DẦU SAO NÓ VẪN CÓ!
Nửa đầu cuộc họp trọng thể của hội các nhà bác học để nghe thông báo của các nhân viên trong đoàn thám hiểm đi tìm bá tước Tôn và những người cùng đi với ông ta bị mất tích, đã sắp kết thúc. Trên diễn đàn, cạnh bức tường có trang trí các chân dung lớn của những người bảo trợ có chức tước và các vị chủ tịch của hội, là một sĩ quan hàng hải. Ông này đã từng dũng cảm vượt Bắc Băng Dương trên một con thuyền độc mộc, từ quần đảo Nôvôsibirơxcơ đến đảo Bennet, đây là nơi cuối cùng mà bá tước Tôn dừng lại, và không thấy trở về. Chiếc chao đèn màu xanh hắt bóng mờ lên khuôn mặt rắn rỏi, dầu dãi phong sương của người đang nói, rọi ánh sáng lên bản báo cáo đặt trên diễn đàn và lên bộ đồng phục hàng hải có khuy và huân chương bằng vàng của ông ta.
Các ủy viên Hội đồng của hội đang ngồi sau một chiếc bàn dài phủ khăn xanh đặt ở phía trước diễn đàn. Họ đều là những nhà bác học lỗi lạc và những nhà du hành nổi tiếng, hiện đang sinh sống tại thủ đô phía bắc 1 . Vị chủ tịch ngồi ở giữa. Mắt ông nhắm nghiền, hình như giọng nói nhẹ nhàng của diễn giả đã làm cho ông ta thiu thiu ngủ. Căn phòng nhỏ chật ních người.
Báo cáo viên đã miêu tả bước đường của đoàn thám hiểm đi cứu nạn, cuộc hành trình khó khăn khi họ phải dùng những xe trượt tuyết do chó kéo để chở chiếc thuyền độc mộc nặng nề từ lục địa đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ, vượt qua vùng băng giá ven Bắc cực. Ông tả lại mùa hè trên đảo Côtennưi trong lúc chờ phá băng, việc đi dọc theo bờ biển rất gian khổ, và vượt qua biển để đến đảo Bennet một cách táo bạo.
Ông nêu lên đặc điểm của hòn đảo ảm đạm, quanh năm phủ đầy băng tuyết đó và kể lại việc tìm thấy căn lều nhỏ của Tôn và những vật mà Tôn đã để lại trong lều cùng với tài liệu ghi chép về đảo kết thúc bằng những dòng chữ: “Hôm nay chúng tôi đang lên đường về phương nam. Có đủ thức ăn cho khoảng 15 đến 20 ngày. Tất cả đều khỏe mạnh.”
- Như thế là - báo cáo viên cao giọng tuyên bố - ngày 26 tháng 10 năm 1902, bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Vatxili Gôrôkhôp, người Iacut, và Nhicolai Điacônôp, người Tunggut đã rời đảo Bennet vượt qua băng tuyết đi về phương nam, theo hướng quần đảo Novôxibirơxcơ. Nhưng họ không bao giờ tới đích. Chúng tôi biết vậy, bởi vì chúng tôi không tìm ra một dấu vết nào cả. Thế thì điều gì đã xảy ra đối với các nhà du hành can trường ấy? Không còn nghi ngờ gì nữa, họ đã chết trên đường đi. Vào cuối tháng mười, trên các vĩ tuyến ấy, ban ngày không có ánh sáng trời chỉ sáng mờ mờ vào khoảng hai ba giờ lúc ban trưa. Băng giá tới 40 độ; hay có bão tuyết dữ dội. Nhưng mặt biển chưa hoàn toàn bị bao phủ bởi băng giá và có nhiều hồ nước. Các nhà du hành có thể rơi vào một trong những hồ nước mới đóng băng ấy giữa lúc có bão tuyết rồi mất hút. Hoặc họ có thể chết vì kiệt sức, hay lả đi vì đói, và vì băng giá trong khi phải chống chọi với các tảng băng. Vì không có chó, họ buộc phải kéo lê những xe trượt tuyết nặng trĩu, xuồng và đồ đạc. Hoặc cuối cùng, gặp một cơn bão, họ chết đuối trong đêm đen Bắc cực giữa lúc cố gắng vượt qua vùng biển chưa đóng băng trên những chiếc xuồng mỏng manh, Bằng cách nào thì họ cũng yên giấc ngàn thu dưới đáy Bắc Băng Dương, còn như tôi đã cố gắng chứng minh cho các vị: Vùng đất Xannhicôp mà Tôn đi tìm từ lâu nay, thực ra không có.
Người nói bước khỏi diễn đàn. Câu kết luận của ông ta đã làm cho những người nghe ngán ngẩm. Bỗng người ta nghe thấy một giọng nói to từ phía hàng ghế cuối vọng lên; Dầu sao - tôi bảo là - nó vẫn có! Cả gian phòng náo động. Người ta nghe thấy những câu hỏi:
- Ai thế? Sao kỳ quặc vậy?
Vị chủ tịch nghiêm nghị nhìn quanh và rung chuông. Khi trật tự đã trở lại, ông ta nói giọng oai nghiêm.
- Tôi muốn rằng toàn thể hội nghị và các vị khách, chúng ta hãy đứng dậy mặc niệm những nhà du hành gan dạ đã sống trọn đời cho khoa học: bá tước Tôn, nhà thiên văn Dibec và hai thợ săn Gôrôkhôp và Điacônôp.
Mọi người đứng cả dậy.
- Tôi tuyên bố nghỉ giải lao mười lăm phút.
Những người ngồi gần cửa vội vàng tuồn ra ngoài. Các ủy viên của Hội đồng vây lấy người nói, trong khi đó người ta thấy một hội viên có thân hình đẫy đà, viện sĩ Sencơ, đang lách qua đám đông đến những hàng ghế cuối. Ông ta là nhà thám hiểm nổi tiếng, người tổ chức và là cố vấn của đoàn thám hiểm của bá tước Tôn.
Giữa sự ồn ào của tiếng ghế xô đấy, tiếng trò chuyện của đám đông, vang lên giọng nói to của ông ta:
- Tôi xin mời vị nào đã quá tin rằng Vùng đất Xannhicôp là có thật, nói chuyện với tôi.
Đáp lời mời này, một người trẻ tuổi mặc áo choàng dài màu đen, tách khỏi đám đông thính giá. Khuôn mặt ngăm đen của anh ta đầy những vết nhăn nhỏ xíu, kết quả của nắng hè, băng giá mùa đông và những cơn gió bão.
- Tôi nói vậy và nếu cần, tôi sẽ nhắc lại một lần nữa,- anh ta tuyên bố sau khi tiến lại gần Sencơ.
- Ta hãy đến thư viện; không thể nói chuyện trong tình trạng hỗn độn này được,- Sencơ vừa nói vừa nhìn người trẻ tuổi hăng hái bằng con mắt xoi mói ẩn dưới đôi lông mày rậm,
Khoác tay người lạ mặt, Sencơ dẫn anh ta qua cửa bên đi đến những phòng ở phía sau của thư viện. Đây là văn phòng của hội.
Trong phòng im ắng và trống rỗng. Viện sĩ ngồi lên ghế của thư ký rồi ra hiệu cho người cùng đi với mình ngồi sang ghế bên. Ông châm một điếu thuốc và nói:
- Tôi nghe đây. Tôi muốn nghe điều ông biết về Vùng đất Xannhicôp.
- Điều đầu tiên là hãy cho phép tôi nói với ông tôi là ai, - anh ta nói. - Đã năm năm, tôi là một tù chính trị, bị đày biệt xứ ở một làng tên gọi Cadatric tại cửa sông Iana, trong xứ sở của gấu, hay nói cho đúng hơn là của những con gấu Bắc cực. Ở đó tôi đã làm quen với những thợ săn địa phương. Theo cách nhìn văn hóa của thủ đô thì họ là những con người cục cằn và dốt nát, nhưng họ tốt bụng và dũng cảm. Mỗi năm xuân đến, khi ngày trở nên dài hơn và băng vẫn rắn, họ quả cảm đến quần đảo Nôvôsibirơxcơ để lùng ngà voi ma-mút, ở đây có rất nhiều... Một số thợ săn đã thấy rõ ràng Vùng đất Xannhicôp và tin chắc rằng nó có thật.
- Điều đó cũng chưa đủ để thuyết phục! - Sencơ nhận xét. - Ông biết chứ, diễn giả đã bảo rằng những ngọn núi mà Xannhicôp và Tôn đã thấy chỉ là những dãy núi băng khổng lồ. Để có thể đứng ở đảo Côtennưi nhìn thấy được những ngọn núi của vùng đất tưởng tượng ấy thì chúng phải cao ít nhất là hai nghìn hai trăm năm mươi mét. Khó mà tin rằng có những ngọn núi cao như thế ở Bắc Băng Dương.
- Đó chỉ là điều phỏng đoán chứ không phải là sự thật!
- Hơn nữa, trước khi đặt chân lên đảo Bennet, Tôn đã uổng công đi tìm vùng đất ấy trên chiếc du thuyền “Rạng đông” chở ông ta, đi gần chỗ mà người ta cho là vùng đất.
- Điều này chỉ chứng tỏ rằng vùng đất ở xa hơn về phương bắc chứ không gần đảo Côtennưi như Xannhicôp và những người khác đã tưởng, họ thấy nó nhưng không ước lượng được khoảng cách một cách chính xác, - người trẻ tuổi cãi lại.
- Ông nói đúng! - Sencơ nói... - Nhưng sự thật, ngoài những chứng cứ này ra, ông sẽ đồng ý với tôi rằng đây chỉ là những chứng cứ bấp bênh, chúng ta không có gì khác, hay nói đúng hơn, không có gì xác thực để xét, ngoài việc những đàn chim di cư về một nơi nào đó ở phương bắc.
- Tại sao ông nghĩ rằng dấu hiệu đó lại không đầy đủ tính chất xác thực? - người trẻ tuổi ngạc nhiên hỏi, - Vranghen đã viết về điều này, Maiden xác nhận nó, còn nhân dân địa phương chỉ rõ rằng vào mùa hè có hàng đàn chim sống trên bờ biển phía bắc của Xibiri, trừ hai nơi: nơi thứ nhất nằm giữa sông Khrôma và sông Ômôlôi, nơi thứ hai bắt đầu khoảng năm mươi cây số về phía tây của mũi Tacan và kéo dài đến mũi Riacaipi 2 . Trong những nơi này, số lượng chim không đáng kể, nhưng nhân dân ở đây thấy có những con chim bay về phương bắc.
- Từ dải đất ở phía tây, chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ, trong khi từ dải đất ở phía đông, chim bay đến đảo Vranghen, - Senco bác lại.
- Trước kia người ta nghĩ thế, nhưng thực ra không phải như vậy. Đảo Vranghen rất cao, lởm chởm đá và hầu như cả mùa hè tuyết phủ. Cũng có một số ít nơi trên đó các loài chim như ngỗng và vịt có thể làm tổ. Nhưng chúng ta chú ý nhiều hơn đến dải đất phía tây.
- Phải rồi, từ đây, bầy chim bay về quần đảo Nôvôxibirơxcơ.
- Hình như vào mùa hè chỉ có một số ít chim ở lại trên những đảo ấy. Phần lớn tiếp tục di cư về phương bắc hàng đàn. Tôi biết chắc chắn điều đó nhờ nhiều thợ săn ở Ustianxcơ, Rutxcôie Ustie và Ôgiôghinô, họ đã từng ở trên quần đảo này; Xannhicôp cũng biết điều đó. Những bầy chim di cư gồm có ngỗng trắng, nhạn biển, những loài vịt, dẽ giun, kim oanh, và một số chim khác đều ăn cây cỏ hoặc những giống ăn cỏ khác nữa. Điều kết luận rút ra là ở phương bắc có một mảnh đất khá lớn, cây cối um tùm.
- Đúng rồi, lục địa ấy chính là đảo Bennet, - Sencơ nhận xét. - Từ tài liệu Tôn để lại, chúng ta biết rằng đảo ấy vào mùa hè là nơi cư trú của hai loại nhạn biển, một loại dẽ giun, chim hồng tước, năm loại mòng biển...
- Nhưng cả ngỗng lẫn vịt đều không được nói tới, - người trẻ tuổi cười. - Ông biết chứ, chúng là nhóm lớn nhất của bầy chim di cư. Đó là một điều đặc biệt! Ông có nhận xét thấy trong tài liệu ấy, Tôn nói rằng, ông ta thấy một con đại bàng bay từ phương nam đến phương bắc, một con chim ưng bay theo hướng ngược lại và một đàn ngỗng trời bay từ bắc về nam, nghĩa là chúng bay từ vùng đất chưa biết ấy về đất liền vào cuối mùa hè.
- Đúng! - viện sĩ công nhận.
- Và Tôn nói thêm rằng: vì sương mù nên người ta không thấy được vùng đất mà từ đó những con chim này bay, cũng như mùa hè năm ngoái không thấy Vùng đất Xannhicôp.
- Ông nhớ dai thật! - Sencơ thốt lên.
- Tôi chú ý nghe bản báo cáo và tài liệu của Tôn, càng củng cố thêm niềm tin của tôi về sự tồn tại của vùng đất Xannhicôp. Nó nằm ở xa về phương bắc, chứ không như đã ước đoán. Chính điều đó làm cho tôi đứng bật dậy nói một cách quả quyết. Về đảo Bennet, ông cũng nghe nói đến, đảo quá bé và bao phủ đầy băng giá, thành thử không thế làm một chỗ ẩn nấp cho rất nhiều chim. Tôn cũng chứng thực điều đó. Chỉ có chim hồng tước, dẽ giun, mòng biển và hai loại nhạn biển đến đảo về mùa hè mà thôi.
- Nhưng vùng đất nằm xa về phía bắc, ví dụ quanh vĩ tuyến 80 ắt phải có băng giá dày đặc hơn. Do vậy, nó cũng không thể cung cấp nhiều thức ăn cho nhiều chim được.
- Vậy trong trường hợp này, những con chim dại dột ấy bay đi đâu? – người trẻ tuổi nói và phá lên cười.
- Quả thực tôi không biết, có lẽ chúng vượt qua Bắc cực đến Grinlen, mặc dầu đó là điều có lẽ không thể xảy ra, - Sencơ nhún vai trả lời.
- Nhưng chúng ta có thể giả định rằng nhờ một vài điều kiện thuận lợi đặc biệt nào đó, Vùng đất Xannhicôp mặc dầu về vị trí phía bắc đứng giữa băng giá của Bắc Băng Dương, vẫn có một khí hậu ấm hơn đảo Bennet và quần đảo Nôvôsibirơxcơ nằm ở phía nam được không?
- Xin ông thứ lỗi cho, đó chỉ là điều tưởng tượng! - viện sĩ bực dọc nói. – Ngoài việc di cư của bầy chim, chúng ta không có cơ sở nào khác cho một giả thuyết như vậy.
- Ở đó có thể có một núi lửa nung đốt hoặc có những con suối nước nóng chăng? – người trẻ tuổi vẫn không thay đổi thái độ.
- Nếu vậy thì các thợ săn của ông và các nhà hàng hải đã nhận thấy có khói từ lâu. Đừng quên rằng trong khi đi trên du thuyền “Phơram”, Nanxen cũng đã qua nơi mà người ta nghĩ là vùng đất bí mật ở đó, và đã không thấy gì cả.
- Thế ông đã nghe thấy sự biến mất kỳ lạ của một dân tộc phương bắc tên gọi là Ônkilôn chưa? Bị người Tructri quấy nhiễu, họ rời lục địa với toàn bộ gia súc của mình và không ai còn biết thêm gì về họ, và họ ở đâu, không ai rõ cả.
- Phải, tôi nhớ là Vranghen, Noocđensenđơ và Maiđen đã lượm lặt tin tức về họ. Nhưng nhân chủng học không phải là đề tài của tôi...
Một hồi chuông rung vang lên trong thư viện ngắt lời viện sĩ. Sencơ đứng dậy.
- Tôi phải đi để nghe bản báo cáo. Nhưng tôi rất chú ý đến ý kiến của ông. Chúng ta cần nói chuyện với nhau một bữa khác. Xin mời ông đến nhà tôi vào một buổi tối tuần sau kể từ ngày hôm nay. Đây là địa chỉ của tôi.
Sencơ lấy một danh thiếp trong ví và đưa cho người trẻ tuổi. Ông nói thêm:
- Để tôi xem có tài liệu nào nói về những người Ônkilôn không. Và tôi sẽ phát biểu ở Viện hàn lâm, đề nghị trang bị cho một đoàn thám hiểm khác để tìm Tôn, tôi rất nghi ngờ về kết quả. Dẫu sao đi nữa cũng xin mời ông đến gặp tôi.