Chương VI ❖ 1 ❖
Quỳnh đi lững thững trên một con đường nhiều cây râm mát. Một bà cụ từ phía trước đi lại. Nét mặt và dáng người của bà cụ rất quen.
Cụ mặc một bộ đồ đen. Cái búi tóc củ hành sau gáy bé tẹo. Cụ có cặp mắt nheo nheo, và miệng tủm tỉm vừa như chế giễu vừa như sắp kể một câu chuyện vui.
Bà cụ đứng dừng lại trước mặt Quỳnh. Quỳnh đã nhớ ra bà cụ rồi.
Đúng là má Năm ở Khánh Hòa ngày đó. Tại sao má Năm lại ở đây?
Má Năm nắm tay Quỳnh, hỏi.
- Thằng nhỏ con? Mi quên tau rỗi hả?
Quỳnh muốn thưa với má là anh không bao giờ quên má, quên bà con trong nớ. Anh có thể kể với má từng ngày các trận thắng của quân ta tại Nam Ngãi, Khánh Hòa như là trận thắng vừa rồi tại Việt An, Quảng Nam. Nhưng bây giờ đảng còn bảo anh phải ở đây. Đảng giao cho anh một công tác quan trọng. Rồi một ngày gần đây chắc là má Năm và bà con trong đó sẽ biết khi cuộc chiến đấu trên không bắt đầu.
Quỳnh chưa biết nói thế nào thì nghe tiếng động cơ máy bay phản lực gầm xa xa. Má Năm ngơ ngác hỏi anh:
- Tiếng rú ở mô lạ rứa? Má chưa nghe tiếng ni khi mô!
Giá mà anh được nói thực với má cái tiếng gầm đó nhỉ! Chắc là má sẽ nhảy lên như một đứa nhỏ và ôm chẩm lấy anh.
Tiếng gầm của động cơ máy bay mỗi lúc một to dần và Quỳnh chợt tỉnh giấc mơ.
Thường thường mọi sáng, Quỳnh tỉnh giấc vào lúc này, khi các đồng chí thợ máy phát động động cơ máy bay để chuẩn bị. Ngoài khung cửa sổ trời vẫn tối đen. Hôm nay Quỳnh ở nhà làm kế hoạch bay, không trực, anh không cần phải dậy sớm. Anh nằm tiếc rẻ giấc mơ vừa rồi. Không biết ai là người đầu tiên nói ra câu:"ngày Bắc đêm Nam". Ngày hôm qua, Quỳnh vừa đọc báo được tin chiền thắng lớn ở Việt An, vừa rồi anh đã gặp lại má Năm. Hồi đó Quỳnh mới mười lăm tuổi. Anh còn là một chú bé trinh sát ở chiến khu Hòn Hèo. Một hôm anh theo cán bộ đi trinh sát chuẩn bị đánh đổn Thăng Bình. Tối đó, Quỳnh được các anh bảo vào nhà má Năm tuyên truyền và điều tra tình hình. Má Năm vặn nhỏ ngọn đèn xuống. Trong lúc Quỳnh nói những điều chính trị viên đã căn dặn, má ngồi im lặng, lấy tay sờ đầu, nắn xương vai, nắn cổ tay của Quỳnh. Má nói: "Bé như ri mà đã đi đánh giặc!". Má gọi con gái bằng trạc tuổi Quỳnh lại bên, nói nhỏ điều gì. Lát sau, cô gái đem lên một đĩa bánh đa cuốn. Bên trong bánh đa là những lát cá thu. Má bảo Quỳnh: "ăn đi con". Bánh đa cuốn với cá thu chấm nước mắm ngon. Đã lâu lắm mới được một bữa sướng miệng như vậy. Quỳnh vừa ăn vừa tiếp tục tuyên truyền má. Má bảo: "Ăn đi đừng nói nữa, má biết các con về gần, mai tê bọn trong đồn sẽ chết".
Má nói tình hình đồn địch cho Quỳnh nghe. Lâu ngày được bữa cuốn ngon, Quỳnh lim dim mắt rồi ngủ lúc nào không biết. Tỉnh dậy anh thấy mình nằm trong một căn buồng cửa đóng kín. ánh sáng mặt trời rọi qua đầu hồi nhà. Giờ này, chắc các anh đã rút hết rồi. Làm sao mà ra ngoài được bây giờ. Vừa lúc đó, má Năm vào bảo Quỳnh: "Cứ ở yên nghen con. Không lo chi hết. Nhà má ở cách đồn có hai trăm mét, bọn chúng không nghi mô". Quỳnh ở lại nhà má Năm thêm một ngày. Từ đó, gia đình má Nam thành một cơ sở rất tốt của đơn vị anh...
Mấy ngày hôm nay, nhiều triệu chứng báo hiệu tình hình sắp biến chuyển lớn. Địch đánh mạnh nhiều tỉnh ở miền nam Khu Bốn.
Chúng đang leo một nấc thang mới, đánh vào mạch máu giao thông của ta. Cuộc chiến đấu của những người lái chắc là sắp bắt đầu. Chỉ nay mai thôi, mình sẽ đối mặt với chúng nó, sẽ góp lửa với miền Nam.
Tiếng ủng rậm rịch ngoài hành lang. Những đồng chí đi trực đã dậy. Và những tiếng chân bước vội phía cầu thang. Có người gõ cửa.
Quỳnh hỏi:
- Ai đó?
- Anh Quỳnh dậy rồi đấy à?
Quỳnh nhận ra giọng nói ồm ồm của Tường, trợ lý tham mưu.
Tiếng vặn quả đấm. Một bóng người nhanh nhẹn bước vào ghé đến cạnh giường của anh:
- Đồng chí Đông bị đau bụng, bác sĩ nói phải ở nhà.
Tham mưu trưởng muốn anh ra trực ban thay. Anh đi được không?
- Được quá đi chớ! - Quỳnh tung chăn vùng dậy.
- Tôi bảo xe đợi anh ở bến.
- Xin năm phút có mặt.
- Anh cứ chuẩn bị. Tôi sẽ bảo xe chờ anh mười lăm phút.
❖ 2 ❖Quỳnh mặc đồ bay xong, xách mũ và phao bơi, đi vội ra bến xe.
Trời nhiều mây, rất tối. Phía nam, lấp lánh mấy vì sao. Núi Tam Đảo là một đám đen sẫm trấn ngự cả một vùng trời. Một quầng sáng hửng lên ở phía đông nam như khi mặt trăng sắp mọc. Hà Nội đó!
Quầng sáng màu vàng tha thiết ấy đêm đêm hiện lên trước mắt những người chiến sĩ lái máy bay sống tại hòn đảo nhỏ riêng biệt của mình giữa đất liến.
Chiếc xe con đỗ lẻ loi, im lìm ở con đường ngã ba trước cửa nhà hội trường nằm giữa doanh trại. Anh em thợ máy, thông tin và cán bộ các cơ quan đã đi cả rồi. Chắc chỉ còn những đồng chí trong biên đội trực chiến ở lại chờ mình, Quỳnh nghĩ bụng. Anh vội vã chạy lại.
Một chấm lửa đỏ lóe lên trong khoang xe. Tiếng của Phương khàn khàn:
- Biên đội trưởng ra kia rồi!
Đồng chí lái xe rú máy và mở cửa sẵn chờ Quỳnh. Anh em lái đã ngồi cả ở khoang sau, dành cho Quỳnh chỗ ngồi ở đằng trước.
Huấn thò đầu ra ngoài khoang xe, nói:
- Báo cáo biên đội trưởng: Râu, Gấu con và "Nhà thơ" có mặt.
Cả xe cùng cười ồ.
- Chào các đồng chí! - Quỳnh vừa nói vừa nhảy vội vào chỗ ngôi.
Râu là biệt hiệu của Huấn. Huấn chưa nhiều tuổi nhưng có bộ râu quai nón ra trò. Lưỡi dao bào tốt, dù mài liếc cẩn thận cũng chi chịu được với anh ba buổi sáng là cùng.
Gấu con là tên anh em đặt cho Phương. Tên này không đúng với dáng người lành hiền, tươi tắn của anh. Phương hút thuốc lá nhiều, mồm lúc nào cũng như một chiếc ống khói. Một hôm đơn vị xem phim hoạt họa có chuyện một chú gấu con lấy được chiếc tẩu của người đi săn đem về. Chú bắt chước người đi săn hút thuốc. Vì hút thuốc nhiều, người chú gấu gầy còm, ốm yếu và bị người đi săn bắt lột da đem bán.
Từ đó, anh em đem tên Gấu con đặt cho Phương.
Còn "Nhà thơ" là biệt hiệu anh em đã đặt cho Vị từ hồi còn học ở trường. Một thời gian Vị rất hay đãng trí. Anh em đồ là vì chuyện tình duyên trắc trở. Có lần Vị bay bỏ quên cả thùng dầu phụ. Nhưng nổi tiếng nhất là một lần... Bữa ấy, đơn vị tập bắn mục tiêu dưới mặt đất.
Khi Vị lao xuống, anh quên không khép cánh cản, máy bay lệch hẳn về một bên và anh không sao điều chỉnh nổi. Vị bắn trệch ra ngoài. Khi xuống sân bay, trời rét dưới độ không, nhưng người Vị ướt đẫm mồ hôi.
Vị báo cáo giáo viên là máy bay của mình xấu quá. Giáo viên chỉ vào cánh cản... Từ sau bữa đó, tính đãng trí của anh dần dần được khắc phục.
Tuy không hay bay với biên đội của Đông, nhưng vì đã sống nhiều năm với nhau ở nhà trường nên Quỳnh rất hiểu các anh em. Anh hoàn toàn yên tâm với đội hình tác chiến.
Ánh đèn lập lòe trên sân bay. Những chiếc xe tải lớn rì rì kéo thêm máy bay ra. Trong bóng tối nom hình như chiếc máy bay đang bò theo chiếc xe. Cả hai cùng chậm chạp và hiền lành như những thứ đồ chơi.
Tại sân đậu, xe hơi nén đang tiếp tục bơm hơi cho các máy bay.
Ánh đèn pin của các thợ máy lập lòe. Người đang kiểm tra một vết rạn ở bánh xe. Người đang dùng cái quay vít gõ nhè nhẹ vào một đường hàn ở thân máy bay để tìm một âm thanh lạ tai. Mấy đồng chí đẩy một chiếc xe nhỏ vừa đi vừa rao. "Còn đâu chưa tra đủ dưỡng khí không nào?" Quỳnh cảm thấy ấm áp với cái không khí thân thuộc mà anh đã sống nhiều năm nay.
Thấy biên đội Quỳnh đi tới, đồng chí phân đội trưởng, một bóng người lùn và đậm đứng khuất giữa hai chiếc máy bay, nói to:
- Các đồng chí lái đã ra nhận máy bay. Các tổ trưởng thợ máy trở về máy bay của mình.
Anh chạy ra bắt tay Quỳnh, vui vẻ:
- Máy bay đã chuẩn bị xong. Mọi bộ phận đều tốt.
Quỳnh đi tới chiếc máy bay ở đằng đầu, chiếc máy bay dành cho anh. Đức, tổ trưởng thợ máy, người bé nhỏ đứng chờ anh bên cánh máy bay. Anh nhìn thấy một vệt trắng dưới vành mũ tối om, biết là Đức đang cười với mình.
Nhìn thấy một chiến sĩ cầm cái thông nòng loay hoay ở đầu khẩu pháo, Quỳnh hỏi:
- Các đồng chí quân giới đã kiểm tra chưa?
Người chiến sĩ lấy cái bọc chụp vào khẩu pháo rồi quay lại phía anh, nói:
- Xin bảo đảm với đồng chí cứ bấm cò là nổ giòn giã.
Hai tiếng giòn giã rung lên ở đầu lưỡi anh, tạo thành một âm thanh đặc biệt như một tiếng cười. Anh có vẻ bằng lòng, thích thú với công việc của mình.
Quỳnh đi một vòng máy bay. Anh sờ vào thân máy bay thấy có nhiều nước. Sương ư? Quỳnh gõ thử vào chiếc cánh phụ. Những giọt nước rơi xuống đường băng lộp bộp. Như vậy là đêm qua có mưa. Anh quay lại nhìn Đức đang lặng lẽ bước theo mình, nhận thấy bộ quần áo của Đức ướt đẫm. Có lẽ vì cả mưa và sương nữa. Quỳnh nghĩ.
Tất cả các chiến sĩ này ngày đêm lúc nào cũng lúi húi bên chiếc máy bay, cần mẫn như những con ong đang hút nhụy hoa. Họ là những người dầm dãi nắng mưa ngày đêm lo từng chiếc đinh ốc, từng giọt dầu cho chiếc máy bay, chăm sóc đến hàng ngàn chi tiết phức tạp của nó như một người kỵ sĩ chăm lo đến từng sợi lông trên mình con ngựa chiến. Nhưng họ không hề bao giờ được đặt mình lên con ngựa của họ khi nó hoạt động. Quỳnh đôi lúc vẫn bị ám ảnh bởi cái cảm giác: các đồng chí đó là những người phải hy sinh mà mình là người chịu ơn.
Quỳnh sờ vào vai áo ướt đẫm của Đức và hỏi:
- Đêm qua mưa ư?
- Sơ sơ thôi! Không can gì - Hàm răng trắng lại hiện trên khuôn mặt gần như hòa vào bóng tối - Tôi biết đồng chí ra thay đồng chí Đông, tôi đã sửa lại chỗ ngồi, đồng chí kiểm tra xem có được không?
Quỳnh và Đông vốn thuộc hai cỡ người rất khác nhau. Anh chùi giày cẩn thận rồi trèo lên thang sắt bước vào khoang máy.
Ngồi xuống ghế, đặt chân lên bàn đạp, anh thấy hoàn toàn thoải mái. Đức thuộc thói quen của anh với lối ngồi hai chân hơi co co đã bỏ chiếc đệm, đặt ghế và kéo bàn đạp đúng những nấc mà anh thích.
Đây là cái thế giới nho nhỏ của người lái máy bay chiến đấu phản lực. Lần đầu ngồi vào buồng lái, Quỳnh đã có cảm giác như mình chui vào trong một cái vỏ trứng gà. Sao mà tù túng, mất tự do đến thế!
Bây giờ anh đã quen thuộc với cái thế giới riêng của mình. Bầu trời lúc này không phải là những đám mây mầu xám hiện lên sau vòm kính trong suốt mà là cái màn dạ quang sáng rực của mấy chục chiếc đồng hố ở trước mặt anh, những ngọn đèn xanh đỏ nhấp nháy báo hiệu các hệ thống máy móc hoạt động tốt.
Quỳnh thông điện kiểm tra toàn bộ máy bay. Anh bấm công tắc điện thoại liên lạc với đài chỉ huy, rỗi lần lượt gọi các số hai, ba, bốn trong biên đội của mình. Vô tuyến điện rất tốt. Quỳnh mở đài hướng.
Những tín hiệu đều đều rõ ràng. Quỳnh nói một cách phấn khởi:
- 801 chuẩn bị xong.
Anh ngẩng đầu lên mỉm cười với đồng chí tổ trưởng thợ máy. Đức vẫn đứng trên đầu chiếc thang sắt, vịn tay vào vòm kính, theo dõi sát từng cử chỉ của anh, coi nụ cười của Quỳnh là một lời cảm ơn.
Quỳnh bước xuống máy bay. Linh tính như báo cho anh biết là nhất định hôm nay sẽ có chiến đấu. Người anh bỗng bồi hồi. Quỳnh nhớ lại lần xuất kích đầu tiên. Hôm đó, anh đã mở máy không thành công. Biên đội xuất kích vắng anh. Mặc dầu anh em không gặp địch, quay về, nhưng Quỳnh buồn mất mấy ngày. Anh đã tự kiểm tra mình rất kỹ lưỡng, thấy mình không hề lo lắng hay hoảng hốt. Nhưng đúng là lúc đó anh cảm thấy có một cái gì không bình thường. Đồng chí bác sĩ đã nói với anh đó là một sự phản ứng tự nhiên và thông thường về mặt sinh lý: người chiến sĩ bộ binh khi tập bắn đứng trước cái bia hình người không hề biết kháng cự hoặc né tránh viên đạn của mình, vẫn cảm thấy sự hồi hộp. Nhưng anh cũng nói là phản ứng này có thể chế ngự được và cần được chế ngự. Quỳnh kéo Đức về sau phía máy bay.
Anh nói bằng một giọng thì thầm:
- Khi có pháo lệnh chuyển cấp, nhớ nhanh chóng giúp mình khoác cái quai dù bên trái và cắm đầu công tắc quần kháng áp cho mình trước khi máy bay lăn ra. Nhớ nhắc cậu cắm bình điện phải cắm cho thật chặt, không được để cắt dòng điện khi mở máy.
- Bọn tôi đã phân công nhau rất cẩn thận rồi! Hay là khi ấy anh cứ ngồi im, để tôi mở máy cho.
- Không, mình sẽ mở máy lấy.
Anh nói thêm:
- Hôm nay mình sẽ mang về cho máy bay của chúng ta một ngôi sao đỏ! Các cậu phối hợp tốt với mình.
- Chúc anh thành công.
Ngôi sao đỏ đầu tiên của chiến thắng xuất hiện trên mình những con én bạc vẫn là niềm ước mơ chung của mọi người.
Trên cả vòm tròi chỉ còn sót lại một vì sao. ánh sáng của nó xanh biếc và chói lòa như viên ngọc trên vầng trán nàng tiên cá. Đó là sao mai, một trong những ngôi sao lang thang hiếm hoi mà con người đã tìm thấy trên bầu trời có hàng triệu vì sao không xê dịch.
❖ 3 ❖Nhà trực chiến, đèn sáng trưng.
Trên giường của những người lái, mấy chiến sĩ cảnh vệ gác đêm qua đang ngủ say sưa. Một cậu dang hai tay hai chân, gối đầu lên chiếc báng K.50 ngáy vo vo như huýt sáo. Đồng chí trực ban chính trị chắc cũng vừa vào đây, chiếc mũ cứng còn đội sùm sụp trên đầu, đang ngồi ở thành giường hí hoáy ghi chép gì vào quyển sổ bảo mật. Nghe tiếng ủng, ngẩng đầu lên. Anh quay sang định đánh thức những chiến sĩ. Quỳnh giơ tay ngăn lại, nói nho nhỏ:
- Anh cứ để cho anh em ngủ.
Quỳnh trở ra nói vói các đồng chí trong biên đội:
- Ta quay lại đường băng ngồi cho mát.
Đúng là trong phòng trực chiến hơi nóng. Tiết trời đã có chút oi ả của mùa hè. Đồng chí trực ban chính trị nhét vội cuốn sổ vào xà cột đi theo biên đội lái. Họ thận trọng bước trên sân cỏ còn đọng những vũng nước mưa.
Một người dáng cao cao, đầu để trần, hai cánh tay dài duỗi rất thẳng trên tay lái xe đạp, đang đi tới. Mọi người nhận ra đó là trung đoàn trưởng.
Luân chống một chân xuống đường, dừng xe trước mặt họ. Anh hỏi giọng thân mật:
- Quỳnh hôm nay trực thay Đông phải không?
- Báo cáo đồng chí, phải - Quỳnh đáp.
- Tình hình khẩn trương. Lát nữa anh Khang sẽ tới phổ biến với các cậu. Biên đội phải bàn kế hoạch hiệp đồng cho thật tỉ mỉ.
Huấn gõ hai chiếc ủng vào nhau đánh cốp, đứng ngay ngắn, nói:
- Báo cáo trung đoàn trưởng: hôm nay đồng chí giao cho anh em chúng tôi làm bàn chứ?
- Có thể. - Luân ngừng lời rồi nói tiếp - Nếu các cậu hiệp đồng tốt.
Làm việc đi. Mình phải về sở chỉ huy đây.
Anh đạp xe đi. Tiếng xích xe chạm vào cái chắn quèn quẹt.
Quỳnh biết sớm nay anh đã ra sân bay để kiểm tra bằng xe đạp, nhường ô tô cho biên đội mình.
Họ vừa ngồi xuống mặt đường băng ẩm lạnh thì chính ủy Khang từ phía nhà trực chiến đi ra. Giọng nói của anh nhanh nhanh và vui vui:
- Mình đi tìm các cậu tướt. Ra sân đậu anh em bảo là về rồi. Vào nhà trực ban thấy mấy cậu nằm, nghĩ sao lại ngủ sớm thế này, đến gần hóa ra mấy cậu cảnh vệ. Sang buồng thợ máy cũng không thấy ai.
Thì ra các cậu rút ra đây. Hiệp đồng với nhau chưa?
- Báo cáo anh, sắp làm - Quỳnh nói.
Chính ủy ngồi phệt xuống đường băng, bên cạnh những người lái.
Huấn khêu gợi:
- Trung đoàn trưởng vừa nói là biên đội chúng tôi hôm nay sẽ có dịp làm bàn, đề nghị chính ủy cho biết thêm ý kiến.
- Không những các đồng chí sẽ có dịp mà các đồng chí có nhiệm vụ phải làm bàn, phải dứt những điểm đầu tiên cho trung đoàn.
Chính ủy bao giờ cũng có một giọng nói dứt khoát, sôi nổi như luôn luôn tiếp thêm sức mạnh cho những người ở chung quanh.
- Tôi nói các đồng chí nghe một tin mới: Các đồng chí Quân giải phóng của chúng ta ở miền Nam vừa đánh vào tòa nhà đại sứ Mỹ ở ngay tại Sài Gòn. Bọn Mỹ chết và bị thương khá nhiều. Anh em ta đã đánh thẳng vào đầu não của bọn chúng...
Chính ủy dừng lại một chút, nhìn mọi người bằng cặp mắt linh lợi như để đánh giá thái độ của họ trước cái tin này. Anh nói tiếp:
- Một đồng chí của chúng ta đã lái một chiếc xe ô tô trên chứa chất nổ, lọt vào tòa nhà đại sứ Mỹ. Khi đồng chí này ra khỏi, khối thuốc nổ tung... Đánh địch giữa sào huyệt của chúng! Rất là mưu trí táo bạo! Hoàn cảnh chiến đấu của chúng ta có khác, điều đó là tất nhiên, nhưng tôi nghĩ, chúng ta vẫn có thể rút ra một số điểm để học tập. Chúng ta cũng phải làm một cái gì chứ, các đồng chí?
Những tin chiến thắng từ miền Nam vang tới đây thường tạo nên một sự kích thích đặc biệt. Nó không chỉ đem tới sự phấn khởi. Tự nó đã trở thành một câu hỏi: Bà con trong đó với "ngựa trời" và súng tự tạo vẫn mỗi ngày là một chiến công, còn mình ở đây, mỗi người có vài khẩu pháo trong tay thì vẫn chưa làm được gì? Những người lái ngồi im lặng trước câu hỏi của chính ủy. Huấn chép miệng rồi nói thủng thỉnh:
- Cái đó cũng còn tùy thuộc ở thằng địch...
- Tùy thuộc như thế nào...? - Chính ủy hỏi lại.
- Nếu nó cứ chạy hoài thì chúng tôi cũng chịu. Chúng nhanh quá, đuổi không kịp.
Điều này là một thực tế. Cho đến nay, không quân địch tỏ ra chưa muốn đánh với không quân ta. Đánh thắng chúng là một việc khó, nhưng trước mắt, khó khăn là làm sao bắt gặp chúng trên bầu trời.
- À... - Chính ủy cười - Nhưng không phải chúng cứ tránh ta mãi đâu! Các đồng chí đêu đã biết: Mỗi lần nó bị đánh đau ở trong kia thì nó phản ứng ra ngoài này. Chính vì vậy mà đảng ủy nhận định hôm nay các đồng chí có cơ hội dứt điểm. Đảng ủy yêu cầu thế này: Nếu biên đội các đồng chí vào trận thì phải cố giành lấy toàn thắng. "Một - không"!, "hai - không", được. Nhưng không được "hai - một" hoặc "một - hòa". Chúng ta không thể đổi một lấy một vì mỗi đồng chí của chúng ta là vốn rất quý. Nếu cần đổi thì mỗi chúng ta phải đổi lấy nhiều tên địch...
Chính ủy ngồi dự suốt buổi thảo luận kế hoạch hiệp đồng của biên đội Quỳnh. Anh đứng dậy, đi sang một biên đội khác làm nhiệm vụ dự bị. Quỳnh đang định bảo anh em vào nhà trực chiến nghỉ thì Huấn nói:
- Đêm qua tôi vừa nghĩ ra một tình huống này..., tôi nêu ra để các đồng chí trao đổi.
Những trận đánh trên không chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Gần đây, những người lái thường nêu lên các giả định để bàn bạc trước cách ứng phó. Huấn tiếp:
- Ta có bốn chiếc máy bay gặp hai tốp máy bay địch từ hai phía tiến lại. Một tốp ở phía bên phải, cao hơn ta, xa hơn tốp kia, nhưng chúng đang bay thẳng về phía ta. Một tốp ở phía bên trái, độ cao ngang ta, bay ở cạnh sườn của ta và đã ở tầm súng của ta. Ta nên chọn cách đánh như thế nào?
- Dùng toàn đội hình đánh tốp bên trái trước...
- Không được. Tốp uy hiếp ta là tốp đi cao ở phía bên phải - Huấn cãi lại Vị.
- Tôi chưa nói hết... Sau đó, ta vòng gấp, quặt đuôi bám đánh tốp trên cao.
- Ta có bốn người, tốt nhất chia thành hai tốp, đối phó cả hai mặt - Gấu con nói giọng trầm trầm.
- Phân tán không lợi. Địch sẽ tập trung vào một cánh lấy số đông ép ta...
Cuộc tranh cãi lập tức trở nên sôi nổi. Biên đội này đã chịu ảnh hưởng tính hay học hỏi, tranh cãi của Đông. Quỳnh ngồi lắng nghe mọi người trao đổi. Đây cũng là dịp để anh biết thêm chỗ mạnh và chỗ yếu của các người bạn sẽ cùng đi chiến đấu với mình hôm nay. Và anh cũng phác ra rất nhanh một cách đánh của mình. Biết đâu lát nữa biên đội anh lại sẽ gặp một trường hợp đúng như thế này.
Bầu trời đã xanh trong từng khoảng, ánh sáng ban mai dịu nhạt.
Ngôi sao mai vẫn treo lửng lơ ở lưng trời.
❖ 4 ❖Khẩu phần ăn sáng của mỗi người hôm ấy có hai quả trứng gà nhúng nước sôi. Đây là một món ăn nhẹ được nhiều người mọi ngày ưa thích. Nhưng sáng nay, nó đã bị bỏ lại. Những quà trứng gà mắc tội oan vì trận đau bụng bất thần của Đông khi đêm. Bác sĩ không thuyết phục được những người lái quá lo xa, đành bảo anh nuôi mang trứng về trả nhà bếp. Anh nghĩ ra một cách để bù đắp vào số ca lo bất thần bị cắt giảm:
- Bây giờ các đồng chí đi ngủ. Đừng nghĩ ngợi gì nữa. Sắp chiến đấu cần giữ cho tinh thần thư thái, ngủ một giấc, khi xuất kích, các đồng chí sẽ có sức khỏe gấp đôi để kéo cần lái.
Những người lái lên giường nằm. Buồng bên, anh em thợ máy làm việc từ quá nửa đêm đã ngủ cả. Mấy đồng chí thông tin ngôi ở đầu hồi nhà, rì rầm to nhỏ chuyện gì. Chính trị viên đại đội Bút nhẹ nhàng đi ra, xua tay làm hiệu cho họ. Những tiếng rì rầm im bặt.
Sáng hôm nay, Quỳnh thấy mình không tài nào ngủ được. Bộ đổ bay nặng nề, nhất là đôi ủng da bó lấy chân nóng hầm hập, làm cho người anh bứt rứt. Huấn nằm trước mặt anh cứ trăn trở mãi, hết xoay sang bên này, lại xoay sang bên kia. Thấy Vị nằm bên im lặng đã lâu, Quỳnh tưởng anh đã ngủ. Khi Quỳnh ghé mắt nhìn sang thì thấy Vị nằm nhắm mắt, nhưng hai ngón tay vẫn rê rê tìm những sợi râu trên cằm. Vị có hai đầu ngón tay cái và trỏ to bè bè, móng tay dày và bằng, khi anh bóp lại giống như một chiếc nhíp to. Với cái nhíp trời cho ấy, Vị có thể nhổ bật cả những sợi râu thật ngắn làm cho cằm anh lúc nào cũng nhẵn nhụi.
Thì ra mọi người đều khó ngủ như mình. Anh em cũng giống mình ở chỗ cảm thấy trận đánh sắp đến. Mấy tháng qua, cũng có nhiều ngày báo động tới năm, bảy lần, có những buổi ngồi trực bốn giờ liến dưới cánh máy bay. Nhưng vào những ngày đó, Quỳnh vẫn không tin chắc chắn trận đánh sẽ diễn ra như hôm nay. Tại sao lại như vậy?
Vì tình hình rõ ràng là đã khẩn trương hơn. Vì điều dự đoán mà chính ủy vừa nói. Còn vì sao nữa, chính anh cũng không rõ.
Mặt trời dần dần lên cao. ánh nắng xuyên qua kẽ mây mang màu sắc lung linh. Vài tia nắng lọt qua khe liếp, chiếu xuống bàn ăn, làm vẩn lên trong khoảng không tưởng như rất tinh khiết vô vàn những hạt bụi nhỏ li ti đang nhảy múa. Thỉnh thoảng một làn gió nhẹ từ Tam Đảo thổi về.
Từ phía đơn vị thợ máy đang làm việc ở bên kia đường băng vang lại một giọng hát rất khỏe:
V
ừng đông đã hửng sắng,
Núi non xanh ngàn trùng xa, Tổ quốc bao la hiền hòa...
Đất nước là gì nhỉ? Quỳnh bỗng tự hỏi mình. Điều đó dường như ta sẽ không hiểu đầy đủ, nếu chỉ hiểu nó bằng lý trí. Mình đã cảm thấy thế nào là đất nước trong những năm phải sống xa Tổ quốc. Nó cũng cần cho đời sống của con người như những tia nắng mặt trời kia cần cho sự sống của cỏ cây. Khoảng không trên kia tự nó vốn không có ranh giới. Trái đất của con người vốn đã trải qua hàng triệu năm dài không có biên giới. Biên giới là do con người chia ra từ mặt đất. Những con người đã tạo ra đất nước. Qua những khoảng thời gian tính bằng thế kỷ, đất nước đã gắn liến với những con người đã đổ mồ hôi, đổ máu, xây dựng ra nó. Ngày nay, nó đã trở thành tâm hồn của mỗi người. Và tâm hồn cũng đã hòa vào với mỗi trái núi, mỗi con sông, vào tất cả đất nước. Quỳnh cảm thấy điều đó mỗi lần máy bay anh cất cánh trên bầu trời. Có lúc anh đã nghĩ mình sẵn sàng hy sinh vì một dòng suối nhỏ, một mái nhà tranh, một áng mây trôi, một gốc xoan non kia. Đó chính là đất nước.
Quên thần mình một niềm tin trong phong ba...
Cái tiếng hát nào đó vẫn ngân xa vời vợi. Những âm thanh như đang hòa tan vào không gian. Quỳnh liếc nhìn khoảng không xanh thẳm ở cuối cánh đông ngoài hàng hiên. Bầu trời, không gian và cảnh vật sao trang nghiêm lạ lùng...
Bụp... Một tiếng pháo lệnh từ đài chỉ huy vọng lại. Tiếp theo ngay đó là một hồi chuông kêu ran. Báo động rồi! Người nọ định ngoảnh sang đánh thức người kia... Nhưng tất cả đều đã choàng dậy.
Chạy... Chạy...
Thợ máy, người lái, nhân viên quân giới, vô tuyến điện, cán bộ tham mưu, chính trị... cùng lao đầu chạy về phía những chiếc máy bay.
Quỳnh vừa chạy vừa đội mũ bay vào đầu và kéo lại chiếc quần kháng áp cho chặt. Chiếc pháo hiệu màu xanh vẫn lơ lửng trên nền trời.
Mắt anh thỉnh thoảng lại nhìn về phía đài chỉ huy xem có lệnh cất cánh hay chưa.
Đức đứng chờ anh bên chiếc thang sắt nhỏ. Chỉ ba bước, Quỳnh đã ngồi gọn trong buồng lái. Anh bật luôn công tắc điện.
Đồng chí tổ trưởng thợ máy nhanh nhẹn khoác chiếc quai dù vào cánh tay trái anh và cắm nút ống quần kháng áp.
Quỳnh liếc mắt nhìn quanh máy bay thấy các mảnh bạt bọc khoang ngồi và nòng pháo đã được tháo ra. Trên những chiếc máy bay đậu chênh chếch dọc đường băng, các bạn anh đã ngồi yên trong khoang lái, sẵn sàng đợi lệnh. Mọi người đều nhanh không phải chỉ có mình...
Bụp... Pháo lệnh lại nổ. Đức thì thào bên tai anh một giọng thiết tha: “Có lệnh mở máy rồi!”.
Không được hồi hộp nhé! Không được hồi hộp nhé! Những ngón tay của mình đừng có run, Quỳnh tự bảo. Anh mở các công tắc cần thiết và bấm nút điện. Máy gầm lên. Tiếng vòng quay rất đều và mỗi lúc một nhanh. Mở máy thành công rồi! Niềm vui sướng tràn ngập lòng anh. Các bạn anh đều đã mở máy xong. Qua vô tuyến điện, Quỳnh biết một biên đội bạn nữa cũng được lệnh chuẩn bị.
Khoang lái đã đóng lại. Đức giơ tay chào anh rồi vội nhảy xuống kéo cái thang chạy giật lùi, tránh xa chiếc máy bay.
Quỳnh cho máy bay lăn ra đường băng cất cánh. Anh thoáng nhìn thấy rất nhiều người đứng trên bãi cỏ, dọc đường băng phía tay trái. Mọi người đều như đang mỉm cười với anh. Người anh nhìn thấy rõ nhất đồng chí chính trị viên đại đội. Vẫn cái dáng rụt rè, cái miệng hơi mỉm cười, đôi mắt màu nâu hiền hậu nhìn anh với rất nhiều tình cảm và gửi gắm. Hình như có người vẫy tay chào anh. Điều lệnh đã cấm làm như vậy với người lái khi xuất kích. Quỳnh khẽ gật đầu chào lại.
Quỳnh cho máy bay chạy vòng ra đường băng cất cánh và dừng lại ở phía bên trái. Liếc mắt nhìn sang phải, anh thấy Huấn đã sẵn sàng. Đội hình ra quân rất đẹp, Quỳnh mỉm cười với Huấn, rồi nới tay phanh mở cửa dầu. Người anh lâng lâng. Máy bay đã rời khỏi mặt đất.
Đầu đường băng có những đám mây mỏng. Ngoái nhìn sang bên Huấn vẫn bám sát. Quỳnh gọi sở chỉ huy:
- 801 gọi Chi Lăng!
- Chi Lăng nghe rõ..
- 801 xin hướng bay.
- Hướng bay 230.
- Nghe rõ hướng bay 230. Hai, ba, bốn... nghe rõ trả lời.
Những tiếng "rõ" với ầm sắc khác nhau cùng đáp lại.
- Phân tán! - Quỳnh ra lệnh.
- Xuyên mây!
Một lát sau Đông đã có mặt ở sân băng với bộ đồ bay gọn gàng.
Mặt anh xanh tái. Nghe tin báo động, Đông chồm dậy, mặc quần áo bay, lấy chiếc mô tô của đồng chí phó chủ nhiệm chính trị mở hết tay ga, phóng ra sân bay. Các sân đậu đều vắng tanh. Những người thợ máy đã chuyển cả về phía đằng kia để đón các máy bay khi trở về.
Đông nghiến răng, giậm chân liền mấy cái. Rồi anh cắm đầu chạy đến đài chỉ huy, nơi tiếng nói của các đồng chí vừa xuất kích đang tiếp tục vọng về.