman!”
Cậu lao về phía dáng người cao lớn đó như đứa con lao đến bên cha mình, và siết chặt hai bàn tay đang chìa ra của ông. Merriman mỉm cười với cậu.
Will cười lên thành tiếng vì vui mừng. “Cháu đã biết,” cậu nói. “Cháu đã biết mà. Thế nhưng...”
“Xin chào, Cổ Nhân,” ông Merriman nói. “Giờ thì cậu đã thực sự thuộc về vòng Liên Kết rồi, nhờ có sứ mệnh này. Nếu cậu không may thất bại trong phần sứ mệnh này, thì hẳn mọi việc khác cũng sẽ vĩnh viễn không được hoàn thành.” Những đường nét khắc khổ, nghiêm nghị trên mặt ông dịu dàng hẳn đi vì âu yếm; cặp mắt tối sẫm của ông sáng rực lên như hai ngọn đuốc đen. Rồi ông quay sang Bran, nắm lấy vai nó. Bran ngước lên nhìn ông, mặt tái nhợt, vô cảm.
“Và người thiếu niên ô thước,” giọng nói trầm trầm của ông nhẹ nhàng nói. “Vậy là chúng ta lại gặp nhau. Cậu đã hoàn thành nhiệm vụ của mình rất xuất sắc, đúng như lời tiên tri đã đoán trước. Hãy kiêu hãnh ngẩng cao đầu lên, Bran Davies. Cậu mang trong mình một dòng dõi vô cùng danh giá. Chúng ta đã đòi hỏi rất nhiều ở cậu, và rồi chúng ta sẽ còn đòi hỏi hơn thế. Hơn thế rất nhiều.”
Bran đăm đăm nhìn ông Merriman bằng cặp mắt như mắt mèo, nhưng không nói gì. Khi lắng nghe tâm trạng của thằng bé người Wales, Will cảm nhận được một niềm vui sướng nửa bối rối, nửa lo ngại.
Merriman lùi lại một bước. Ông nói, “Ba vị Chúa Tể của Pháp Thuật Tối Cao đã là người bảo hộ của chiếc đàn hạc vàng từ nhiều thế kỷ nay. Ở đây thì không có danh tính gì, trong sứ mệnh ấy không phe nào có lợi thế hơn. Nơi này, cũng như nhiều nơi khác mà cậu còn chưa biết đến, đều thuộc về quyền cai quản của Luật Lệ Tối Cao. Việc ta là Chúa Tể Ánh Sáng thì không có gì là quan trọng, cũng như việc một người đồng sự của ta ở đây lại là Chúa Tể Bóng Tối”
Ông khẽ cúi đầu vẻ châm biếm để chào người cao lớn mặc chiếc áo choàng xanh nhạt nhất. Will nghẹn thở vì nỗi lo sợ bất ngờ, và tìm kiếm gương mặt xương xương bên dưới bóng chiếc mũ trùm. Nhưng gương mặt đó đang quay đi khỏi cậu, hướng về phía bóng tối của gian đại sảnh.
Người ở giữa trong chiếc áo màu nước biển tiến về phía trước một bước. Ở người đó có một vẻ oai nghiêm lặng lẽ nhưng hùng mạnh vô cùng, như thể người hết sức tự tin, tự tin mà không chút phô trương, rằng mình chính là chủ nhân của gian sảnh này. Người lật chiếc mũ trùm xuống, để cho họ thấy được toàn vẹn sức mạnh và vẻ hiền từ trên khuôn mặt có chòm râu rậm ấy. Mặc dù bộ râu của người đã bạc, tóc người thì vẫn còn nguyên sắc nâu, chỉ hơi điểm một chút xám. Người có vẻ đã ở tuổi trung niên, sức lực thì vẫn chưa bị giảm sút, trong khi sự thông thái thì đã tăng thêm nhiều. Thế nhưng, Will tự nhủ, ngài không phải là người thường…
Merriman kính cẩn nghiêng đầu và bước sang một bên. “Bệ hạ,” ông nói.
Will trố mắt nhìn, cuối cùng cậu cũng đã bắt đầu hiểu ra.
Bên cạnh Bran, chú chó Cafall lại rít lên một tiếng ư ử đầy tận tụy giống như lúc trước. Vị chúa tể có chòm râu đưa cặp mắt xanh sáng trong nhìn xuống Bran, và khẽ nói, “Vận may sẽ bảo hộ cho con trên lãnh địa của ta, hỡi con trai ta.”
Rồi, khi Bran bối rối nhìn ngài, vị chúa tể lại vươn người đứng thẳng và lên giọng. “Will Stanton” ngài gọi. “Giữa các ngai của chúng ta có hai chiếc rương. Cậu hãy mở chiếc rương ở bên phải ta, và lấy đi vật nằm trong đó. Còn chiếc rương kia thì vẫn phải khóa kín, để phòng khi cần đến, vào một thời điểm khác, mà ta hy vọng rằng sẽ không bao giờ tới. Lại đây.”
Ngài quay sang bên, đưa tay ra chỉ. Will đi đến chỗ cái rương lớn chạm trổ, quay cái chốt bằng sắt rèn cầu kỳ của nó, rồi đẩy cái nắp mở ra. Rương quá rộng, và phiến gỗ chạm trổ dùng làm nắp của nó lại quá nặng, đến nỗi cậu phải quỳ xuống và vận hết sức ở cả hai cánh tay ra để đẩy; nhưng khi Bran toan chạy lại giúp thì cậu lắc đầu từ chối để cảnh báo cho nó biết là không được phép.
Dần dần nắp rương nặng trịch cũng được nâng lên, rồi mở ra, và một âm thanh réo rắt như tiếng hát vang lên trong không khí trong chốc lát. Rồi Will đưa tay vào trong rương, và khi cậu đứng thẳng lên thì trong hai tay cậu là một chiếc đàn hạc nhỏ vàng rực, lấp lánh.
Tiếng nhạc khẽ khàng trong gian sảnh nhỏ đi rồi biến mất, nhường chỗ cho một tiếng gầm gừ lớn dần lên, như tiếng sấm từ xa vẳng lại. Âm thanh ấy mỗi lúc một to hơn, tiến đến gần hơn. Vị chúa tể trong chiếc áo choàng màu xanh da trời nhạt nhất, mặt vẫn bị che kín, lùi ra xa khỏi họ. Y túm lấy vạt áo của mình và vung tay lên, quấn chặt nó quanh người.
Đống lửa kêu lên xèo xèo rồi tắt ngấm. Khói bốc lên mù mịt cả gian sảnh, tối đen, khét lẹt. Sấm sét ầm vang khắp nơi. Và vị chúa tể trong chiếc áo màu xanh da trời thét lên một tiếng giận dữ, rồi biến mất.