← Quay lại trang sách

Chương I - MỞ ĐẦU : 1895-THỔ NHĨ KỲ TẠI Á CHÂU-VÙNG ĐẤT MANG TÊN ANATOLIA-

Từ rất xa, người ta có thể nhìn thấy ngọn núi Aergius hiện ra thật đẹp, thật cân đối, với đỉnh núi và những sườn núi phủ tuyết. Người ta có thể nghe được tiếng hát của hai người đàn ông, bằng một ngôn ngữ lạ.

Trên một sườn cao khuất nắng có một cánh đồng nước đá. Một chiếc xe và một con ngựa già đứng bên cánh đồng nước đá đỏ. Hai người đàn ông đang xẻ nước đá thành từng mảnh vừa sức mang đi.

Công việc nặng nhọc, nhưng hai người còn trẻ và khỏe mạnh. Họ làm việc hăng hái vì họ làm việc cho họ. Giọng hát của họ, mặc dầu không được huấn luyện, nghe rất hòa hợp thích thú. Đó là dấu hiệu thân kết giữa một đôi bạn thiết.

Stavros Topouzoglou là một thanh niên hai mươi tuổi. Nét mặt của chàng có một cái gì vừa dịu dàng vừa say sưa. Trên nét mặt đó ẩn chứa đầy những khao khát không nói lên được. Cặp mắt mầu nâu của chàng long lanh như những trái ô liu ướt nước.

Làm việc cạnh chàng là Vartan Dama-dian. Anh ta hai mươi tám tuổi. Khuôn mặt của anh có những nét hoang dại, phong trần. Một chiếc mũi thật to, cong lại với một vẻ đa nghi, vừng trán thấp, mái tóc rậm tràn đầy sức sống, cặp môi thèm khát. Những nét đó và vóc dáng nặng nề như gấu rừng tạo cho anh một hình ảnh đáng nể.

Hai chàng thanh niên chỉ là hai bóng dáng bé nhỏ trên cánh đồng nước đỏ. Sau lưng họ là một phong cảnh hùng vĩ. Người ta nghe được tiếng gió âm u ngự trị vùng cao nguyên này.

Xưa kia, Anatolia là một quận huyện thuộc đế quốc Byzantine, với hai sắc dân Hy Lạp và Armenia chung sống. Vào năm 1381, miền đất này bị quân Thổ đánh chiếm, và từ dó hai sắc dân Hy Lạp và Armenia sống như những sắc dân thiểu số dưới quyền thống trị của quân xâm lăng Hồi Giáo.

Nổi bật về phía trước, một sợi giây điện tín móc trên những chiếc cột, thô sơ càng lùi xa càng nhỏ dần, làm tăng thêm vẻ mênh mông.

Phía xa, là ngọn núi Aergius. Gần đó là một số ngôi nhà nằm một phần dọc theo hai sườn dốc đối diện nhau, một phần dướt trũng hẹp giữa hai sườn dốc đó. Thị trấn mang tên Germer. Người ta có thể nhận ra một hay hai tháp chuông.

Hôm nay là một ngày lễ lớn của Hồi Giáo, gọi là lễ Bayram. Vào ngày này tất cả những người Thổ dư dả đều làm thịt một con cừu và bố thí một phần cho người nghèo. Một đàn cừu đang được lùa qua đường phố hẹp. Người chăn cừu dừng lại để bán một con cừu cho một chủ nhà. Theo sau ông cả gia đình ông bận những quần áo ngày lễ đẹp nhất của họ. Rượu vừa được rót ra.

Một con cừu hoảng sợ kêu lên. Nó đã biết số phận của nó. Trong lúc những cốc rượu chuyền khắp những người trong gia đình, thì người cha đang liếc lại con dao phay. Trông người ta có vẻ thành thạo với con dao này lắm, để mổ thịt, cũng như để sử dụng như một khí giới.

Cả gia đình có mặt tại đây. Những người đàn bà đứng trước ngưỡng cửa, mặt được phủ kín một phần. Tất cả gia đình nhìn người cha mổ thịt con vật vừa bị giết. Một bé gái nhỏ mang đến cho người cha một cốc rượu trên một chiếc khay nhỏ. Ông ta cầm cốc rượu rồi hôn con gái yêu của ông ta một cách say sưa.

Một vài người ăn mặc sang trọng cưỡi ngựa đi qua. Những người đàn bà kéo các đứa trẻ tránh ra. Phía sau những kỵ mã là một đôi ngựa kéo theo một chiếc xe. Mã phu hét lớn điều khiển đôi ngựa. Cặp ngựa quẹo theo góc đường, kéo chiếc xe theo. Đến trước thị sảng, các chức sắc dừng lại, người cưỡi ngựa, người đi xe, vài người đi bộ, tất cả đều phục sức cho ngày đại lễ. Bầu không khí có một vẻ gì đầy đe dọa.

Trong tòa Thị Sảng, quan tổng trấn cai trị toàn tỉnh đã triệu tập hội đồng tỉnh họp khẩn.

Cánh cửa văn phòng quan tổng trấn mở ra. Hai binh sĩ cao lớn đi ra, dậm chân theo kiểu được các sĩ quan Đức huấn luyện (quân dội Thổ được các nhà quân sự Đức huấn luyện). Họ chuẩn bị đón rước một nhân vật quan trọng. Nhưng từ trong cửa, một người có dáng thư lại nhỏ bé bước ra: Quan tổng trấn.

Tất cả hội đồng đứng vội lên. Quan Tổng Trấn bước vào bàn dành riêng của ông. Giọng quan Tổng Trấn có vẻ cau có: “Mời ngồi…”

Cả hội đồng ngồi xuống. Binh sĩ đứng thế nghiêm. Quan Tổng Trấn càu nhàu: ‘Đâu rồi…”

Một thư ký nhảy dựng lên, tưởng chừng mạng sống của hắn tùy thuộc vào việc làm này và nhanh nhẩu mang đôi kiếng lại cho quan.

Quan Tổng Trấn mở một bức điện ra: “Bức điện tin này vừa từ Kinh Đô gửi đến một giờ trước đây. Và ông đọc: “Gửi Ngài Tổng Trấn. Ngày hôm nay, trước lễ Bayram của chúng ta, bọn Armenia đã cả gan đốt hủy Ngân Hàng Quốc Gia Thổ Nhĩ Kỳ ở Constan-tinople.”

Quan Tổng Trấn ngẩng nhìn. Trong đám cử tọa, có một vài phản ứng, nhưng không rõ ràng lắm. Tức giận? Bực bội? Vài người chỉ thở dài.

Quan Tổng Trấn đọc tiếp bức điện: “Hoàng đế của chúng ta, Đức Abdulhammid Uy Quyền, Hình Ảnh của Thượng Đế trên trần giao nghĩ rằng bọn tiện dân Armenia cần được trừng trị mọt lần đích đáng để chúng hiểu rằng mọi hành động phá hoại không thể tha thứ được. Đức Hoàng Đế của chúng ta nhẫn nại như Đáng Tiên Tri, nhưng Ngài đã bày tỏ dấu hiệu là Ngài sẽ hài lòng nếu sự trừng phạt này được thi hành đích đáng để cho bọn dân thiểu số hỗn xược và nguy hiểm kia không bao giờ tái phạm được nữa. Phương pháp thi hành hoàn toàn giao cho các vị Tổng Trấn các tỉnh, và Tư lệnh quân đội tại mỗi Thủ Phủ.”

Sau lưng quan Tổng Trấn, các binh sĩ lắng nghe.

Trong văn phòng Tư Lệnh Quân Đội, quan Đô Thống, một người đàn ông da sạm nắng, cao lớn cũng vừa đọc hết một điện tín tương tự cho bộ tham mưu của ông nghe. Một lính hầu bưng lên một ống điếu. Quan Đô Thống đặt bức điện xuống mặt bàn, thở dài. Không một nhà quân sự nào thích nhận một mệnh lệnh kiểu này cả.

Quan Đô Thống đột ngột hét lên: “Tôi không thể sai quân đội đi làm một hành động như vậy được!”

Một sĩ quan lên tiếng: “Thưa Ngài, lại vừa xuất hiện những khẩu hiệu ma lị…trên tường Đền Thờ…”

Một đám đông tụ tập trước mọt Đền thờ nhỏ. Trên tường, người ta có thể thấy vài nét chữ ngòng nghèo. Một thầy cả bước ra, cầm theo sơn và chổi để xóa những dòng chữ. Đám đông xầm xì nguyền rủa. Khắp nơi trong thành phố, những đám người giận dữ tụ tập lại, Tất cả những người Thổ đều tức giận.

Trở lại sườn núi vắng, lạnh của ngọn Aergius, chúng ta thấy hai thanh niên Stavros và Vartan đã chất đầy nước đá lên xe ngựa, và bây giờ mệt nhọc, họ đứng yên một lúc nhìn lên đỉnh núi. Ngắm ngọn núi Aergius làm cho tâm hồn cảm thấy thư thái.

Stavros nói: “Anh nói bên Mỹ có những ngọn núi lớn hơn núi này?”.

Vartan: “Bên Mỹ cái gì cũng lớn hơn cả.”

Stavros: “Còn cái gì nữa?”

Vartan: “Cái gì nữa là…cái gì?”

Stavros: “Còn cái gì nữa ở bên Mỹ? Chúng ta còn làm gì nữa khi sang bên Mỹ?”.

Vartan: “Chúng ta thôi nói đến chuyện này, vì một lý do: chúng tôi hãy đi đến đó, với sự giúp đỡ của Chúa. Tại sao chúng tôi phải để cho ngày tháng trôi qua”. Rồi với giọng nói ngọt ngào: “Mày nên đi. Mày phải đi.”

Stavros nhìn anh ta với ánh mắt tôn thờ một thần tượng tuyệt đối. Chàng thực tình tôn thờ gã thanh niên này.

Rồi đột ngột Vartan nói: “Chúng ta nên đem bàn mờ nước đá này trước khi nó tan hết.”

Họ phủ lên đống nước đá trên xe ngựa bằng những mảnh vải rách, những chiếc bao bố cũ, rồi nhảy lên xe và thúc ngựa chạy. Nhờ đường xuống dốc, con ngựa nhảy nước kiệu. Stavros nhìn thấy cái gì đằng trước, đưa tay chỉ. Trên sườn núi dưới kia, một toán lính đang quây quần quanh một đóng lửa. Một sĩ quan bước ra giữa đường chận chiếc xe lại. Vartan nhìn quanh tìm một lối tránh. Không có một lối tránh nào cả. Vartan: “Tiêu tan còn khó một ngày!”

Stavros nói khẽ: “Lạy Chúa” Đó là câu đầu môi quen thuộc của chàng.

Sĩ quan kia bây giờ đã đứng giữa đường, đưa tay ra hiệu cho chiếc xe dừng lại, và chiếc xe đã dừng lại. Vị sĩ quan đi quanh chiếc xe.

Vartan cúi đầu: “ Mời Ngài cứ tự nhiên mời Ngài cứ thật tự nhiên cho.”

Câu nói ngu một chút châm biếm. Vartan muốn thử xem anh có thể nói ra điều anh nghĩ trong đầu đến một mức nào không nguy hiểm đến sinh mạng của anh. Anh không thể nói gì được nhiều, nhưng cái trò chơi đó cũng làm bảo tồn được chút tự trọng.

Vị sĩ quan đứng sau chiếc xe, không biết hoặc không thèm để ý đến sự hỗn xược đó. Ông ta quay về phía toàn lính hét lớn: Chela!

Một tên hỏa dầu vụ từ trong chiếc lều dùng làm bếp chạy ra, mang theo một lô soong chảo bằng đồng. Chỉ vài giây đồng hồ, đã có khoảng một tá lính đang tự nhiên lấy nước đá trên xe xuống.

Vartan vẫn ngồi cúi đầu trên xe, coi như không quan tâm gì đến việc xảy ra trong chiếc xe sau lưng anh ta. Stavros nhìn người anh hùng của chàng một cách lo lắng. Rồi chàng quyết định bắt chước trò chơi của Var-tan, húc khuỷu tay như định nói: “Coi đây nghe”.

Stavros quay lại, nhìn vị sĩ quan: “Thưa Ngài.”

Vartan nhìn xuống lưng ngựa, chờ câu chuyện diễn tiến. Stavros bạo hơn đôi chút, lặp lại: “Thừa Ngài”.

Cuối cùng vị sĩ quan nhìn lên chàng. Sta-vros vội vàng lùi vào sau một nụ cười. Nụ cười đó là điểm đặc biệt nhất của chàng thanh niên này, ngầm chứa sự lo lắng. Đây là phương sách duy nhất của một người dân thiểu số - dù là da đen, Do Thái, hay da vàng mỗi khi hắn đối diện với kẻ thống trị hắn, để che đậy sự uất hận mà hắn không dám để lộ, đồng thời cũng để dần xuống sự nhục nhã gặm nhấm tâm hồn hắn mỗi khi hắn xúc phạm đến những tình cảm chân thành của hắn.

Stavros nói: “Thưa Ngài, mời Ngài cứ tự nhiên cho”.

Vartan bầu nhầu trong miệng chỉ đủ Stav-ros nghe được: “Còn chờ mày khuyến khích nữa”.

Stavros nói giọng nịnh bợ những hỗn xược, lại nói với vị sĩ quan: “Nhưng thưa ngài…”

Viên sĩ quan: “Mày muốn gì?”

Stavros: “Thưa Ngài, con không dám nói gì, nhưng bản chất của nước đá là vậy. Thưa ngài, bản chất của nó là chảy tan. Nó không chịu suy nghĩ giùm là chúng con cần phải đi từ đây ra đến chợ để bán được nó.”

Stavros cười gượng gạo. Viên sĩ quan là một người khỏe mạnh và nóng tính. Hắn rất dễ nổi giận, và cũng rất dễ trở thành nguy hiểm một khi bị chọc giận.

Viên sĩ quan: “Nói trắng ra, mày muốn tao phải gấp lên?”

Stavros quay nhìn Vartan. Nhưng Vartan không tỏ dấu gì muốn giúp đỡ chàng cả. Stavros chỉ còn biết mỉm cười.

Viên sĩ quan nhảy vội lên chiếc xe ngựa và bắt đầu bưng từng tảng nước đá lớn ném xuống. Chỉ trong khoảng khắc, chiếc xe đã vơi đến nửa. Vartan như không để ý. Stavros vẫn giữ nụ cười, nhưng bây giờ thì ai cũng thấy rõ chàng ta lo lắng hồi hộp đến chừng nào.

Viên sĩ quan nhảy xuống khỏi xe. Các binh sĩ cười nghiêng ngửa. Ông ta đáp lại trận cười của binh sĩ ông ta, bằng cách tiến lại phía đầu xe bằng những bước đi nặng nề.

Viên sĩ quan: “Chúng mày chất nặng quà con ngựa già kéo không nổi. Bây giờ nó có thể chạy đến chợ mau hơn. Đúng không?

Stavros nhìn sang Vartan để xem chàng nói gì – Nhưng vartan lặng thinh. Stavros cảm thấy lo sợ. Viên sĩ quan đang đòi hỏi câu trả lời.

Stavros: “ Thưa Ngài đúng ạ”.

Viên sĩ quan: “Bọn chúng mày thuộc sắc dân nào? Armenia hả?”

Stavros nhìn Vartan. Vartan vẫn không ngẩng mặt lên: “Tôi là người Armenia”.

Viên sĩ quan: “Armenia hả? Mày có dính líu gì đến vụ hỏa thiêu Ngân hàng quốc gia ở Constantinople hôm qua không. Hả?”

Vartan không trả lời. Stavros bám vào những túi vải và mỉm cười.

Viên sĩ quan nói với Stavros: “Tại sao máy cười?”

Stavros: “Thưa Ngài, chắc ngài nói đùa thôi”.

Viên sĩ quan: “Đùa?”

Stavros: “Xin Ngài tha lỗi, nhưng Ngài nghĩ cho, làm sao bạn tôi có thể có mặt ở Constantinople ngày hôm qua được? Từ đây đến đó phải đi mất hai tuần lễ.”

Viên sĩ quan: “Dù với con ngựa này?”

Tất cả các binh sĩ đều cười lớn, thưởng thức trò chơi tàn nhẫn này, Stavros có vẻ như cũng phụ họa. Đột nhiên Vartan nhảy xuống khỏi xe và đi về phía viên sĩ quan – Viên sĩ quan không bình thản được, đặt tay vào khẩu súng lục. Vartan nói với viên sĩ quan: “Đại Úy Mehmet. Ông không nhận ra tôi sao? Chúng ta cùng phục vui chung với nhau – tám năm trước. Tôi muốn nói tôi phục vụ Ông, và Ông phục vụ Hoàng Đế. Tôi chỉ là cận vệ của Ông nên dĩ nhiên ông quên tôi. Ông nhớ lại coi, tôi đã đi trộm gà cho Ông.”

Viên sĩ quan nhìn thẳng vào mặt Vartan, và lần đầu tiên nhận ra hắn:

“Vartan, mày đó sao?”

Vartan: “Vâng. Vẫn thằng Vartan đó.”

Viên sĩ quan choàng tay qua vai Vartan, ôm chặt lấy hắn. Stavros nhìn sững Vartan với niềm tôn thờ thần tượng tuyệt đối.

Viên sĩ quan nói với Vartan: “Vartan, chuyện gì xảy ra cho mày?”

Vartan: “Như ông thấy đó, tôi đang gắng kiếm vài đồng kẽm cùng với thẳng nhỏ này.”

Viên sĩ quan hét: “Enver, Chelal. Chất nước đá lên xe mau lên. Mau, tới đấy, leo lên, không nó tan hết bây giờ.”

Các binh sĩ vội vã chất nước đá lên xe. Viên sĩ quan kéo Vartan sang một bên. Stavros lắng nghe câu chuyện của hai người.

Viên sĩ quan: “Những người dân Armenia của mày đã hỏa thiêu nhà cửa chúng tao, mà mày còn muốn tao cám ơn nữa sao. Không được. Hôm nay không một người dân Armenia có thể được tha thứ cái tội làm dân Armenia. Mày nên ở lại đây với tao.”

Stavros ngắt lời, chêm vào: “Anh ta còn mẹ và cha ở dưới phố kia. Và em anh ta nữa.”

Viên sĩ quan ngừng một lúc, rồi: “Vậy thì đành phó thác trong tay Thượng Đế”.

Trong thành phố, những đám dân hoảng hốt chạy vào trong nhà thờ Armenia. Cửa chính được canh giữ cẩn thận bên trong và chỉ hé mở cho những người đến chậm lách vào. Những người đàn ông, đàn bà cuống quit và khiếp sợ chen lấn nhau qua cửa, và ngay sau đó cánh cửa được đóng ập lại. Mọi người trong nhà thờ đều khiếp sợ. Một lát sau, cánh cửa lại hé ra để cho một cậu bé mười một tuổi lách ra khỏi nhà thờ. Cậu bé là em trai của Vartan, tên là Dikran. Cánh cửa lại được đóng kín và cài then ngay lập tức.

Trên đường ven biên thành phố, Dikran thở không nổi vì chạy và vẫy tay ra hiệu cho chiếc xe ngựa của Vartan dừng lại. Đứa bé nhảy lên chỗ mã phu. Hai anh em xì xầm với nhau.

Dikran: “Nhưng, Anh Vartan, cha bảo phải vào đó ngay.”

Vartan: “Anh phải đi bán hết số nước đá này đã.”

Dikran: “Anh muốn em thưa lại với cha như vậy phải không?”

Vartan: “Phải. Em chạy đi ngay và tránh xa các thành phố. Dikran, em phải trở lại nhà thờ. Đi ngay đi.”

Chiếc xe ngựa đậu gần một công viên ở trung tâm thành phố. Bây giờ phần lớn nước đá trên xe đã bán hết. Stavros đang tiếp xúc với một bà cụ già Thổ Nhĩ Kỳ. Vartan đứng trên xe, cất tiếng rao.

Vartan: “Nước đá đây! Nước đá chánh hiệu lấy từ núi cao. Nước đá từ núi Aergius đây.”

Bà cụ già Thổ trao tiền cho Stavros, đồng thời nói nhỏ với chàng: “Trong nhà già có một giếng cạn. Anh ta có thể nấp ở đó.”

Stavros: “Anh ấy không chịu làm vậy đâu.”

Bà cụ già: “Cậu thấy đó. Bọn Armenia cứ như vậy cả. Rồi coi, hắn sẽ chết”

Bà cụ bỏ đi. Stavros nhìn lên Vartan. Nước đá sắp bán hết. Vartan nhảy xuống khỏi chỗ mã phu: Mày nên về nhà ngay bây giờ đi.”

Stavros: “Còn anh?”

Vartan: “Tao đến quán Cây Đàn.”

Stavros: “Để làm gì?”

Vartan: “Uống rượu với bọn sát nhân.”

Stavros: “Để làm gì?”

Vartan: “ Để lấy hứng.”

Stavros: “Lạy Chúa!”

Lúc chàng định lên tiếng phản đối, Vartan đưa tay chỉ: “Mẹ mày đến đó kia.”

Một người đàn bà khoảng bốn mươi lăm tuổi, mặt phủ mạng theo phong tục cổ truyển, đang hấp tấp đi lại phía chiếc xe ngựa. Bà ta là Vasso Topouzoglou mẹ của Stavros, và bà ta đang giận dữ.

Ba ta bước đến bên Stavros, xách một tai của chàng và kéo chàng đi. Người qua lại chú ý nhìn. Vartan cười lớn. Bà Vasso đột ngột bỏ chiếc tai của Stavros ra và quay về phía Vartan: “Này, Vartan, anh nên tránh xa con trai tôi ra. Nếu muốn đùa thì anh nên đùa với mạng sống của anh.”

Rồi bà ta trở lại với Stavros, và đẩy chàng đi. Bà nói: “Cha mày dạy mày sao hả? Đừng gần gữi với thằng đó nữa. Cha mày dặn mày thế rồi mà. Máy có nghe không?”

Bà Vasso vẫn còn giận dữ, đẩy Stavros đi về đến tận nhà.

Bên trong gần như tối mịt. Chừng hơn mươi người chen chúc quanh mọt ngọn đèn dầu. Họ là những trưởng thưởng của sắc dân Hy Lạp trong vùng. Trong số này có ông Isaac Topouzoglou, cha của Stavros, và một linh mục Chính Thống Giáo Hy Lạp có râu. Bà Vasso và Stavros bước vào.

Bà Vasso: “Isaac, con trai lớn của ông đây này.”

Vài người tránh ra, cho thấy ông Isaac. Trong căn nhà của chính ông, ông ngồi oai nghiêm như một ông vua. Ông chờ đợi. Và Vasso tiếp: “Hắn đi với thằng Armenia đó nữa.”

Isaac vẫn không trả lời. Stavros im lặng.

Bà Vasso nói với chàng thanh niên: “Mày đã làm cho cha mày lo lắng suốt một ngày. Lạy hôn tay ông và xin lỗi ông đi”.

Chàng thanh niên bước lại phía người cha.

Bà Vasso lại thêm: “Cha mày dễ dãi với mày quá.” Rồi với chồng bà: “Ông Isaac ạ, ông dễ dãi với con trai ông quá. Nếu ông cho phép tôi nói, địa vị của tôi không cho phép tôi nói.”

Chàng thanh niên đã bước đến trước người cha, và đứng trước mặt ông ta. Đột nhiên người cha đưa tay tát mạnh vào mặt chàng trai.

Bà Vasso: “Đáng đời mày chưa?”

Người cha lại đưa tay vừa dùng để tát chàng trai, cho chàng hôn. Stavros hôn lên bàn tay đó.

Bà Vasso nói: “Được lắm”.

Rồi ông Issac ôm hôn cậu con. Bà Vasso gật đầu tán đồng với cử chỉ này. Như vậy nghi lễ đã hoàn tất.

Ông Issac hỏi Stavros: “Con ăn gì chưa?”

Stavros: “Thưa cha con không đói”

Bà Vasso: “Con phải ăn chút gì.”

Ba ta đi xuống bếp. Những người đàn ông lại xúm quanh ngọn đèn dầu.

Một người hỏi: “Thằng Armenia đó là ai vậy?”

Ông Issac: “Con trai ông Damadian, tên hắn ta là Vartan.”

Một người thì thầm như tiếng ong kêu: “Không khá. Thằng đó không khá. Không khá chút nào.”

Một người khác: “Hắn không biết thân phận hắn tí nào cả.”

Stavros đã chăm chú nghe những lời bình phẩm. Những gì vừa được phát biểu làm chàng tức giận. Bây giờ chàng đứng lên và đi về phía cầu thang.

Ông Issac nói: “Ồ…Việc đó không ăn nhập gì đến chúng mình. Họ là người Armenia. Mình là người Hy Lạp. Đầu của họ không phải là đầu của mình.”

Stavros đứng trên bậc cầu thang, không dừng được, nói:

“Rất đúng. Chúng nó dành đầu của chúng ta đến cuộc lễ sau.”

Chàng đi lên và khuất khỏi tầm mắt mọi người.

Mọi người sửng sốt vì câu nói của chàng, không phải chỉ vì cái tư tưởng được diễn tả, mà vì cái sự táo bạo của việc Stavros đã dám lên tiếng trong hội đồng gia tộc.

Một người hỏi: “Gì? Nó nói gì vậy?”

Vị linh mục Chính Thống Giáo: “Tất cả chúng ta đều nghe nói gì.”

Mọi người ngẩn ngơ lặng thinh một lúc. Rồi tất cả nhao nhao nói cùng lúc.

Ông Isaac: “Xxxxillli!”

Một người im lặng lập tức, nhìn ra phía cửa sổ, như lo sợ người lạ có thể nghe được. Cuộc thảo luận lại tiếp tục, bây giờ bằng giọng thì thầm.

Stavros đi vào phòng ngủ của chnafg, đóng cửa lại, tiến tới cửa sổ, mở ra và nhảy ra ngoài đêm tối.

Quán Cây Đàn là tổng hợp ba loại quán: quán rượu, quán cà phê, quán ca vũ. Nền bằng đất nện. Chủ là người Thổ Nhĩ Kỳ, những người trông coi quán cũng là người Thổ Nhĩ Kỳ. Khách hàng lúc này chật cả quán, phần lớn đều say khướt, trông ai cũng bẩn thỉu. Họ là những bọn lang bạt, phu khuân vác, mã phu, những kẻ phạm pháp, binh sĩ, gia nhân ngoài giờ làm việc. Người đàn bà duy nhất lúc này là một ca nữ. Trông nàng giống như đàn ông. Nàng ngồi giữa hai người đánh đàn ghi ta. Trong bất cứ bài hát nào, nàng cũng là cả một thử thách đối với hai tay đàn. Nàng đang hát một bản dân ca, đến đoạn lên giọng thanh. Hai người phu nhảy múa trên một bụng gỗ trước mặt nhạc công.

Stavros đưa mắt tìm Vartan, và thấy anh ta ngồi một mình trong góc quán, uống rượu một mình bên một chiếc bàn. Stavros đến ngồi vào bàn. Vartan nhấp ngụm rượu, rồi chỉ vào đám khách trong quán, nói: “Nhà tù trống hết rồi.”

Nhạc ngưng. Hai người khiêu vũ rời bục gỗ. Vartan đứng lên đi về phía cửa. Stavros theo sau. Vartan đến trước nhạc công, và theo tục lệ, anh ta ném vài đồng xu xuống chân họ. Họ bắt đầu gẩy đàn. Stavros bước theo sát, rồi cả hai người khiên vũ riêng rẽ, nhưng cùng theo một tiết điệu, với một tâm tình như nhau. Lối khiêu vũ chậm chạp, xoay tròn của họ có một vẻ đẹp đặc biệt. Và mặc dầu họ không nhìn nhau, chúng ta cảm thấy họ đang khiêu vũ với nhau.

Rồi đột nhiên, vào lúc điệu vũ đến đoạn coi như tột đỉnh, Stavros kêu khẽ: “Mỹ quốc, Mỹ quốc ơi.”

Chàng gọi lên tiếng đó như nối liền làm một, với vẻ tha thiết, thèm khát lớn nhất.

Vartan: “Mày sẵn sang chưa?”

Stavros chậm rãi gật đầu.

Vartan: “Đi, chúng ta đi. Nếu ngày mai chúng ta không đi thì…”

Vài người đàn ông bước đến nói với nhạc công. Mọi người ngẩng nhìn Vartan và Stavros. Nhạc ngưng lại. Rồi nhạc công trưởng toán đá đồng xu mà Vartan ném cho họ ra khỏi bục gỗ. Mọi người trong phòng đăm đăm nhìn hai thanh niên. Cả phòng im lặng nghẹt thở một lúc khá lâu. Chợt từ xa có tiếng huyên náo. Cuối cùng là một tiếng la lớn. Một người chạy vào báo tin. Nhiều người xúm quanh. Một người la to: “Bắt đầu rồi.”

Tại nhà thờ Armenia, nơi dân chúng đến tị nạn, củi, gỗ, dăm bào đang được chất vào hai bên nhà thờ. Những tiếng la hét vang lên. Một hàng rào bị phá ra để chất thêm vào đống củi gỗ. Lại một tiếng la lớn. Quả thật đây là một ngày lễ của những người độc ác. Một số lính quân phục lôi thôi đang đứng chỉ huy.

Vartan và Stavros chạy lại. Vài đứa trẻ, trong số có thằng Dikran vây quanh Vartan, khiếp sợ, ngơ ngác. Thằng Dikran nắm chặt tay Vartan. Vartan choàng tay quanh hai em trai. Người ta có thể nghe được những tiếng la hét, hò reo, cười giỡn.

Trước cửa nhà thờ, một cựu chiến binh bận áo choàng nhà binh nằm râu một người Armenia già. Tay kia hắn cầm một lưỡi gươm cong. Cụ già đưa hai tay lên trời trong một cử chỉ dâng hiến sinh mạng mình.

Người lính già: “Chúng tôi không muốn hại cụ làm gì. Chúng tôi muốn trừ khử những bọn còn sinh lực trong kia. Bây giờ cụ vào trong đó gọi chúng nó ra van xin tha mạng đi.”

Hắn ta thả cụ già ra, và cụ già nhìn vào cửa sổ nhà thờ. Bà vợ của cụ đang nhìn ra cụ. Cụ già thẳng người lên và chọn hành động cuối cùng trong đời cụ: cụ nhổ nước bọt vào mặt người lính.

Đây là cái cớ mà người lính Thổ chờ đợi. Hắn hét lên: “Đốt! Đốt!

Từ cửa sổ nhà thờ bà già nhìn cái chết mau chóng của chồng bà. Mắt bà đầy vẻ khiếp hãi, khi lưỡi gươm của người lính lia xuống. Lập tức các người lính châm lửa vào những đống củi gỗ quanh nhà thờ. Ngọn lửa quanh nhà thờ bốc cháy thật lẹ.

Bên trong nhà thờ, khói tràn vào. Những người Armenia độ năm mươi hoặc sáu mươi người tu lại quanh bàn thờ cầu nguyện. Khi khói tràn ngập vào bên trong, họ bắt đầu hoảng hốt, trẻ con khóc la, đàn ông hò hét.

Bên ngoài, Stavros lùi lại một khoảng, khiếp sợ đến toát mồ hôi. Thằng Dikran và một vài đứa trẻ đến sát cửa nhà thờ, ngắm nhìn lửa khỏi.

Bên trong nhà thờ cảnh hỗn loạn lên đến cùng tột, khi ngôi nhà thờ bắt đầu cháy.

Vartan có một kế hoạch tuyệt vọng cho trường hợp khẩn cấp này. Đột nhiên hắn la lớn: “Dikran”, rồi hắn nhào vào viên sĩ quan Thổ, giặt con dao găm ở thắt lưng của ông ta, và đâm túi bụi vào ông ta. Rồi anh ta cướp khẩu súng lục và giơ lên cản những người từ mọi phía đang tiến lại anh.

Nhờ kế hoạch đó của Vartan, cổng chính nhà thờ trong một lúc không có người gác. Dikran và vài đứa trẻ khác chạy lại mở cổng nhà thờ. Dân chúng từ bên trong xô nhau chạy ra.

Những người khát máu xúm quanh Vartan. Như một đàn chó săn quanh một con chồn. Stavros không biết phải làm gì. Rồi đột nhiên không còn cách nào có thể cứu Vartan được nữa. Hoàn toàn không còn cách gì.

Dân chúng chạy ra khỏi cổng chính nhà thờ, để đi khắp các ngõ – đàn ông, đàn bà, trẻ con. Người Thổ đuổi theo người Armenia, hạ sát những ai họ bắt được, bất kể già trẻ nam nữ. Một người Thổ hét lớn: “Bọn đàn ông! Tha bọn đàn bà! Giết hết bọn đàn ông đi…”

Một buổi sáng thật ảm đạm. Những người đàn bà bận tang phục đen đến nhà thờ đã cháy rụi tìm xác chồng hay con trai họ. Xác Vartan được phủ một tấm thảm cháy nám. Stavros ngồi cạnh khóc thành từng tiếng nấc nghẹn. Trong tay, chàng cầm chiếc khăn chụp đầu của Vartan.

Khu xóm người Armenia được các toán lính Thổ bao vây, gọi là để bảo vệ trật tự. Stavros ôm xác bạn về nhà. Các ngõ đường la liệt những vật gia dụng. Những vụ cướp giật, hôi của vẫn tiếp tục.

Stavros mệt lử người. Vartan thật nặng. Stavros đi vài bước, dừng lại, rồi tiếp, tựa người vào một thân cây, rồi bước đi vài bước nữa. Chiếc khăn chụp đầu của Vartan vẫn còn trong tay chàng.

Hai lính gác Thổ nhìn thấy Stavros. Một tay đến nắm tay Stavros lại. Xác chết rơi xuống và lăn đi một vòng. Stavros định đến ẵm xác bạn lên. Nhưng hai người lính đã nhào đến. Lúc họ bắt Stavros đi, vài người đàn bà bận đồ đen xà tới, khiêng xác Vartan lên và đem đi.

Trong một khoảng sân của nhà tù thành phố, khoảng năm mươi người đàn ông, những người Armenia với nét mặt thảm não, tuyệt vọng ngồi lặng thinh. Khoảnh sân bẩn thỉu hết sức. Stavros vẫn còn cầm chặt chiếc khăn chụp đầu của Vartan trong tay. Một chiếc giầy đá vào hông chàng.

Một tiếng nói: “Đứng lên.”

Ông Isaac, cha Stavros ngồi trong phòng làm việc của quan Tổng Trấn, với dáng điệu của người đến van xin. Ở các góc phòng, những viên chức trong Hội đồng bàn tán những chuyện xảy ra đêm rồi.

Câu chuyện giữa quan Tổng Trấn và ông Isaac là một câu chuyện riêng tư. Quan Tổng Trấn, với dáng điệu của người đến van xin. Ở các góc phòng, những viên chức trong Hội Đồng bàn tán những chuyện xảy ra đem rồi.

Câu chuyện giữa quan Tổng Trấn và ông Isaac là một câu chuyện riêng tư. Quan Tổng Trấn đưa cho Ông Isaac lọ nước hoa để xoa tay và mặt cho tỉnh táo hơn.

Quan Tổng Trấn nói: “ Một khi những chuyện khủng khiếp đó bắt đầu, thì chúng phải đi theo diễn tiến của chúng. Người nhẫn nại phải chờ đợi. Như lời đấng tiên tri truyền dạy vậy, sự thù hận tự nó sẽ tan dần. Tôi không thích thú gì khi thấy bọn người Armenia gây ra chuyện này. Tôi tin tưởng rằng với ơn thiêng của Thượng Đế, một ngày nào đó, mọi giống dân có thể sống hòa thuận với nhau. Kể cả bọn Armenia.”

Ông Issac: “Thưa ngài, đó là niềm hy vọng của cả nhân loại.”

Ông Isaac hồi hộp nhìn ra phía cửa. Quan Tổng Trấn để ý đến cử chỉ đó, cười nói: “Họ sắp đưa nó vào đây, ông bạn ạ. Họ sắp đưa nó vào đây mà. Ông bạn cứ ngồi yêu đi! Sao? Ông bạn cười?”

Ông Isaac mỉm cười, nói: “Dạ, dạ. Tôi rất đội ơn quan.”

Quan Tổng Trấn: “Không sao. Tôi không phải chỉ thương mình ông bạn. Tôi thương tất cả những người dân Hy Lạp.”

Ông Isaac: “Dạ, thưa quan, chúng tôi đều biết rõ điều đó.”

Quan Tổng Trấn: “Tôi giữ nhiệm vụ này là để làm những việc tốt mà tôi có thể làm được. Ông bạn biết rõ điều đó chớ?”

Theo thói quen, ông Isaac đút tay vào túi.

Quan Tổng Trấn: “Tôi làm việc tốt. Tôi giúp đỡ dân chúng. Ông bạn có thấy vậy không?”

Ông Isaac: “Dạ dạ, chúng tôi hết lòng đội ơn quan.”

Quan Tổng Trấn: “Tôi muốn nói riêng về ông bạn. Ở đây ông bạn làm ăn có vẻ khá lắm. Người Thổ Nhĩ Kỳ thương ông bạn và công việc làm ăn của ông bạn khá lắm.”

Ông Isaac: “Dạ dạ, chúng tôi cố gắng sống qua ngày.”

Quan Tổng trấn: “Tôi biết ông bạn khá lắm. Tôi mừng giùm.”

Cánh cửa văn phòng mở ra từ tư. Một người hầu đứng bên cửa, chỉ cho phép cánh cửa mở hé ra thôi. Một người lính nghiêng đầu vào thì thầm với người hầu. Sau lưng hắn người ta có thể thấy Stavros. Người hầu bước đến trước quan Tổng Trấn, dừng lại, nói nhỏ: “Thưa Ngài, xin Ngài tha tội…”

Quan Tổng Trấn: “Giữ hắn lại đó một lúc.”

Rồi ông ta quay lại nhìn ông Isaac. Ông Isaac đã rút tay ra khỏi túi áo. Trong tay ông có một số tiền. Ông đứng lên. Quan Tổng Trấn cũng đứng lên. Theo một nghi lễ cổ truyền. Ông Isaac cúi thấp người, hôn lên tay quan Tổng Trấn, đồng thời đặt số tiền vào bàn tay quan.

Stavros đứng ngoài cửa nhìn thấy sự việc này. Chàng xấu hổ giùm cho cha. Chàng nhìn một gia nó bưng thức uống đến mời những viên chức Hội Đồng. Theo dấu tay của quan Tổng Trấn, người gia nó bưng thức uống đến mời ông Isaac. Ông Isaac cầm. Các viên chức hội đồng cầm thức uống trên tay, đi lại phía quan Tổng Trấn. Ông Isaac bị vây quanh. Họ uống mừng. Tất cả cùng uống, trừ ông Isaac. Rồi một viên chức Hội Đồng để ý thấy ông Isaac không uống. Ông ta ra dấu cho ông Isaac hiểu rằng ông phải uống nếu không sẽ phật lòng những người chủ của ông.

Stavros đứng ngoài cửa chăm chú nhìn xem cha chàng sẽ làm gì. Ông Isaac bị vây giữa các viên chức Hội Đồng, nâng cốc uống. Ông còn biết làm gì hơn? Ôi buồn cười quá!

Ông Isaac và Stavros bước xuống những bậc cấp trước tòa Thị Sảnh. Stavros nhìn cha chàng với một vẻ chú ý mới. Đột nhiên ông Isaac ngẩng đầu nhìn lên nhìn chàng trai. Stavros cúi xuống.

Ông Isaac: “Stavros? Chuyện gì?”

Chàng trai nhìn xuống, bước tiếp. Ông Isaac rơi lại phía sau, tính hỏi tiếp con trai ông.

Stavros đã đi đến một đường hẹp nhỏ. Đột ngột, không giải thích gì, chàng quẹo vào đường hẻm và biến mất. Ông Isaac chạy đến đầu đường, gọi: “Stavros! Stavros!”

Stavros bây giờ đang chạy đến cuối đường hẻm, chạy thật nhanh. Chỉ trong vài giây, chàng đã biến mất. Ông Isaac quay lại và bỏ đi. Ông có vẻ bối rối lắm.

Từ xa, người ta đã có thể nhìn thấy một sườn núi dốc đứng. Ngày xưa dân chúng sống trong vùng đã cất nhà men theo sườn dốc đó để tự vệ chống lại kẻ thù và những bọn cướp khuấy rối khắp vùng. Với thời gian, những ngôi nhà bị mục nát, sụp đổ dần, nhưng vẫn còn một số người sống trong những ngôi nhà sụp đổ đó. Lúc này người ta chỉ thấy một bóng người bé nhỏ di động từ dưới xa sườn dốc. Đó là chàng Stavros, nhìn lên và gọi lớn. Stavros gọi: “Nội ơi, Nội.”

Giữa những đống gạch đá ngổn ngang rải rác, người ta có thể nhìn thấy một chiếc nhà hầm bằng gỗ mục nát. Bên trong có một vài tiếng động. Một bóng người hiện ra trong khung cửa ngang đầu căn nhà hầm.

Đó là một bà cụ trên bảy mươi tuổi, nhưng còn khỏe mạnh lắm. Khuôn mặt bà khô héo. Stavros gọi tiếp: “Nội ơi.” Bà cụ nhìn cậu trai đang đi lại gần mà không có vẻ gì mừng rỡ hết. Trên trời bồ câu bay rất nhiều.

Stavros vừa đến gần, vừa đưa tay vẫy. Bà nội của chàng không hề làm một cử động nào, chỉ nhìn chàng trai đăm đăm. Stavros lên tới nơi mỉm cười.

Bà nội hỏi: “Mày muốn gì?”

Stavros: “Con lên thăm nội.”

Bà nội: “Để làm gì? Trông mày không được khỏe lắm. Thằng Hy Lạp tử tế, cha mày đó. Ra sao? Mày có biết tại sao chồn cáo thương yêu thỏ không? Vì thỏ không có nanh vuốt. Cha mày sao? Ông nội mày mới xứng đáng là một người! Tao đang đợi mày. Ông nói với tao mày sắp đến.”

Stavros: “Ai vậy nội?”

Bà nội: “Ông nội mày. Ông đến thăm tao đêm qua. Tao tưởng ông ta tìm được một bà vợ dưới âm phủ rồi chớ. Thôi, biết làm sao bây giờ? Nhưng ông ta vẫn lên thăm tao. Có chuyện gì vậy?”

Stavros: “Cháu chỉ lên thăm bà nội thôi.”

Bà nội: “Mày nói láp. Lạy chúa. Tao hy vọng mày sẽ không giống thằng cha mày. Bây giờ mày có cái nụ cười của thằng cha mày rồi! Thôi, biết làm sao hơn! Bây giờ bọn đàn ông trong gia đình đều nói láo. Bọn Thổ nhổ nước bọt vào mặt họ, và họ nói đó là trời mưa. Thôi nói đi. Mày đến đây làm gì? Và đừng có nói láo nữa, vì ông nội mày đã cho tao biết mày muốn gì rồi.”

Stavros: “Ông nội nói cháu muốn gì vậy nội?”

Bà nội: “Tiền. Đúng không? Nói đi!”

Stavros: “Đúng.”

Bà nội: “Tại sao tao phải cho mày tiền?”

Stavros: “Nội dùng tiền làm gì nữa? Nội già rồi.”

Bà cụ cầm một chiếc gậy và quất thật mạnh vào người Stavros.

Bà nội: “Xéo đi, xéo đi, xéo ngay đi!”

Stavros giật chiếc gậy từ tay bà cụ, bẻ ra làm đôi: “Bây giờ nội nghe cháu nói đây. Cháu sắp đi. Đi xa lắm.”

Bà nội: “Tốt.”

Stavros: “Rất xa”.

Bà nội: “Càng xa bao nhiêu tốt bấy nhiêu”

Stavros: “Tận bên Mỹ lận. Cháu sắp đi sang Mỹ.”

Bà nội: “Mày!”

Stavros: “Nội sẽ không bao giờ gặp lại cháu nữa.”

Bà nội: “Mày! Mày sẽ ở lại bên thằng cha mày. Mày là một thằng con có hiếu.”

Stavros: “Nội chỉ cần cho cháu đủ tiền đi từ đây đến Constantinople thôi. Đến đó cháu sẽ tìm việc làm và kiếm đủ tiền đi Mỹ. Nội nghe cháu đây. Nội là hy vọng duy nhất của cháu. Nội đừng từ chối cháu”.

Bà cụ đột ngột quay vào trong căn hầm. Stavros đi theo.

Căn hầm rất hẹp, chất đầy tất cả những đồ đạc mà bà cụ có và quí mến.

Lúc Stavros bước vào, thì bà cụ đang quì xuống lục lọi tận trong cùng một chiếc tủ cũ kỹ.

Bà nội: “Nội còn nhớ lúc cháu là một đứa bé hiền lành, tròn trịa, như một miếng bơ. Rồi nội nhớ lúc cháu bận bộ quần áo lính thủy màu xanh mà mẹ cháu may cho cho cháu. Trông cháu như một thiên thần, với khuôn mặt trắng đấy ân phúc và đôi mắt long lanh ánh sáng của Chúa.”

Khuôn mặt của Stavros quả thực có cái vẻ ngây thơ trong sạch thuần khiết. Bà già kéo ra một vật gì bọc trong một mảnh vải.

Bà nội: “Rồi nội nghĩ, làm sao cho thế gian này được như vậy cả.”

Bà cụ đã mở mảnh vải ra và cầm trên tay một con dao găm lưỡi cong trông hết sức dữ dằn. Giọng bà cụ trở nên rắn rỏi:

“Đây! Con dao của ông nội mày”.

Stavros: “Lạy chúa! Cháu không cần cái này. Cháu cần tiền thôi.”

Bà nội: “Mày cần cái này hơn. Cầm lấy. Nó sẽ nhắc cho mày nhớ rằng không có con cừu nào được tha mạng nhờ nó rên la.”

Stavros giật lấy con dao: “Được rồi. Cháu sẽ ra phố và cháu sẽ đâm thằng lính cháu gặp đầu tiên và…”

Bà nội: “Này, Stavros, mày không dọa tao nổi đâu.”

Rồi đột nhiên chàng trai nạy ván lên, hất tung những miếng kim khí, những gói quần áo rách, những tấm thảm vụn phủ trên sàn gác. Bà già nhìn một lúc với vẻ mặt chế giễu. Rồi nói: “Nó nằm trong này…Bên dưới áo của tao.”

Bà cụ chỉ vào bụng, đứng yên, lưng còng, với vẻ thách thức. Stavros cầm con dao găm trong tay, nhìn bà cụ đăm đăm một lúc. Một thoáng, người ta tưởng chàng có thể giựt tay áo bà cụ. Chàng từ tư tiến gần lại phía bà cụ. Nhưng cái thong chốc đó trôi qua.

Bà nội: “Mày sẽ không đi Mỹ. Mày là con trai của cha mày nên sẽ giống cha mày. Về nhà đi. Sống yên phận.”

Bà già quay lưng lại phía chàng và chậm chạp sắp xếp các đồ đạc vừa lấy ra vào tủ. Một tiếng hét thoát ra khỏi miệng chàng trai – tiếng thét giải thoát, buồn thảm, tức giận với chính mình. Vẫn cầm con dao găm trong tay, chàng bỏ đi.

Stavros đi về phía thành phố. Mặt trời sắp lặn. Theo sau chàng và sắp bắt kịp chàng, có một thanh niên khẳng khiu như một thân cây: Hohannes Gardashian. Hắn có vẻ như lúc nào cũng cắm cổ lao về phía trước. Quần áo hắn rách rưới, vá víu nhiều lớp, bám đầy bụi đất. Một gói nhỏ đeo trên lưng hắn. Mặt hắn rạng rỡ, sáng rực vì một niềm hy vọng tuyệt vời.

Hohannes đi quá Stavros, rồi dừng lại, bọ một cơn ho dữ dội làm cho hắn gục đôi người lại bên vệ đường, chờ cho cơn ho qua đi, Cơn ho lịm tắt khi Stavros đến sát bên và Hohannes quay lại, đưa tay ra, mỉm cười: “Làm ơn…làm ơn…”

Stavros không còn lòng dạ nghĩ đến ai, lắc đầu với vẻ cáu kỉnh, đi tiếp. Hohannes từ phía sau nói: “Làm ơn nghe tôi…Tôi sẽ nhớ ơn mãi mãi. Từ bên Mỹ tôi sẽ cầu nguyện cho ông.”

Stavros đứng sựng hẳn lại, quay lại. Ho-hannes vẫn gập người bên đường, mỉm cười và đưa một bàn tay ra: “Làm ơn, làm ơn…”

Stavros đi lui lại, hỏi: “Anh đi sang Mỹ? Anh…?”

Hohannes: “Với ơn Chúa.”

Stavros: “Đi bộ?”

Hohannes: “Đành vậy.”

Stavros: “Và không có gì cả?”

Hohannes: “Mỗi ngày một đoạn đường.”

Stavros nhìn sửng. Chàng ghen tức một cách chua xót.

Stavros: “Làm sao anh có thể đi đến đó được với những món này, hở?”

Chàng chỉ đôi giày của hohannes, đang há mọm chờ ngày tàn. Hohannes cúi nhìn đôi giày, xấu hổ, mìm cười.

Stavros: “Đây này”

Chàng cởi giầy của mình ra và ném xuống dưới chân Hohannes. Rồi không nói thêm tiếng nào, chàng quay đi. Sau vài bước, chàng quay đầu lại: “Anh từ đâu đến?”

Hohannes đang cuống quít xỏ chân vào đôi giày của Stavros, lo sợ Stavros có thể đổi ý: “Từ xa lắc xa lơ. Đằng sau những đám mây kia là những dãy núi, những dãy núi của xứ Armenia. Tôi sẽ không bao giờ phải nhìn thấy những dãy núi đó nữa.”

Hắn nhảy dựng lên, sung sướng vì món quà. Hắn đi thử mấy bước để ướm đôi giày, nói: “Cảm ơn. Tôi sẽ nhớ đến anh.”

Hắn quay về hướng Tây, đi thẳng về phía mặt trời lặn.

Trong gia đình Topouzoglou, cả nhà đang ăn cơm tối. Ngồi quanh chiếc bàn thấp có bốn em trai và ba em gái của Stavros, cùng với bà cô ế chồng và một ông chú già. Họ không để ý đến bất cứ gì ngoài thức ăn. Bà Vasso đang dọn đĩa ăn cho ông Isacc, lúc đó không thấy ngồi đầu bàn ăn như thường lệ. Bà múc thức ăn đầy đĩa, rồi bưng vào phòng ngủ của hai vợ chồng. Cả gia đình vẫn ăn. Họ nghe tiếng bà Vasso: “Isaac, tôi bưng thức ăn vào cho ông đây.”

Mọi người ngừng ăn một lúc để lắng nghe. Họ không nghe tiếng trả lời của ông Isaac. Họ lắc đầu, tặc lưỡi ăn tiếp.

Tiếng bà Vasso: “Isaac! Bây giờ tôi muốn ông ăn một chút gì.”

Tiếng ông chú già: “Ông ấy làm như vậy một lần trước đây. Ở lì trong đó chín ngày liền.”

Mọi người lại ngừng ăn để nghe ngóng tình hình thế nào, xầm xì. “Xịt!!!” Rồi lại ăn tiếp.

Trong phòng đôi vợ chồng, ông Isaac ngồi ở một góc tối, quay lưng về phía của phòng. Bà Vasso cố gắng lần chót: “Isaac!”

Cuối cùng giọng ông Isaac nghiêm nghị: “Vasso, bà quên địa vị của bà và của tôi. Nếu tôi cần thức ăn, tôi sẽ gọi bà.” Rồi vẫn nghiêm nghị, nhưng có đôi chút dịu dàng, tiếp: “Bây giờ, tôi không muốn gặp bà. Tôi muốn gặp con trai tôi”.

Bà Vasso ra đi, không nói thêm lời nào.

Bà đến bên bàn ăn, và đặt đĩa thức ăn xuống. Mấy đứa con trai lập tức chia nhau thức ăn trong đĩa. Bà Vasso nói: “Ông ấy đang suy nghĩa điều gì trong đầu…điều gì nghiêm trọng.”

Cánh cửa phòng ngoài mở ra. Mọi người quay lại. Bà Vasso: “May quá”.

Từ trong phòng ngủ, ông Isaac cũng đã nghe tiếng cửa ngoài mở. Ông Isaac gọi lớn: “Stavros!”

Ông chờ. Sau một lúc chàng trai bước vào, theo sau là bà Vasso với vẻ dữ dằn.

Isaac: “Cha đang chờ con.”

Bà Vasso giận dữ: “Này, giầy mày đâu? Mày vất đôi giầy mày đâu rồi?”

Isaac: “Vasso!”

Bà Vasso: “Sao, đâu rồi?”

Isaac: “Vasso! Đi ra…ngay!”

Bà Vasso do dự một chút, rồi nói: “Được. Tôi ran gay.” Rồi quay sang Stavros, bà dặn: “Nhớ nghe. Mày nói chuyện với cha mày đó nghe”.

Bà ta đi ra ngoài. Trong phòng chỉ còn lại hai cha con.

Isaac: “Lại đây. Con. Ngồi xuống gần cha đây. Cha không thấy con một ngày là đã thấy con thay đổi. Con có uống cà phê không?”

Stavros: “Thưa cha, con không uống.”

Bà Vasso trở vào, mang theo một đôi dép. Bà quì xuống xỏ đôi dép vào chân cho Stavros.

Ông Isaac nói: “Con uống với cha một ly cà phê.”

Bà Vasso: “Bày đặt nữa”.

Ông Isaac: “Vasso, hai ly cà phê ngay lập tức!”

Bà Vasso trả lời: “Có ngay lập tức.”

Bà đứng lên và đi ra. Giọng nói của ông Isaac trở nên thân mật.

Ông Isaac: “Cha đã quyết định rồi.”

Stavros: “Cha sẽ gửi con lên thủ đô Cons-tantinople.”

Stavros: “Cha nói sao?”

Ông Isaac: “Cả gia đình chúng ta sẽ rời khỏi nơi này. Con đi trước.”

Stavros đứng lên và chậm chạp đi lại gần ông Isaac.

Ông Isaac: “Con sẽ mang theo tất cả những gì quí giá mà gia đình này có.”

Stavros quì xuống và cầm lấy tay cha, làm như bàn tay đó là một vật linh thiêng, rồi cúi xuống và hôn lên bàn tay người cha.

Ông Isaac cố gắng tiếp tục: “Con sẽ mang theo…”

Nhưng ông không thể nói tiếp. Cử chỉ của đứa con trai làm ông xúc động. Giọng ông đứt quãng: “Con sẽ…Cha nói là…tất cả những gì quí giá nhất mà gia đình ta có…”

Bà Vasso và đứa con gái lớn của bà mười sau tuổi, Athena, đang ở trong phòng ngủ trên lầu. Cô gái làm việc – những lúc công việc nhà cho phép có – để chuẩn bị một số hồi môn mang về cho chồng trong ngày cưới. Phần lớn những của hồi môn đó gồm những sản phẩm tiểu công nghệ nhỏ. Trong góc phòng ngủ của cô có đặt một khung dệt. Athena đang quì gối bên khung dệt, tháo ra một tấm chăn khỏi khung. Tấm chăn được dệt không lấy gì làm tinh xảo lắm, nhưng đối với cô gái thì rất quí giá. Nàng đứng lên, cầm tấm chăn trao cho bà Vasso, rồi lấy từ một đống bên dưới khung dệt ra hai tấm khác đem lại cho mẹ.

Bà Vasso khuyến khích con gái: “Đến mùa đông này đêm đêm mẹ sẽ lên đây rồi hai mẹ con ta sẽ dệt chung. Như vậy đến ngày cưới của con, con sẽ có đầy đủ chăn.”

Trong một phòng ngủ khác, đứa con gái nhỏ, Fofo, mười ba tuổi đứng trước tấm gương, từ từ tháo bông tai ra. Mắt cô bé đẫm lệ. Cô bé chưa bao giờ tháo đôi bông tai ra từ ngày tai có được xuyên lỗ. Bà Vasso đi vào, đến bên con gái, đứng yên một lúc chờ đợi. Fofo đưa đôi vòng cho mẹ. Bà Vasso hôn con gái rồi bước ra.

Trong một góc khuất của căn phòng hầm, Stavros và ông Isaac đang quì dưới đất. Ông Isaac thì cầm một cây đèn dầu, còn Stavros thì đang đào, bằng một chiếc xẻng nhỏ.

Ông Isaac nói: “Thỉnh thoảng cha đanh phải làm như vậy – con biết đó – chúng ta sống dưới quyền sinh sát của người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng Stavros, con ạ, cha vẫn giữ được danh dự trong tâm hồn mình. Con thấy đó, chúng ta còn sống sót được. Sau một thời gian, người ta không còn thấy nhục nhã nữa.”

Trong một góc phòng ngủ cuối nhà, hai bà cô đành dâng hiến những món đồ quí giá của hai b”.

Bà Vasso nói: “Anna, cô dùng những thứ đó làm gì nữa? Làm đẹp hay sao? Trẻ quá rồi cưng ạ.”

Bà cầm lấy sợi dây chuyền. Bà cô bật khóc.

Stavros vẫn tiếp tục đào trong góc phòng hầm. Isaac lấy từ túi ra một lá thư, nói: “Hôm qua, cha vừa nhận được một lá thư của một người họ hàng từ Constantinople.” Ông đọc: “Isaac thân mến. Tôi rất sung sướng. Anh cứ cho Stavros đem tiền lên chung vào với tôi, tôi sẽ để đó làm ăn chung với tôi.” Bằng giọng nói chuyện. ông tiếp: “Con biết là ông ta có một tiệm buôn khá phát đạt ở đó. Rồi con sẽ thấy một cửa tiệm phát đạt…”

Stavros: “Nhưng cha à, chúng ta đến Cons-tantinople thì có dễ chịu hơn không?”

Ông Isaac: “Chắc chắn là hơn. Vả lại chúng ta biết đi đâu hơn? Đó là hy vọng cuối cùng của chúng ta.”

Nhưng đối với Stavros thì đó không phải là hy vọng cuối cùng. Chàng lại đào tiếp.

Cạnh căn nhà giữa, là một nhà xép được gia đình dùng làm chỗ sấy thịt. Bà Vasso và hai đứa em đang gói những tảng thịt khô vào vải. Một trong hai đứa em hỏi: “Mùa đông này rồi chúng ta lấy gì ăn đây?”

Bà Vasso trả lời: “Đã có lúc nào mày không có ăn chưa, thằng mập kia?”

Đứa em kia: “Người Tàu ăn thịt chó”.

Trong góc phòng hầm, Stavros chỉ còn đào.

Ông Isaac: “Con sẽ đem theo tất cả thịt sấy khô của gia đình ta. Con sẽ mang theo hai tấm thảm trải trên gác. Nói tóm lại tất cả những gì con có thể bán được, con lừa nhà ta, phải, cả con lừa nhà ta nữa con cũng lấy theo và khi đến Constantinople con sẽ đem bán đi. Rồi con sẽ đem theo những nữ trang đựng trong chiếc hộp này.”

Ngay lúc đó đầu xẻng dụng vào nắp chiếc hộp. Stavros và cha chàng bắt đầu móc chiếc hộp lên.

Ông Isaac: “Đây là những nữ trang của mẹ con, khi mẹ con lấy cha.”

Trên căn gác, cả nhà đang xúm quanh chiếc hộp, mà ông Isaac đang mở. Lúc nắp hộp được mở lên, cả nhà reo: “Ô…!ô!! ô!!!”

Bà Vasso lấy ra một sợi giây chuyền với tượng nhỏ, ngắm nghía rồi nói: “Cái này của bà ngoại. Như vậy này. Bà ngoại đeo như vậy nè.”

Bà chỉ vào một tấm hình cũ treo trên tường. Trong hình là một người đàn bà bận y phục những năm đầu thế kỷ mười chín. Bà mẹ của bà Vasso là một người đàn bà khá đẹp với những nét lai lai Mông Cổ. Bà đeo sợi dây chuyền với bức tượng nhỏ trước ngực.

Bà Vasso nói: “Mẹ định cho con khi con lấy chồng.”

Rồi bà quay qua Stavros…

Cô em Athena nói: “Thôi, như thế càng hay mẹ ạ.”

Vào buổi tối trước ngày Stavros đi xa, để gia đình đoàn tụ trong bầu không khí nghiêm trang. Ông Isaac chủ tọa một cuộc họp có tích cách lịch sử.

Ông Isaac lên tiếng: “Rồi con sẽ đem ba em gái con lên Constantinople. Là anh cả, con có bổn phận lo gả chồng đàng hoàng cho chúng nó.”

Stavros nhìn các em gái một cách trịnh trọng. Các cô em có vẻ nghiêm trang lắm. Stavros mỉm cười.

Ông Isaac lại tiếp: “Rồi đến lúc công việc làm ăn của con phát đạt, con lại đem bốn em trai của con lên với con, phụ giúp con. Với tư cách anh cả, con có trách nhiệm hướng dẫn chúng nó vào công việc.”

Stavros nhìn mấy đứa em trai một cách long trọng.

Ông Isaac: “Rồi đến mẹ con. Con có trách nhiệm đem lại cho mẹ con những ngày cuối cùng trong đời bà được hạnh phúc.”

Bà Vasso: “Isaac, bà phải biết là ở đời bao giờ cũng có điều phải, điều trái.”

Bà Vasso: “Vâng, vâng.”

Cả hai vợ chồng nhìn đứa con trai lớn. Tất cả trách nhiệm bây giờ đè nặng trên vai Stavros.

Một lát sau, những tượng thánh được bày ra, đèn nến được đốt lên, cả gia đình ngồi lặng yên, cúi đầu mãn nguyện. Nhưng bà Vasso thì lại ngồi riêng một góc, vội vã khâu vào góc áo khoác của Stavros.

Ông Isaac cầu nguyện to tiếng: “Lạy Chúa, Vua Cứu Chuộc, Chúa Gieessu nhân từ. Đấng từ cõi chết sống lại để cứu rỗi nhân loại. Bây giờ chúng con xin giao phó con đầu lòng chúng con trong tay nhân từ Chúa. Xin Chúa hãy coi sóc nó. Nó là hy vọng của chúng con.

Bà Vasso đến gần Stavros: “Con có nghe không, Stavros?” Giọng bà thì thầm bên tai chàng.

Stavros: “Thưa mẹ có.”

Bà Vasso: “Cha con giao phó cho con tất cả những gì mà gia đình ta có. Con có hiểu được việc đó không?”

Ông Isaac với giọng sắc gọn: “Vasso!”

Bà Vasso: “Isaac, ông thứ lỗi cho tôi.”

Bà lại tiếp tục khâu trong im lặng.

Ông Isaac: “Lạy chúa, xin chúa nhân từ dạy cho nó hiểu rằng người lành sẽ được thừa hưởng tài sản của chú trên mặt đất này.”

Ông chú già hỉ mũi bên cạnh Stavros, rồi xì xầm: “Ngoại trừ ở xứ này.”

Ông Isaac nghe được câu nói đó, không nỡ lên tiếng trách mắng đứa em già. Ông đành chờ đợi.

Rồi ông Isaac tiếp tục: “Xin Chúa hãy dạy nó hiểu rằng mọi người đều là anh em với nhau.”

Ông chú già: “Tuy vậy, mày đừng bao giờ tin ai cả.”

Ông Isaac: “Xin chúa dạy nó rằng một lời nói dịu dàng, và một nụ cười của người Thiên Chúa Giáo sẽ xóa tan mọi sự giận hờn.”

Bà Vasso cầm chiếc áo ngoài di đến bên Stavros: “Mẹ đã khâu tiền bạc vào chéo áo cho con, Con có thấy không? Đây này. Con sờ coi. Còn đồ nữ trang thì để trong cái bị này. Vậy con phải giữ chiếc áo này luôn luôn trên người con. Con có nghe gì không? Cả lúc con ngủ cũng thế”.

Ông chú già: “Chỉ nên ngủ bằng một con mắt thôi nghe con!”

Ông chú già biểu diễn bằng cách nhắm một con mắt, còn mắt kia thì liếc bên này, sang bên kia, đồng thời đưa ngón tay chỉ theo chiều liếc của con mắt đó.

Lần này ông Isaac lên tiếng với tất cả uy quyền cảu ông: “Vasso im đi.” Bà Vasso cúi đầu xuống. Rồi đột nhiên quay đi như để nên cảm xúc đang tràn ngập. Ông Isaac giọng dịu dàng hơn:

“Vasso…chuyện gì vậy!”

Bà Vasso: “Lạy Chúa tôi. Ông sai nó đi đến hiệu bánh để mua bánh còn không dám chắc nó biết đường trở về, vậy mà bây giờ ông bảo nó đi…Constantinople! Ông nhìn nó coi! Nhìn nó coi!”

Bà bắt đầu khóc một cách đau xót. Cả gia đình chưa bao giờ thấy người đàn bà này khóc một lần nào. Vì vậy bây giờ các con bà sửng sốt.

Ông Isaac chờ đợi cho đến lúc tiếng khóc dứt, rồi ông cất tiếng, không phải để an ủi, mà chỉ để nói lên sự thật theo quan niệm của ông:

“Vasso, nếu bà và tôi đã nuôi nấng đứa con đầu lòng của chúng ta cho đến ngày hôm nay mà hắn có thể phụ lòng chúng ta, thì chúng ta đáng chết.”

Mọi người quay lại nhìn Stavros. Chàng ngồi đó, tất cả gánh nặng như đè lên vai chàng. Rồi chàng đứng