Chương X ❖ 1 ❖
Những buổi mít tinh nối tiếp, hàng vạn người xuống đường tuần hành phản đối đế quốc Mỹ cho máy bay bắn phá miền Bắc ngày mồng 5 tháng 8, đã chấm dứt. Hà Nội lại bước vào những ngày thu êm ả.
Các cơ quan, nhà máy vẫn làm việc như thường lệ. Những rạp hát, rạp chiếu bóng đông nghịt người. Các vườn hoa, những con đường ven Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Hổ Bảy Mẫu không đủ rộng để mang lại sự yên tĩnh cho những người yêu nắm tay nhau đi dạo chơi trong ngày nghỉ.
Những ý nghĩ sôi nổi của Hảo muốn tạm ngừng công tác nghiên cứu khoa học thời bình để đi tìm một công việc ở mặt trận đã bị một số anh chị em trong chi đoàn thanh niên phê phán là không thực tế, là không vững, là "bốc". Những ý nghĩ đó cũng lắng dần xuống trong người cô gái cùng với tình hình dường như đã trở lại yên ổn như trước ngày kẻ địch đánh phá.
Đẩu tháng 11, Hảo nhận công tác. Nguyện vọng của cô được thỏa mãn. Người ta không điều Hảo vế các phòng nghiên cứu mà sắp xếp cô trong một đoàn điều tra hải sản của Tổng cục Thủy sản công tác tại Quảng Ninh.
Hảo trở lại vùng biển cô đã đi thăm cách đây mấy tháng.
Những ngày đầu tiên của đoàn điều tra cũng khá đình huỳnh. Họ sống tại một khách sạn ở Bãi Cháy. Nước biển xanh biếc đã xóa sạch những dấu vết bom đạn trận tấn công của địch trưa ngày mồng 5 tháng 8. Hình ảnh còn đọng lại trong tâm trí những người dân ở đây là những hạm tàu của các chiến sĩ hải quần tung hoành trên vịnh, những khẩu đội pháo cao xạ nhả đạn vào bọn cướp trời, những chiếc máy bay Mỹ bốc lửa đâm đầu thẳng xuống biển và tên giặc lái của Hải quân Mỹ Alvarez cúi đầu đi trước mũi súng của các đống chí công an vũ trang để về trại giam.
Thị xã Hồng Gai đêm đêm sáng rực ánh đèn. Những chiếc tàu xếp hàng dài trên vịnh, đợi lượt vào ăn than. Tiếng cần cẩu kêu re re suốt đêm trên bến cảng. Mặc dầu thời tiết đôi lúc đã bắt đầu lạnh, những người khách nước ngoài vẫn tấp nập kéo nhau ra để hưởng gió biển và thăm cảnh đẹp của Vịnh Hạ Long.
Nhiều người phục vụ tại khách sạn không hiểu tại sao lại lầm đoàn điều tra hải sản này là một đoàn địa chất. Hảo cứ bị gọi là cô địa chất. Cái đó không sao. Cô sinh viên vừa tốt nghiệp, mới nhận công tác, chưa có tự ái nhiều về nghề nghiệp của mình.
Biển ở trước mặt, xanh biếc, hiền hòa, lấp ló sau những hòn núi đá mờ sương xinh đẹp, đang tươi cười chào đón cô gái.
Phương tiện đi biển của họ là một chiếc thuyền buồm. Bể ngang của nó rộng chừng hơn hai mét. Chiều dài ước lượng bằng mắt thì khoảng ba lần rưỡi chiều ngang. Con thuyền này sẽ đưa họ ra "đại dương" ư? Thoạt nhìn thấy nó. Hảo hơi ngỡ ngàng, ở ra sao? Ăn ra sao?
Và làm việc như thế nào? Hảo biết đoàn mình sẽ ra biển bằng thuyền, nhưng cô không ngờ con thuyền đó lại bé đến như vậy. Đất nước còn nghèo biết sao? Thô sơ, lạc hậu kết hợp với hiện đại, tiên tiến mà! Mọi người mang những dụng cụ thí nghiệm, những chiếc bình, những thùng đựng mẫu, những ống hóa chất, những chiếc kính phóng to... kể cả những cuốn sách cùng với những bọc hành lý xuống thuyền. Họ dời đất liền vào một buổi sớm đẹp trời.
Hàng triệu năm đến nay, những con sông vẫn không ngừng chảy ra biển và biển không ngừng dâng lên những đợt thủy triều vào đất liền. Những loài sinh vật từ đại dương theo nước triều vào bờ hay từ những con sông nước ngọt xuôi dòng đi ra biển đã dừng lại ở đây và quen với nơi sinh sống mới này. Con người từ lâu đã biết đến chúng và dùng chúng để phục vụ cho đời sống của mình. Những con chim, con thu, con song, con đối... đã trở thành quá quen thuộc với chúng ta.
Vùng bờ biển còn có vô vàn những loài sinh vật khác không phải là cá.
Người ta gọi chúng là đặc sản. Đó là những con ngao, con sá sùng, tôm hùm, bào ngư, hải sâm, con trai ngọc, v.v... Đó là hàng trăm loài rong biển. Chúng là nguồn thức ăn dồi dào rất quý cho người, cho gia súc, nguồn phân bón to lớn đối với cây trồng. Các nhà khoa học còn thấy ở chúng những giá trị quan trọng về việc cung cấp những nguyên liệu rất cần thiết cho ngành công nghiệp và ngành dược phẩm. Lâu nay, chúng ta mới làm được một phần việc khai thác chúng. Bây giờ, khoa học còn phải tính đến chuyện nuôi trồng chúng, làm cho chúng sinh sản được nhiều hơn để phục vụ cho đời sống con người. Với chúng ta, công việc đó chỉ mới bắt đầu.
Đoàn điều tra của Hảo trong đợt công tác đầu tiên này nhận nhiệm vụ tìm hiểu nguồn lợi nhuyễn thể tại những vùng có nước thủy triều ở ven biển Quảng Ninh. Họ phải đi đến nơi ăn, chốn ở của những loài sinh vật nho nhỏ đó, xem chúng có những giá trị gì về mặt kinh tế, cách thức và khả năng khai thác của những người ở vùng biển này đối với chúng ra sao.
Phòng nghiên cứu của họ là hai trăm năm mươi ki-lô-mét chạy dọc theo bờ biển từ núi Tổ Chim ở biên giới Việt-Trung đến cửa Nam Triệu, và những bãi biển ở chân hơn ba ngàn hòn đảo trong Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.
Họ xem xét những con sông lớn, những đợt thủy triều ở vùng biển này. Họ thưởng thức vẻ hùng tráng của sông Bạch Đằng, vẻ đẹp xanh trong của sông Tiên Yên, sông Quất Đông... Nhưng điều họ quan tâm nhiều không phải là những thắng cảnh hay những trang sử cũ. Họ chú ý đến chiều ngắn, độ dốc cao của các con sông và những cửa sông rộng. Chính những cái đó hàng năm đã tạo nên những cơn lũ lớn làm cho nước biển ở đây đột ngột hóa ngọt. Họ không phải là những nhà thơ đợi thủy triều lên cùng với gió và trăng. Điều khiến họ phải chú ý là thủy triều ở vùng này lên xuống không đều. Những sự vận động to lớn đó của thiên nhiên đều có quan hệ mật thiết đến những loài sinh vật nho nhỏ mà họ đang tìm hiểu.
Chiếc thuyền chật hẹp và chậm chạp nhiều lúc đã làm cho họ khó chịu. Nhưng cũng có những lúc, nó đã tỏ cho người làm công tác nghiên cứu khả năng ưu việt của nó. Nó có thể đi đến bất cứ đâu, ghé vào bất cứ ngóc ngách nào mà họ muốn giữa các hòn đảo lớn, nhỏ.
Đoàn điều tra tìm tới những bãi hải sản. Lần đầu cô gái nhìn thấy những loài sinh vật nho nhỏ mình đang tìm hiểu không phải ở trong những bình thủy tinh tại phòng thí nghiệm mà là những con vật đang sinh sống giữa môi trường thiên nhiên to rộng của chúng. Tính nết của chúng rõ ràng là rất khác nhau. Con tôm, con mực, con đổi mồi thích bơi lội tung tăng. Con hàu, con trai lì lợm bám đầy trên những tảng đá.
Con bào ngư, con hải sâm đen nhút nhát náu mình ở các rạn đá. Con điệp ngọc nằm tênh hênh trên bãi cát. Con bàn mai rụt rè, nửa mình chui dưới cát nửa mình thò ra ngoài. Con sò vùi nông dưới một lớp cát mỏng. Con cáy, con còng đào lỗ chui sâu nhưng lại hay đổi chỗ... Vì tính tình chúng khác nhau nên trên một bãi hải sản không phải chúng cứ gặp đâu thì ở đó. Vấn đề là phải tìm ra quy luật.
Hảo làm nhiệm vụ thu thập các mẫu vật và phân loại chúng.
Những dụng cụ Hảo mang theo là một bộ đổ phẫu thuật nhỏ, mấy chiếc kính phóng to và những thùng đựng mẫu. Những con sá sùng, con trai, con sò... sau khi Hảo đã làm quen bằng mắt thường, hiện lên dưới kính hiển vi với những màu sắc và đường nét nhiều lúc đẹp lạ lùng. Hảo mổ nó ra, phân tích "cơ cấu" của nó, xem nó thuộc lớp, thuộc họ, thuộc loài nào. Qua mỗi vùng, cô gái lại ghi thêm những tên khoa học vào bảng danh sách và đánh thêm những ký hiệu, những dấu cộng, những chữ R, chữ V, chữ D vào các cột phân số.
Công việc mới mẻ này không phải là không đem lại cho cô gái những phút mơ mộng. Có buổi chiều, sau khi đi xem bắt bào ngư về, Hảo ngồi trên một phiến đá lớn ở bờ biển nhìn sóng triều lên vỗ nước dưới chân. Cô gái nghĩ đến chuyện xây nhà cho những loài sinh vật này. Người ta có thể phá nhỏ tảng đá mình đang ngồi đây, đem xếp chồng chúng lên nhau, để tạo thêm nhiều kẽ hở cho các loài quen sống ẩn nấp đó. Ở trên, ta sẽ nuôi cá, trống rau câu. Ở dưới, là nơi ở của bào ngư, hải Sâm đen... Cải tạo thiên nhiên cho thích hợp với sinh hoạt của chúng là một điều hoàn toàn có thể làm được. Cô gái nghĩ tới những triệu tấn đặc sản mà bờ biển của đất nước trong tương lai sẽ đem lại cho những người lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Suốt thời gian ở biển, người ta bỗng quên đi thói quen chú ý đến giờ giấc và những ngày khác nhau trong tuần. Có lần Hảo chợt nhận ra hôm đó là ngày chủ nhật khi cô xem lịch thủy triều.
Đối với nhiều bạn bè của Hảo, cái câu "làm quen với sóng gió của cuộc đời" chỉ là một câu nói cho văn vẻ. Nhưng với Hảo, câu nói đó lại là một điều rất cụ thể. Ngày nắng, ngày mưa. Những đêm ngủ ngoài trời nhìn lên là sao, nhìn xuống cũng là sao. Những ngày biển buồn.
Những ngày biển giận. Người ta sẽ hiểu thế nào là sóng gió khi đôi chân không còn dính với đất mẹ. Người ta cũng sẽ hiểu thế nào là sóng gió khi đôi mắt không nhìn thấy bến bờ. Những lúc gió làm đổ nghiêng con thuyền. Những lúc sóng tung nó lên trời mây quay cuồng, rồi lại lao nó xuống vực thẳm đen ngòm. Hảo chỉ bơi được vài chục mét.
Chính những lúc đó, Hảo đã tìm ra một đức tính ở mình - cô thấy mình rất bình tĩnh. Hảo nghĩ nếu chẳng may thuyền lật, mình sẽ cố níu lấy một trong những tấm ván kia. Đó là sự sống. Nhất định sẽ có người đến cứu mình. Mình không thể nào chết được vì sóng gió. Hảo cứ tin là sẽ như vậy mà cô cũng không hiểu vì sao.
Những ngày lênh đênh trên sóng nước thèm đủ thứ. Không phải là những thứ gì không thể có được như văn công, chiếu bóng. Nhiều khi là những thứ rất giản đơn: thèm một cuốn sách, một trái cam... thèm được sạch sẽ. Có hôm Hảo ngồi buồn giở một lá thư cũ của bạn ra đọc.
Hảo chợt nhìn thấy hai chữ "bánh kẹo". Nước miếng ứa ra ở chân răng.
Ôi sao mà thèm một cái kẹo như thế. Cô gái cuống quít chạy đi lục tìm ba lô, lấy từ dưới đáy ra một chiếc hộp sắt đã bị bỏ quên. Chỉ còn vét được một cùi dìa đường nhỏ. Nếu không có những phút như thế này, làm sao mình có thể hiểu giá trị của một cùi dìa đường.
Họ lang thang trên biển hàng tháng ròng, không hiểu những gì đang xảy ra trên đất liền, nhất là từ khi chiếc đài bán dẫn mang theo bị hỏng sau một trận bão. Họ nói với nhau: Chúng mình cứ đi đằng đẵng thế này, có khi giải phóng miền Nam xong rồi cũng chưa biết.
Từ hòn đảo này họ qua hòn đảo khác. Mỗi lần ra đi, Hảo lại thấy nhớ thương nơi mình vừa ở như hồi xưa mỗi năm chuyển lớp, mỗi dịp chuyển trường.
Cô gái rút ra được một nhận xét mới. Điều này không làm cô vui hơn. Cô thấy rõ cuộc sống ngoài đời khác xa với cuộc sống dưới mái trường. Cô đã nghĩ là cuộc sống ở nhà trường có phần cao đẹp hơn, những người sinh viên có nhiều ước mơ hơn và cũng ít vụ lợi hơn những người mà cô gặp ngoài cuộc đời. Nhưng đôi lúc Hảo đã nhận thấy một sự so sánh như vậy không ổn. Dù sao nhà trường chỉ là một cái bến bình yên, chuẩn bị cho những con người vượt biển, ở đó, con người chưa bao giờ sống hết mình. Con người chỉ biểu hiện mình rõ nhất khi nó đã thực sự bước vào đời, vật lộn với sóng gió. Người học sinh là cây trong vườn ươm. Người ta không ai mãi mãi cứ là học sinh.
Vì nếu chỉ như vậy, sự học tập đối với mỗi người sẽ trở thành vô ích.
Và cô gái tự bảo mình: mình cần sống với thực tại. Mình mới chỉ là người hưởng thụ. Bây giờ mình phải đóng góp. Mình phải trở thành một con người có ích. Đành rằng muốn trở thành một người có ích trong công tác của Hảo như hiện nay không dễ dàng. Những kiến thức thu lượm được qua hơn chục năm dưới mái trường trở nên quá bé nhỏ, mong manh khi đi vào đại dương của cuộc sống. Công việc mà Hảo và các bạn đang làm lại là những công việc rất khó sớm nhìn thấy được kết quả. Hảo đã đề ra cho mình một số hướng phấn đấu: Làm sao hòa hợp được với cuộc sống của mọi người chung quanh mình? Làm sao quen được với những sinh hoạt rất không bình thường đối với mình?
Làm sao giữ vững được những ý nguyện, những ước mơ, những tình cảm trong sạch của mình? Làm sao tiếp tục củng cố được kiến thức?...
Hảo không hề kêu ca trước mọi nỗi khó khăn, có những chuyện thật khó tưởng tượng được trong sinh hoạt ở thuyền. Cô vui vẻ làm quen với thói quen suốt ngày ăn cháo, uống nước bằng cháo, ăn cháo với cá khô của một số đồng bào vùng biển. Cô thản nhiên nằm ngủ chung với một em bé lúc chập tối còn ngồi ở đầu hè cho mẹ lần tay trên đầu tuốt chấy. Mỗi ngày dù ở thuyền hay ở đảo, cô vẫn gặm nhấm dần một số từ ngoại ngữ, kiên nhẫn như một con kiến gặm xương. Ngoại ngữ là chìa khóa để mở những cánh cửa cho những người làm công tác nghiên cứu khoa học.
Sau mỗi chuyến đi công tác về lại phải bỏ ra khá nhiều thời giờ vào một việc không thể tính toán với ai được là: sang sửa lại con người.
Nhiều ngày để khâu, mạng lại các quần áo. Đi như thế này, quần áo mau rách hơn xé. Chẳng bù lại khi ở trường chỉ mong sao cho một chiếc áo rách hẳn đi để mặc áo mới mà nó không chịu rách. Nhiều buổi để tiêu diệt đám trứng, chấy trên đầu...
Những cô bạn ở phòng thí nghiệm mỗi lần Hảo về đều đón Hảo với cái nhìn thán phục:
- Mày chỉ hồng lên chứ không đen chút nào!
- Mắt nó càng sắc hơn.
- Cho mày ở biển suốt đời...
Hảo nói một cách xuê xoa:
- Thôi đi, các cậu đừng động viên. Về đất liền, sẵn gương, mình đã được tự chiêm ngưỡng nước da màu cánh dán của mình rồi.
❖ 2 ❖Từ ngày Hảo ra công tác đến giờ, bỗng dưng có một vấn đề đem lại cho cô nhiều phiền toái. Trước đây, trong khi lường những khó khăn, Hảo không tài nào nghĩ được lại có chuyện này. Rất nhiều người chung quanh muốn biết Hảo đã có chồng hoặc có người yêu chưa? Họ không phải chỉ là những chàng trai trẻ. Gần như đi tới đâu, gặp bất cứ ai, cũng là lời thăm hỏi đó: Cô đã lập gia đình chưa? Có những người quan tầm đến chuyện đó như ham muốn phát hiện ra một sự bí mật. Mọi câu trả lời của mình, Hảo đều cảm thấy là không ổn. Nếu nói thực là chưa có người yêu thì cô đã đặt ra cho người vừa hỏi mình một lô những thắc mắc, đẩy họ tới những sự phỏng đoán rất không có căn cứ và thường là không hay ho gì cho mình. Nhiều lúc, Hảo đành phải nói dối cho qua chuyện. Nhưng một câu nói dối này lập tức dẫn Hảo đến hàng loạt cầu nói dối khác. Nếu nói là có người yêu rồi, thì anh ấy ở đâu, công tác gì, tại sao lại chưa tổ chức? Nếu nói là đã có chồng rồi, thì xây dựng từ bao giờ, có cháu chưa, cháu gái hay cháu trai? Hay tại sao lại chưa có cháu? v.v... Mỗi câu nói dối đều dẫn Hảo đến chỗ mất tự do. Hảo đã nhận ra ở vào cái tuổi của mình mà chưa có gia đình hay chưa có người yêu đã trở nên một chuyện không bình thường. Chuyện đó nếu ở vào một cô gái khác có thể đỡ hơn, nhưng ở Hảo, nó đã thu hút sự chú ý của mọi người.
Cái năm đầu vào trường đại học, Hảo thường gặp ở nhà Thùy các bác, các chú đồng hương tới thăm. Các bác, các chú cũng coi Hảo như Thùy. Nhiều bác, nhiều chú đã nói với cả hai người: "Bọn mi cứ lo học đi, lo thi cho đỗ đã, chớ vội tính đến chuyện chồng con, sau ni đến lúc cần phải lo, bọn mi không lo được thi chúng tao sẽ lo cho". Có lúc Hảo đã tự hỏi mình: Chả lẽ đã đến lúc phải nhờ người khác lo hộ mình rồi hay sao? Hảo biết rõ là mình được nhiều người đàn ông để ý. Điều đó có lúc còn làm cho Hảo bị một số bạn gái ghen ghét. Nhưng từ trước tới nay, Hảo cảm thấy dửng dưng với những người con trai đã đến với ý định tìm hiểu mình. Hảo lo ảnh hưởng đến việc học tập trong khi mình còn ở nhà trường. Cô đã trông thấy tấm gương ở một số người bạn sớm sa vào con đường yêu đương, chồng con. Nhưng còn một điều khác khá quan trọng, như những cô gái đã lớn, Hảo nhiều khi mường tượng đến người chồng tương lai của mình. Người đó cô chưa bao giờ gặp.
Cũng đã đến lúc mình phải nghĩ đến chuyện ấy rồi.
Ý nghĩ đó lởn vởn trong đầu cô gái vào cuối mùa đông năm ấy khi đoàn điều tra từ đảo trở về đất liền để nghỉ ăn Tết. Mọi người đều chăm chú mua sắm những hải sản đem về góp vào bữa ăn đầu xuân.
Ban đầu Hảo định về Nam Định với gia đình. Cô bị kích thích vì cái không khí chung. Nhưng rồi Hảo ngại thời gian nghỉ ngắn, tàu xe đi lại khó khăn. Có lúc Hảo nghĩ hay là về Hà Nội cho gần hơn, ở tại ký túc xá, ăn Tết một vài bữa với Thùy. Nhưng sau đó, khi cơ quan cần một số người thường trực trong dịp Tết thì Hảo thay đổi ý kiến và nhận ở lại. Cô muốn được hưởng phong vị một cái Tết ở miền biển. Và cô nghĩ mình về những nơi có nhiều người quen thuộc đang tíu tít vào ngày Tết, sẽ càng cảm thấy trong lòng trống trếnh hơn.
Cái Tết ở cơ quan này thật buồn tẻ. Khách khứa không có ai. Mấy người thường trực biến thành những người trông nhà. Hảo dùng những ngày nghỉ rỗi rãi, ấm áp để đọc sách, ngủ và viết một số lá thư. Lâu nay, Hảo ít viết thư cho những bạn còn ở lại trường. Cuộc sống giữa Hảo và họ tuy mới xa nhau chưa bao lâu, đã có một cái gì rất cách biệt.
Hảo gửi thư cho gia đình, cho Thùy, cho mấy cô bạn đã ra trường.
Từ ngày ra công tác đến giờ, nhiều lúc Hảo nhớ tới Quỳnh. Và mỗi lần như vậy, cô lại cảm thấy bâng khuâng. Cái vẻ lúng túng, dáng điệu rụt rè, hơn tất cả là sự chân thành của anh, ngày càng tách anh ra khỏi những người đàn ông mà Hảo đã biết từ trước đến giờ. Anh Đông đã có ý định mối lái anh ấy cho mình. Mình không nên tự dối mình. Đúng là ở mình đã nảy ra ít nhiều tình cảm với anh ấy. Nhưng cũng thật khó nói rằng đó đã là tình yêu. Trở ngại lớn giữa hai người vẫn là anh ấy khó mà thông cảm được với nghề nghiệp của mình. Chỉ có điều đáng tiếc lẽ ra mình đã có một người bạn trai tốt có thể làm cho mình đỡ trống trải, nhưng mình đã bỏ qua. Hảo đã hỏi Thùy địa chỉ của Quỳnh. Nhưng qua mấy lần nói chuyện với Thùy trước khi đi công tác, Hảo cảm thấy Thùy không muốn nhắc lại chuyện mối lái trước kia.
Thái độ ấy đã làm cho Hảo hơi tự ái. Lại thêm cái địa chỉ Thùy ghi cho Hảo không rõ ràng. Vì vậy, có những lúc đã định viết thư thăm Quỳnh rối Hảo lại thôi.
Sau ngày Tết, đài phát thanh của ta đưa tin máy bay Mỹ đánh Quảng Bình, Vĩnh Linh. Những đám mây đen của chiến tranh vừa tan đi trong đầu óc cô gái giờ lại bắt đầu tụ lại. ít lâu sau, Hảo nhận được thư của cô bạn ở Đồng Hới. Cuối cùng, Hảo quyết định viết thư cho Quỳnh. Cô đã bỏ lá thư tại nhà bưu điện của thị xã Quảng Yên trước khi xuống thuyền đi một đợt công tác mới.
❖ 3 ❖Trung tuần tháng Tư, đoàn điều tra từ đảo Cô Tô trở về đất liền.
3 giờ chiều, con thuyền của họ đến bến Bãi Cháy.
Trưởng đoàn, một cán bộ quân đội chuyển ngành, đứng ở mũi thuyển với cái mũ cứng đã bạc màu và chiếc ba lô ngay ngắn trên vai, nói như ra lệnh:
- Toàn đoàn chú ý! Bây giờ chia làm hai mũi. Một mũi gồm tất cả dưới sự hướng dẫn của đồng chí phó đoàn tiến thẳng về khách sạn thuê buồng, đặt cơm. Một mũi gồm có một mình tôi, tiến về trạm bưu điện mua mấy tờ báo. Các đồng chí đồng ý không?
Mọi người nhao nhao đồng ý. Tiếng Hảo nói to nhất. Những ngày ở biển đói nhiều thứ, nhưng đói nhất là tin tức. Ai nấy đều nóng ruột muốn biết từ khi mình ra đi, đất nước đã xảy ra thêm những chuyện gì.
Các cô phục vụ tại khách sạn hơi ngạc nhiên khi thấy một đoàn người quần áo nhàu nát, mặt đỏ cháy vì nắng và gió biển, khênh theo những chiếc thùng, gặp ai cũng vồn vã cứ y như người nhà đi xa mới trở về. Họ quên những người nửa năm trước đây đã bị tưởng lầm là những cán bộ địa chất.
Đối với người ở đất liền ra biển thì quay lại đất liền là đã trở về nhà.
Hảo xếp hành lý vào tủ xong, chưa cùng mọi người đi rửa mặt mũi vội, ra đứng bên cửa sổ trông ra vịnh. Cô muốn ngó lại chặng đường xa sóng gió mà mình đã vượt qua. Trời chưa nóng hẳn và hôm nay không phải ngày nghỉ nên bãi biển vắng người. Một chiếc ca nô du lịch màu sơn trắng còn mới tinh đậu bên cạnh ngôi nhà mái cong làm nhô ra ngoài mép nước. Nhiều ngôi nhà cũ bên thị xã sao mà mái đỏ như son. Lần này Hảo mới chú ý đến những mái ngói đỏ ấy. Có lẽ là một thứ ngói không bắt rêu. Tâm hồn người ta có thể cứ tươi đỏ mãi mãi như thế kia cùng với thời gian? Trước mắt cô gái không phải là biển cả với những sóng gió dập vùi mà là một mặt hồ xanh trong phẳng lặng với những ngọn núi tím lô nhô; tất cả đều im lìm, không chuyển động như ở trong một bức tranh. Cô gái mỉm cười với mình. Cô thấy đây là một phần thưởng của chính mình đã giành cho mình. Bỗng nhiên Hảo nhớ đến một bức thư của một người bạn ở Hà Nội, trong đó, cô bạn hết sức ca ngợi vẻ đẹp của một người con gái đi công tác như Hảo hiện pay. Không biết nhà văn nào đã nhận xét: "Con người là một sinh vật viễn thị". Người ta khi ở xa thường dễ nhìn thấy rõ vẻ đẹp hơn là khi ở gần. Một ngày kia mình đã về già, có con có cháu rồi thì những giờ phút này chắc chắn là những ký niệm tuyệt đẹp...
- Tất cả đoàn ta đâu, tập hợp?
Tiếng của anh trưởng đoàn vang lên ở cửa buồng làm Hảo giật mình quay lại. Anh vẫn ba lô trên vai, tay cấm mấy tờ báo, hỏi Hảo:
- Ta ở đây à? Anh chị em đâu cả cô?
Những người ở các buồng bên nghe tiếng oang oang lúc nào cũng đầy vẻ quân sự của anh, đã chạy sang.
- Vào cả đây! Tin rất đặc biệt.
Vẫn để nguyên chiếc ba lô trên vai, anh bỏ mũ lấy khăn tay lau mồ hôi trán. Anh đã đi hối hả một mạch từ trạm bưu điện về. Bằng một giọng trịnh trọng, anh nói:
- Tôi rất vui mừng báo cáo để các đồng chí biết: Không quân của Quân đội nhân nhân Việt Nam vừa xuất trận. Máy bay ta đã chiến thắng rất vẻ vang trên bầu trời Thanh Hóa. Không quân ta đã bắn rơi hai máy bay địch...
Anh chuyển từ cái giọng đọc diễn văn sang giọng nói vui vẻ:
- Các đồng chí xem... Đúng là có truyền thống đánh đâu thắng đó! Đánh trên bộ, đánh trên biển, thắng. Đánh trên trời, cũng vẫn thắng. Đánh Pháp thắng. Đánh Mỹ cũng thắng.
- Thủ trưởng cho biết là tin truyền miệng hay là tin trên báo đấy?
- Cả tin tôi nghe được lẫn tin trên báo. Tôi ra đến nơi thì báo ngày hôm đó đã hết cả rồi, tôi phải hỏi tin ở trạm bưu điện. Cũng là những tin đã đăng báo thôi. Tôi cũng lo không có bằng chứng thì các đồng chí không tin. May lại vớ được mấy tờ Nhân dân có bài thơ này.
Mình lạc hậu về tin tức thôi, chứ miền Nam cũng biết cả rồi. Nói có sách, mách có chứng, đầy...
Anh mở một tờ báo ra và đọc chậm rải:
- Đánh trận đầu thắng. Kính tặng Không quân nhân dân Việt Nam... Đó là đầu đề bài thơ của nhà thơ Giang Nam. Còn bài thơ thì dài, ta sẽ đọc sau.
Anh giơ tờ báo quay quanh cho mọi người xem cái đầu bài rồi dừng lại ở chỗ Hảo đứng, nói:
- Xin tặng người yêu thơ của đoàn ta là cô Hảo tờ bào này. Cô Hảo sẽ chuẩn bị để ngâm trong buổi đọc tin chiến thắng tối nay. Bây giờ các đồng chí chỉ buồng để tôi về đặt ba lô. Lát nữa, sẽ chạy sang ty bưu điện bên thị xã kiếm đủ tài liệu về cho các đồng chí.
Trưởng đoàn trao tờ báo cho Hảo và đưa một tờ khác cho mấy người kia rồi đi về buồng mình.
Trong đoàn, ai nấy đều bỡ ngỡ trước cái tin mới này.
Mọi người đọc xong bài thơ, xôn xao bàn tán:
- Cho chết Giôn-xơn! Có thế nó mới chừa?
- Bộ đội ta giữ bí mật ghê thật! Trước tới giờ có khi nào nghe nói đến không quân của ta...
- Không biết máy bay của ta là máy bay gì? Phản lực hay cánh quạt nhỉ?
- Theo tôi thì trăm phần trăm phải là phản lực. Ta không dùng máy bay thì thôi, chứ đã dùng nhất định phải dùng phản lực.
- Mình nghe nói lái phản lực khó lắm. Phi công phải nằm. Vì nó bay nhanh gấp mấy lần tiếng động kia mà!
- Nằm thì lái thế nào được? Nằm thì chỉ có thể ngủ thôi ông ơi!
Một cuộc tranh cãi về lái máy bay phản lực siêu âm thì nằm hay ngồi nổ ra.
Hảo chỉ nhìn mọi người tủm tỉm cười. Hai mắt cô rực sáng. Đôi gò má cô nở ra. Trong cái vui chung cô còn cảm thấy một sự tự hào riêng.
Điều khiến cho mọi người cùng ngạc nhiên đó, Hảo đã biết từ lâu. Cô muốn kêu ầm lên:
- Các đồng chí ơi, không những tôi biết ta đã có không quân mà còn quen cả những người lái máy bay của ta. Chính các anh ấy đã đánh đấy? Các anh ấy hiền như đất. Nếu bây giờ có ngồi ngay trước mắt thì các đồng chí sẽ không tin là đã làm được những việc ấy đâu...
Giá mà bây giờ các anh ấy có mặt ở đây thì mình có thể ôm chầm lấy mừng đến khóc mất... Về đất liền mình đã cảm thấy sẽ có một chuyện gì vui, và ngay sau đó, điều vui ấy đã đến. Thùy lúc này chắc sướng lắm? Con bé hạnh phúc thật...
Khi ai nấy đã trở về buồng của mình rồi, Hảo mở túi lấy chiếc khăn định đi rửa mặt, thay quần áo, rồi xuống bãi, tung tăng trên bờ biển để tận hưởng niềm vui của mình. Đáng lẽ vào buồng tắm thì cô cầm chiếc khăn chạy xuống cầu thang. Gặp một cô phục vụ trẻ đang đi lên, Hảo nắm lấy hai vai, hỏi:
- Biết tin không quân ta bắn rơi máy bay Mỹ chưa?
- Từ tuần trước hay là tin mới hả chị? - Cô ta hỏi lại.
- Mình cũng không biết... ở Thanh Hóa ấy mà!
- Nếu vậy thì tin từ tuần trước rồi!
- Mình vừa ra đảo về nên hôm nay mới biết.
- Chị này, tối hôm nọ nghe đài báo tin xong, chúng em sướng quá, suốt đêm không ngủ được. Đài nói có một anh quê ở Quảng Nam đã bắn rơi máy bay địch...
- Mình quen anh ấy đấy! Mình biết cả tên anh ấy nữa...
Nét mặt cô phục vụ đang tươi tỉnh bổng trở thành lạnh nhạt. Cái chị này, không biết cả không quân ta đánh ngày nào, vừa nghe mình nói thế mà đã nhận ngay là biết cả anh phi công bắn rơi máy bay.
Nhưng Hảo không nhận thấy điều đó. Cô chợt nhìn chiếc khăn mặt khoác ở tay:
- Ơ...! Mình định đi rửa mặt, lại cắm cổ chạy xuống cầu thang làm gì!
Hảo quay đầu chạy lên. Cô phục vụ trố mắt nhìn theo như tự hỏi: không biết cái chị này làm sao mà bỗng cuồng lên như vậy!
Tối hôm đó, sau giờ đọc báo, Hảo vế buồng mở chiếc hộp nhỏ lấy ra mấy tờ giấy mỏng màu xanh có viên răng cưa. Cô bật ngọn đèn bàn ngồi đó rất lâu. Bao nhiêu ý nghĩ xao động, nhảy múa trong đầu.
Không làm thế nào mà bắt được nó để viết cho ra câu đầu tiên. Hảo chợt nhìn bài thơ trong tờ báo đặt trên bàn. Ơi những cánh thiên thần Hiền lành và dũng cảm...
Đúng là như thế! Mình cũng đang nghĩ như thế. Một ý nghĩ nảy ra... Cô chép trọn vẹn cả bài thơ. Cuối cùng, Hảo ghi thêm mấy dòng:
"Anh Quỳnh thân mến,
Sau những ngày ở đảo và lênh đênh trên mặt biển, hôm nay em đã trở về đất liền Hồng Gai, biết tin Không quân ta vừa đánh thắng trận đầu và được đọc bài thơ của Giang Nam. Em sung sướng và tự
hào vô cùng. Anh cho em gửi lời chào mừng của một đứa em nhỏ đến các anh vừa lập chiến công. Em chép vội bài thơ này gửi tặng anh.
Ngày mai em về chỗ ở cũ".