Chương II -
Giống KIZZIL, không phải là một con sông lớn, nhưng đó là một con sông lớn nhất vùng này. Stavros và con lừa được chở qua sông bằng chiếc phà. Người lái phà chỉ cần đẩy một cái là pha tách bến.
Người lái phà gác mái chèo lên phà, và lúc đó chiếc phà đã ra đến giữa giòng. Stavros nhìn lui lo lắng. Con lừa Goochook cũng vậy. Người lái phà lay mạnh cho chiếc phà chòng chành. Stavros hét lên vì hoảng sợ. Những chàng trai từ vùng trong í tai biết bơi. Và con lừa với những món đồ chất nặng trên lưng chắc chắn không có hy vọng gì bơi nổi. Con lừa hí lên.
Stavros: “Ông làm gì vậy? Tôi không biết bơi. Ê, ông kia, ông làm gì vậy. Lạy Chúa!”
Người lái phà càng làm cho chiếc phà chòng chành nhiều hơn. Con lừa hoảng sợ.
Stavros: “Coi kia. Con lừa! Ông muốn gì? Tôi sẽ cho ông tất cả những gì ôn muốn. Tôi sẽ trả thêm tiền cho ông.”
Người lái phà lập tức đi về phía Stavros, đưa hai bàn tay ra. Stavros do dự. Chàng nhìn sang bờ sông còn xa, rồi vào con lừa chở nặng trên lưng. Chàng suy tính. Rồi chàng lôi ra một chiếc túi nhỏ đựng tiền vặt của chàng. Ngay lúc chiếc túi xuất hiện, người lái phà giật lấy và dốc tất cả tiền trong túi ra tay mình.
Stavros: “Chúa sẽ trừng phạt ông.”
Người lái phà: “Chúa hiểu những khó khăn riêng của tôi.” Rồi ông ta trao lại chiếc túi rỗng cho Stavros. “Bạn còn phải nhớ ơn tôi đã không đụng gì đến đồ vật trên lưng con lừa.”
Trước khi phà cập bến, người lái phà đã nhảy xuống và bỏ chạy. Stavros đuổi sát theo sau. Nhưng chiếc phà trôi lềnh bềnh xa bờ, và con lừa lại hí lên hoảng sợ. Chàng hét to cho cả thế giới nghe” “Ăn cướp, ăn cướp.”
Như đáp lại lời kêu cứu của chàng, một người Thổ to lớn từ sau một vài tảng đá hiện ra. Stavros giữ chặt mạn phà, gọi to: “Bắt hắn đi. Bắt lấy hắn”. Tên lái phà chạy ngang Abdul, người Thổ kia, và Abdul túm lấy hắn.
Abdul thì to lớn, mà tên lái phà lại nhỏ bé. Abdul túm cổ tên lái phà lắc mạnh, và lôi hắn về phía Stavros.
Abdul: “Thằng khốn nạn!” Rồi quay về phía Stavros: “Tôi tóm được hắn rồi. Đừng lo. Tôi bắt được hắn rồi.”
Sau đó, Stavros và Abdul cùng trên đường đi Ankara. Stavros đi sau con lừa Goochook. Abdul không có hành lý gì, cưỡi con ngựa của hắn ta, hai chân giang rộng, gót chân chấm bụi đường. Hắn cầm theo một chiếc gậy. Hắn to lớn, khoảng giữa tuổi ba mươi, nặng gần trăm ký, và trông thật bí mật.
Stavros: “Tôi không biết nói gì để cám ơn anh cho xứng đáng.”
Abdul: “Chính tôi mới là kẻ may mắn. Thật vậy, con đường từ đấy đến Ankara đầy dẫy bọn trộm cướp khốn nạn nhất trên miền đất Thổ Nhĩ Kỳ này. Trên một con đường như vậy, thật là may mắn cho tôi được gặp người anh em cùng đi. Đúng không người anh em.
Hắn xoa hai ngón tay trỏ vào nhau, một cử chỉ mà hắn sẽ còn lập lại nhiều lần.
Stavros: “Anh đừng nói vậy. Tôi mới chính là người may mắn.”
Abdul: “Anh có nụ cười thật dễ thương”. Giọng hắn trở nên say sưa: “Anh và tôi. Chúng ta thành đôi bạn kết nghĩa.” Hắn lại xoa hai ngón tay trỏ vào nhau: “Tất cả những gì của tôi đều là của anh, cũng như tôi biết chắc rằng tất cả những gì của anh đều là của tôi.”
Stavros nhìn hắn bằng ánh mắt nghi ngại. Nhưng abdul trông thật cởi mở, thân thiện quá,làm cho Stavros trở nên yên tâm ngay.
Thì giờ trôi qua. Buổi trưa thật nóng bức. Hai người đều mệt mỏi. Con lừa Goochook hơi loạng choạng. Abdul dừng lại.
Abdul: “Này người bạn kết nghĩa của ta, lòng ta đau quặn lại khi thấy con lừa của bạn cố gắng chở những món đồ nặng nề bạn đặt lên lưng nó. Tôi tin chắc rằng ngay lúc này, Thượng Đế, Đấng nhìn thấy mọi sự, đang tự hỏi: bao giờ thì chàng thanh niên hay mĩm cười kia – Stavros bỗng tắt nụ cười – cuối cùng nhận ra rằng hắn đã làm khổ con vật nhỏ bé đáng thương. Anh có nghĩa là có thể như vậy không hở? người anh em”.
Stavros: “Không. Tôi muốn nói!...Phải…Phải. Tôi nghĩ có lẽ…”
Abdul: “Nếu vậy, thì dù cho con vật của tôi có không muốn chăng nữa, chúng ta cũng phải bắt nó chia sẻ gánh nặng với con vật của anh”.
Stavros: “Ồ! Không?”.
Abdul: “Tôi tha thiết van anh. Những gói thịt sấy kia nặng quá”.
Stavros: “Nhưng nếu làm vậy thì anh phải đi bộ sao?”
Abdul: “Có sao đâu”. Hắn vội nhảy xuống khỏi lưng con vật: “Lại đây! Một khi chúng ta đã là bạn kết nghĩa với nhau đi chung một đường, thì những con vật của chúng ta cũng nên kết nghĩa huynh đệ với nhau. Đây. Giúp tôi một tay”.
Hắn bắt đầu tháo những sợi dây buộc những vật trên lưng con lừa. Bây giờ cả hai con vật cùng mang nặng trên lưng. Họ lại tiếp tục đi. Sau đó, khi mặt trời lặn, họ dừng lại trên một ngọn đồi nhìn xuống thành phố Mucur.
Abdul: “Người anh em kết nghĩa của ta ơi, tôi biết rõ thành phố kia lắm. Tôi đã từng là nạn nhân khốn khổ của nhiều tên cướp trong thành phố Mucur này. Vậy chúng ta nên ngủ đêm trên ngọn đồi này.”
Stavros: “Nếu anh đã khuyên vậy. Nhưng chúng ta lấy gì ăn?”
Abdul nhìn sang những gói thịt sấy. Stavros để ý đến cái nhìn đó.
Abdul: “Tôi biết anh đang nghĩ gì. Nhưng tôi không để cho anh làm như vậy được. Tha rằng tôi nhịn đói. Thề danh dự đó”.
Họ dọn dẹp một chỗ nghỉ tạm bên đường và đốt một đống lửa. Abdul ăn thịt sấy một cách ngon lành, thưởng thức mùi vị của thịt. Stavros nhìn hắn ta.
Abdul: “Ăn đi chớ. Ăn đi người anh em của tôi. Thức ăn là sức mạnh mà. Chúng ta phải đi chín mười ngày mới đến Ankara. Rồi… chắc anh còn đi tiếp nữa.”
Stavros: “Phải. Đến Constantinople. Người chú họ của tôi có một cửa hiệu bán thảm rất phát đạt ở đó.”
Đầu óc Abdul chú ý đến một vấn đề khác rồi: “Tôi để ý thấy suốt ngày nay anh không lúc nào cởi áo ngoài ra. Anh không thấy nóng nực sao?”
Stavros: “Ờ…Không…Hơi nóng thôi.”
Chàng bắt đầu cởi áo, rồi lại thôi. Abdul mỉm cười, xoa hai ngón tay trỏ vào nhau, nhấp nháy mắt.
Sang một ngày khác. Ánh nắng trưa trên con đường đến Ankarra chiếu xuống chói chang. Hai lữ hành bẩn thỉu và mệt nhọc, cố gắng trèo lên một sườn dốc đầy sỏi đá. Abdul dừng lại.
Abdul: “Tôi không đi nổi nữa.”
Hắn ngồi xuống và tháo một chiếc giày ra, mặt nhăn nhó.
Abdul: “Người ta kể rằng Đấng Tiên Tri đã đi chân đất, nhưng chắc chắn gài đã đi trên những con đường khác không giống con đường này. Anh coi”.
Hắn đút ngón tay vào một lũ thủng nơi đế giày.
Abdul: “Tôi tưởng đôi giày này đủ xài suốt con đường này, nào ngờ. Nhưng khi đó tôi tính cỡi lừa đi suốt đường chớ. Tôi không chuẩn bị đi bộ nhiều thế này. Anh nghĩ sao?”
Stavros: “Ờ…”
Abdul: “Không, không. Lạy Chúa. Không. Tôi đọc thấy ý nghĩa của anh. Trên nét mặt: thằng Abdul, con lãi Abdul bây giờ trở thành gánh nặng đối với ta. Thôi, tôi đang ngồi lỳ trên chỗ này cho đến lúc chết mục. Thề danh dự đó.”
Trong một tiệm giày giữa phố chợ của thị trấn kế tiếp, Kursehir, Abdul đang thử một đôi giày mới. Đây là một đôi giày kiểu cách, không thích hợp để đi bộ nhiều trên những con đường gồ ghề đá sỏi/ Abdul mặc cả với chủ hiệu trong lúc Stavros lớ ngớ bên cạnh.
Abdul: “Ông không thấy xấu hổ sao? Ông đúng là người dám ăn trộm cả của mẹ ruột ông. Ông thử suy nghĩ lại coi, người anh em của tôi đây vừa bán một miếng thịt sấy lớn, một trong những miếng ngon nhất mà gia đình nó ủy thác cho nó…”
Ông chủ hiệu: “Giá đôi giày như vậy đó, không mua thì thôi.”
Abdul quay sang Stavros: “Tôi cố gắng hết mình rồi…”
Stavros không trả lời. Chàng cầu mong sao đừng bao giờ dính gì đến thằng cha này. Sau một lúc, chàng đành cho tay vào túi.
Rồi họ lại lên đường đến Ankana. Trời nóng bức. Đường gồ nghề sỏi đá. Abdul đi khập khiễng. Stavros đang cố gắng một cách tuyệt vọng để bỏ rơi thằng cha này.
Stavros: “Đôi giày mới thế nào?”
Abdul: “Đôi giày mới có kẹp. Hai bàn chân tôi bỏng cả lên rồi, đau chịu hết nổi.
Stavros: “Có lẽ anh nên nghỉ lại vài ngày ở thị trấn sắp tới?”
Abdul: “Nhưng còn anh thì sao?”
Stavros: “Tôi phải đi tiếp.”
Abdul: “Đâu có thể như vậy được. Tôi không thể bỏ người anh em kết nghĩa của tôi được. Đừng lo. Tôi không bao giờ bỏ rơi anh đâu.”
Hắn khập khiễng đi theo. Rồi đột ngột dừng lại, vẻ khổ sở.
Abdul: “Này người anh em của tôi. Tôi cần phải uống một cái gì. Lòng tôi khô héo. Tinh thần khao khát. Tôi cần phải uống một hớp rượu! Anh không thể nào từ chối tôi một cốc rượu?”
Stavros và Abdul ngồi vào một chiếc bàn trong một quán cà phê ngoài trời ở thành phố Zordagh, một nơi ghé chân của những đoàn lạc đà và la. Nơi đây cung cấp đủ những gì mà những người cưỡi lạc đà hay la mong ước sau một tuần lễ hành trình trên cao nguyên khô cháy. Nơi đây là một thành phố hung bạo.
Abdul bắt đầu say sưa. Stavros, nạn nhân của hắn, ngồi nhìn hắn, vẫn tìm cách nào để thoát khỏi hắn. Một cơn going bão chừng như sắp đến. Một người hầu bàn bưng thêm một cốc rượu cho Abdul.
Abdul: “Tôi xin thú thực là tôi không đủ tiền trả cốc rượu này.”
Stavros: “Anh có trả tiền những cốc kia đâu mà lắm chuyện?”
Abdul: “Người anh em không nên nhắc nhở tôi rằng lúc này tôi không được khấm khá. Dù sao trong tình bằng hữu, chỉ có một qui luật duy nhất: cái gì của bạn là của ta, và cái gì của ta là…”
Stavros không nhịn nhục nổi: “Nhưng anh không có một thứ gì hết!”
Abdul vẫn nhẫn nhịn: “Đấng Tiên Tri đã phán dạy: ai có thể đánh giá được sự khôn ngoan?”
Stavros: “Đấng Tiên Tri có nói sao cũng mặc, đây là cốc rượu cuối cùng mà tôi trả cho anh.”
Stavros trở nên tức tối và ngồi im. Abdul tìm cách làm cho chàng chú ý. Hắn lại xoa hai ngón tay vào nhau một cách đùa cợt. Nhưng hắn vẫn không làm cho Stavros chú ý tới. Rồi Abdul bật khóc.
Stavros: “Bây giờ lại đến chuyện gì nữa đây?”
Abdul: “Anh đang cầu mong thà rằng đừng bao giờ gặp tôi. Công nhận đi! Công nhận đi thôi!” Stavros không trả lời, hắn lại tiếp: “Vì một lý do nào đó, anh không dám ní ra một điều hiển nhiên. Vậy mà tôi từng hy vọng có thể đi chung với người anh em của tôi trọn đoạn đường. Mới tuần trước đây có một người bị giết trên khoảng đường từ đây đến Ankara. Đúng ra, không xa thành phố này bao nhiêu, trên khoảng đường đến Ankara.”
Hắn uống ngụm rượu. Mưa đột ngột rơi xuống.
Abdul: “Anh nhìn đó, trời còn khóc thương cho tôi nữa là…”
Đây chỉ là một trận mưa đám mây. Cả hai người chạy đi dắt lừa tìm chỗ tránh mưa. Họ tìm thấy một quán trọ và dắt hai con vật vào chuồng. Mưa rơi nặng hạt hơn. Stavros chạy vào trong quán. Abdul làm như sắp chạy theo, nhưng rồi quay trở lại với đôi lừa. Hắn tháo hết đồ đạc trên lưng con lừa Goochook xuống rồi đi về phía khác.
Lát sau trong quán Stavros ngồi một mình bên một chiếc cửa sổ nhìn trời mưa, đợi chờ. Abdul bước vào với hai người đàn bà, hắn cầmmột chai rượu. Mấy người đàn bà béo mập, đàn bà tóc sói. Họ dắt theo một con gấu buộc vào đầu một sợi xích sắt. Họ đã uống khá nhiều rượu – kể cả con gấu.
Abdul: “Này người anh em. Tôi đã quyết định sẽ không bỏ người anh em.” Stavros nhìn hắn chòng chọc. Hắn tiếp: “Anh có vẻ như không vui mừng về chuyện đó như tôi. Nụ cười dễ thương của anh đâu mát?” Stavros vẫn không trả lời. Hắn lại thêm: “Tôi phải thú tội với anh. Tôi đã bán hết chỗ thịt sấy còn lại rồi.”
Stavros: “Anh đã bán…”
Abdul: “Tôi bán dùm cho anh mà. Tôi thề. Tục ngữ có câu: giây căng quá phải đứt. Anh xem đây này. Chingana!” Hắn vẫy tay gọi một người đàn bà lại gần: “Nàng Chingana này đây bây giờ thuộc phần anh. Tôi không biết con vật kia tên gì. Nhưng chúng ta sẽ tìm hiểu chút nữa đây. Tôi tin rằng con gấu cũng thuộc giống cái.” Hắn hát to lên, nhảy múa. Con gấu cũng nhảy múa theo.
“Đáng thương cho gã đàn ông nào không có đàn bà.
Đáng thương thay!
Đáng thương cho ai không có bạn tri âm,
Đáng thương thay!
Như vườn thiếu nước.
Như một bữa ăn thiếu rượu.
Như trời không có trăng.
Như một khuôn mặt không có đôi mắt.
Đáng thương thay!”
Có một cái gì bừng giậy trong đầu óc chàng trai. Chàng nhảy xổ đến Abdul. Một trận ẩu đả ngắn ngủi và quyets liệt diễn ra. Abdul dùng một thành ghế đạp Stavros ngất xỉu. Rồi hắn đứng ngắm nghía nạn nhân của hắn nằm mê man với vẻ mặt đầy thương xót.
Abdul: “Tội nghiệp. Tội nghiệp. Này, Chingana, cầm chân nó đi. Hắn là một người dễ thương. Đi nào.”
Cả ba người khiêng chàng trai lên lầu.
Lát sau, trong căn phòng trên lầu của chiếc quán trọ. Abdul và Chingana, cả hai đều say khướt, lay gọi Stavros.
Abdul: “Người anh em ta ơi. Nay người anh em. Đừng lo sợ gì cả nghe. Bạn ngủ nhưng có ta thức. Ta đang trông chừng những đồ đạc quí báu của bạn. Tôi đã mang lên đây cho khỏi bị ướt mưa.”
Stavros thức dậy với một ý chí phục thù.
Stavros: “Lạy Chúa!”
Chảng nhảy đứng lên và nhìn quanh quất.
Abdul: “Tất cả mọi món đồ của anh đều có ở đây cả.”
Stavros: “Những chiếc khăn của em gái tôi đâu cả rồi?”
Lúc đó người đàn bà được Abdul gọi là “Con vật kia” từ phòng bên đi vào, trên người chỉ khoác một tấm chăn dành làm của hồi môn của Athena, em gái Stavros. Nàng làm một điệu vũ uốn éo.
Stavros ghê tởm: “Cô làm trò gì kỳ vậy?”
Abdul ôm choàng lấy “Con vật kia” và vuốt ve âu yếm, sờ soạng, nắn nót những phần thân thể mềm mại.
Abdul: “trong lúc anh ngủ say, người đàn bà này đã đem đến cho tôi những lạc thú không thể tả hết được. Ôi…A…”
“Con vật kia” say khướt. Tóc nàng rồi vò, và hai hàm răng dài vàng khẽ phô bày hết ra, đôi mắt đỏ ngầu của nàng long lên. Nàng uốn éo khêu gợi, trên thân thể chỉ có duy nhất tấm chăn, đồng thời cố làm điệu bộ giống như một mệnh phụ.
Stavros tức tối, giận dữ: “Áo khoác của tôi đâu?”
Tất cả cười ầm lên.
Abdul: “Anh đang mặc trong người đó.”
Stavros vội sờ gấu áo. Abdul có vẻ buồn phiền, phật ý.
Abdul: “Anh đã sỉ nhục cha tôi, khi anh làm cử chỉ đó, cha tôi đã dạy tôi phân biệt điều phải với điều trái. Người anh em ơi, tôi là một người biết nhẫn nhịn, nhưng anh đã sỉ nhục đến mẹ tôi, tiếc thay, đã khuất từ lâu.”
Abdul làu nhàu trong miệng. Stavros bắt đầu tóm gom các đồ vật lại.
Abdul: “Nhưng tôi sẵn sang tha thứ cho anh. Bây giờ anh trông đây. Tôi biết dưới mắt anh nàng giống một con vật. Nhưng anh không nên quan tâm đến bề ngoài. Hãy tìm vào tận linh hồn nàng đi. Hãy mang nàng vào phòng kia đi.”
Chợt hắn nhảy đến ôm chầm lấy Stavros thật chặt: “Tôi chưa bao giờ gặp một người nào dễ thương và rộng lượng như anh. Cuộc hành trình này đã trở nên một kỷ niệm đáng ghi nhớ nhất trong đời tôi.”
Hắn bắt đầu hôn Stavros tới tấp. Stavros xô gã say ra.
Stavros: “Còn tấm thảm kia của tôi đâu? Tấm nhỏ đó!”
Abdul nhăn nhó, đau khổ: “ Người anh em, tôi xin anh, đừng dùng cái giọng đó nói với tôi!”
Stavros: “Không cần phải để ý đến giọng nói của tôi. Đâu! Tấm thảm nhỏ của mẹ tôi đâu rồi?”
Chàng nhào vô Abdul, túm lấy cổ hắn. Abdul yếu xìu vì say rượu và vì chầu làm tình vừa rồi, không đủ sức tự vệ. Người đàn bà thét lên.
Stavros: “Đồ súc vaath! Tấm thảm của mẹ tao đâu rồi?”
Bây giờ chủ quán chạy vào, theo sau còn có một người phu khuân vác, hai người chủ lạc đà. Họ kéo Stavros và Abdul ra, nhưng Stavros vẫn la hét.
Stavros: “Tấm thảm của mẹ tôi đâu rồi?”
Abdul chỉ chủ quán: “Tôi đưa cho ông ta rồi.”
Stavros: “Cho ông này? Mày trao những tấm thảm của tao cho ông này? Để làm gì? Để làm gì mới được chớ?”
Chàng quay sang chủ quán. Ông ta là một người khỏe mạnh. Dĩ nhiên ông ta phải khỏe mạnh mới có thể điều khiển một cái quán loại này. Ông ta hét trả lời: “Để làm gì? Để làm gì hả?”
Bây giờ thì Abdul lại phải can gã chủ quán ra, để ông ta không xé nát chàng trai thành từng mảnh. Cùng lúc hắn trách nhẹ Stavros: “Người anh em, người anh em. Suỵt! Bớt giận. Lịch sự một chút nào…”
Ông chủ quán: “Để làm gì hả? Thì để trả tiền phòng đêm qua cho mày.”
Hừ! Để làm gì!
Abdul quay sang gã chủ quán: “Thôi…Thôi…Chúng ta đều là những người lịch sự cả.” Rồi hắn quay sang Stavros: “Này người anh em, tôi xin nhận lỗi trong việc này.”
Stavros: “Trả lại tấm thảm của tôi cho tôi!”
Chủ quán: “Thì trả tiền phòng cho tôi! Bằng tiền mặt. Vả lại anh coi tấm thảm kia là loại gì? Thảm Ba Tư chắc? Đó chỉ là tấm giẻ mà tôi lấy làm xấu hổ không dám để cho bạn bè nhìn thấy, vì vậy tôi dùng lót ở sàn phòng tiêu để thấm nước.”
Vừa nói chuyện, Stavros vừa hối hả tom góp các đồ đạc của chàng lại. Abdul quì xuống trước mặt chàng.
Abdul: “Hỡi người anh em. Chỉ có tôi đây là hoàn toàn có lỗi. Tôi xin anh tha thứ cho tôi. Nếu anh không tha thứ, tôi không thể nào sống được.”
Hắn tính ôm chầm lấy chân Stavros, nhưng chàng trai nhảy tránh được, và tiếp tục gói ghém đồ đạc của chàng.
Abdul: “Trước mặt tất cả những người ở đây, tôi xin anh tha thứ cho tôi. Anh đừng bắt tôi phải quì hoài như vậy. Đừng làm nhục đến linh hồn tôi như vậy.”
Rồi đột ngột giọng Abdul thay đổi. Abdul: “Này người anh em, tôi chưa bao giờ quì gối trước một người Hy Lạp.”
Stavros không cần để ý, đi ra ôm theo những đồ vật của chàng.
Abdul vẫn còn quì gối: “Này, người anh em, tôi cảnh cáo người anh em biết. Với một người Thổ thì chỉ có thể là bạn hay …ngược lại. Tôi cảnh cáo anh đó.”
Stavros đã ra ngoài. Abdul chậm rãi đứng lên, phủi bụ nơi đầu gối. Đột nhiên hắn trở nên tỉnh táo lạ thường.
Abdul: “Đáng tiếc. Thật đáng tiếc. Thôi đành. Thôi đành vậy.”
Trông hắn có vẻ độc ác. Hắn đã nói sự thật: hắn khoái chàng trai này và hắn cảm thấy đã bị sỉ nhục. Hắn lại xoa hai ngón tay với nhau một cách diễu cợt rồi đưa một ngón tay vạch ngang cuống họng.
Sáng ngày hôm sau. Mặt trời chói chang. Stavros và Goochock đã đi suốt đêm trên con đường đến Ankara và cảm thấy mệt lả. Dọc theo đường lộ chỉ có một con đường xe hỏa duy nhất. Một chuyến tàu nhỏ chạy qua Stavros không buồn nhìn lên.
Từ một cửa sổ trên toa xe. Abdul đã nhìn thấy nạn nhân của hắn.
Chiều hôm đó, Stavros và con lừa Gooc-hook đã đến vùng phụ cận thành phố Soose-hir. Stavros vừa đi vừa ngủ gật, chợt ngẩng đầu lên và nhìn thấy hai cảnh sát viên đang chăm chú nhìn chàng.
Stavros dắt con lừa, đi ngang qua hai cảnh sát viên. Bông nhiên hai người cảnh sát viên nhào vào chàng. Chàng cố vùng vẫy, phản kháng nhưng vô ích. Họ lôi chàng đi.
Stavros: “Tại sao? Tại sao? Tôi làm gì nên tội?”
Phiên tòa trong thành phố này diễn ra trong một gian phòng xập xệ, ngay trong nhà của quan tòa. Quan tòa ngồi xếp bằng trên nền nhà, đằng sau một bàn thấp. Có một giọng nói quen thuộc.
Abdul đứng đó, đúng là hình ảnh công chính bị xúc phạm.
Abdul: “Thưa quan tòa, tôi đã kê khai xác thực nét đặc biệt mỗi món.”
Stavros đứng giữa hai người lính gác, thét lên: “Láo, láo, láo!”
Người cảnh sát đứng cạnh đưa tay bịt miệng chàng, và đấm chàng ngã nhào xuống: “Im, thằng ăn trộm!” Quan tòa chỉ chú ý chút đỉnh đến chi tiết nhỏ mọn đó. Ông quay qua một gã thư ký đang cầm tờ giấy kê khai tài sản của Abdul.
Quan tòa: “Đọc đi!”
Người thư ký đọc lên. Đến món nào, cảnh sát viên lại kiểm soát món đó.
Gã thư ký: “Một tấm thảm Hamedan. Mầu hồng và xanh thẫm. Một góc đã mòn, sờn.”
Abdul: “Coi đây!”
Cảnh sát viên: “Đúng như mô tả.”
Quan tòa nói nhỏ: “Tấm thảm đẹp thiệt!”
Cảnh sát viên: “Một tấm chăn, màu vàng, được dệt ở nhà, do những cô em thân yêu của tôi.”
Abdul nhìn Stavros một cách tức giận. Stavros đứng đó, đầu hơi cúi, mặt quay đi. Không ai nhìn thấy chàng đã tháo chéo áo khoác ra và vội vàng nuốt vào bụng đồng bạc này đến đồng bạc kia.
Gã thư ký: “Rồi trong chéo áo khoác.”
Stavros ngừng nuốt.
Abdul: “Thưa quan tòa, xin ngài buộc bị cáo cởi chiếc áo khoác của hắn ra.”
Quan tòa: “Cởi áo khoác ra.”
Hôm nay trời nổi gió. Stavros không còn áo khoác ngoài, không còn lừa, không còn một món đồ nào cả, chậm rãi đi trên con đường đến Ankara dưới bóng hoàng hôn. Chàng nhìn lui và thấy Abdul ngồi trên lưng con lừa. Goochook đang chạy rước kiệu. Bàn tay của Stavros đặt vào con dao găm để yên đó.
Con lừa đã đuổi kịp Stavros. Abdul đi song song cạnh Stavros, cất tiếng thân mật, tự nhiên nói với nạn nhân của hắn. “Sau khi anh bỏ đi, tôi phải trải qua những giờ khổ sở. Mấy thằng cảnh sát đó không có lương tâm chút nào cả. Rồi cả quan tòa nữa. Lạy chúa! Hắn đề nghị chia những tài sản mới của tôi. Rồi khi tôi từ chối, họ tự chia nhau. Quan tòa đặc biệt ham thích mấy tấm thảm. Luật pháp xứ này rất cần được cải tổ.” Stavros không trả lời. Hắn tiếp: “Coi đây, để tôi cho anh thấy tôi còn lại những gì.”
Hắn chìa tay ra, trên bàn tay còn đôi bông tai của em gái chàng, cái tượng ảnh của mẹ chàng, và một đồng tiền duy nhất. Stavros bàn tay vẫn còn đặt trên chuôi con dao găm, không thèm quay lại.
Abdul: “Không còn gì. Anh thấy đó. Không còn gì.” Vẫn không có trả lời. “nhưng còn thiếu vài đồng tiền. Theo tôi tính thì khoảng chừng sáu đồng. Tôi đi đến kết luận là anh đã nuốt vào bụng những đồng đó. Không? Tôi đã thấy anh nuốt mà. Lúc đó tôi tự nhủ: nên để lại cho nó vài món, tội nghiệp nó. Nhưng bây giờ tình thế đã đổi khác.” Hắn lại chìa tay ra. “Anh thấy đó. Tôi không thể nào rộng rãi được”. Không ai trả lời. “Tôi phải công nhận là anh đã tỏ ra nhẫn nhục đối với tôi. Nếu tôi ở vào địa vị anh, thì tôi đã rút con dao mà anh đang cầm trong tay ra từ lâu và sử dụng nó đúng chỗ. Nhưng người Thổ chúng tôi thô bạo còn người Hy Lạp các anh văn minh. Tôi muốn được như anh. Anh đã học được cách chịu đựng những rủi ro ở đời, nuốt nhục nhã, uất hận, và mỉm cười được. Quả thật tôi muốn được như anh.” Hắn nhìn chàng, thán phục. “Sao…” Những đồng tiền kia? Chưa thấy triệu chứng gì cả à? Chưa có gì sao? Theo anh nghĩ thì chừng bao lâu nữa? Chỉ có trời biết? Nếu vậy…một cốc rượu nhé?”
Stavros không tỏ dấu đã nghe. Abdul nâng chai rượu lên tu một hơi dài.
Mặt trời đã lặn. Stavros ngồi quay lưng vào mấy tảng đá. Abdul ngồi xa xa phía trước bây giờ đã say khướt, và không còn đóng kịch nữa.
Abdul: “Anh quả thực là một thằng hèn! Thử tưởng tượng nếu tôi ở vào địa vị anh, tôi sẽ làm gì?”
Mặt Stavros nóng bừng vì nhục nhã xấu hổ.
Abdul: “Anh chỉ dám ngồi yên, mỉm cười và nuốt hận. Tồi. Rất tồi. Tôi đã từng giết những người như anh, và thấy không khác gì giết cừu. Chỉ cần thọc dao vào bất cứ chỗ nào, là mạng sống chảy thoát ra. Ngoáy một hai nhát, và thế là xong việc. Uống một ngụm rượu đi. Không? Dĩ nhiên là không uống. Anh không uống rượu, không chống trả, không biết chơi gái. Như vậy anh là loại người gì?” Hắn ngáp, nằm xuống. “Tôi không thể phí thì giờ thêm được nữa. Nhưng rủi là tôi không có khí giới gì cả. Vì vậy tôi cần phải mượn con dao của anh. Không? Chịu? Sao? Sao anh không nói gì cả vậy? Anh sợ không dám nói chuyện nữa sao? Anh có coi trọng sinh mạng của anh không? Tôi không hiểu bọn anh là người như thế nào? Bọn anh có khác gì đàn cừu không? Chúng nó cũng không hề chống trả để bảo toàn mạng sống của chúng. Trời tối rồi. Có lẽ đã đến lúc chúng ta chơi với nhau ván chót. Thôi, tôi để anh vài phút. Tôi đọc kinh chiều đã. Rồi sau đó…”
Abdul đứng lên, trải tấm thảm đọc kinh của hắn xuống đất, và bắt đầu đọc kinh, Stavros biết rằng chỉ có lúc này, hay sẽ không bao giờ còn cơ hội. Bàn tay chàng nắm chặt chuôi dao.
Lúc Abdul quì gối và cúi đầu cầu kinh, Stavros với sự lanh lẹn của tuổi trẻ, nhào lên lưng Abdul, đâm con dao vào nhiều lần, Abdul hét lên kinh hãi. Con lừa Goochook sợ sệt bỏ chạy. Stavros đứng lên, run rẩy. Chàng ngó quanh quất một cách lấm lét để xem có ai chứng kiến không.
Con lừa chạy thục mạng như có ai đuổi theo ăn thịt nó.
Stavros cuống quít gọi lớn: “Goochook! Goochook.”
Stavros nhìn thấy con lừa hoàn toàn mất dạng sau một mô đất. Sự hoảng sợ của con vật chuyển sang chàng. Chàng bắt đầu chạy. Rồi chợt dừng lại. Quay lui, đi đến xác chết của kẻ chàng vừa giết. Một cái gì bắt đầu làm cho tâm hồn chàng trở nên rắn rỏi. Chàng lấy hết những món nữ trang và tiền bạc tìm thấy, và đứng thẳng người lên nhìn mấy đồng tiền trong tay. Chàng thở dài, đau khổ, tức giận? Ghê tởm với chính mình. Rồi chàng bỏ tiền vào túi và bỏ đi. Dù không ý thức được, nhưng chàng đã quyết định rằng tự hậu sẽ không để một chuyện tương tự như vậy xảy ra lần nữa.
Cuối cùng, mệt lả người, Stavros đã đến chiếc cổng đá to lớn cũ kỹ, đổ nát tại cửa ngõ vào thành Ankara. Đây là nơi dừng chân uống nước của những đoàn lừa, lạc đà. Đây cũng là một cái chợ phiên với những người bán hàng dạo ồn ào, và những đám hành khất đông đảo, với những vết thương lộ liễu trên thân thể họ. Mặt trời lặn dần sau cổng thành.
Stavros bám đầy bụi bặm, trông có vẻ già dặn, rắn rỏi hơn.
Chàng tìm được ga xe lửa, với tấm bảng: Ankara. Chàng lôi ra tất cả số tiền còn lại của chàng. Trên bàn tay, cả một nắm tiền lẻ. Chàng quyết liệt tiến đến quầy vé. Bên cạnh có một tấm bảng quảng cáo Hãng Tàu Vận Tải Lloyd của Đức, chạy sang Mỹ. Trên tấm bảng có hình một chiếc tàu chạy qua dưới chân tượng Nữ Thần Tự Do. Stavros nhìn lên tấm bảng quảng cáo một lúc, rồi nói với người bán vé xe hỏa: “Constantinople!” Chàng đặt tất cả tài sản của chàng lên quầy vé.
Stavros đã đến Constantinople. Chàng khâm phục ngắm nghía sáu tháp chuông cao vút của thánh đường Santa Sophia. Lát sau, người ta thấy chàng đi vào hải cảng Constan-tinople. Ban ngày, đây là nơi rộn rịp nhất thành phố. Chàng nhìn những chiếc xà lan đậu trong hải cảng, những chiếc tàu kéo, những chiếc xuồng đưa khách ra vào, rồi chàng nghe tiếng còi tầu của mọt chiếc tàu lớn chạy bằng hơi nước. Chàng dáo dác nhìn quanh. Một chiếc tầu chở hàng lớn đang chất hàng lên ở một bên đậu. Một hàng phu khuân vác, ít nhất độ một trăm, đang đi lên xuống chiếc tầu.
Stavros đi vội về phía chiếc tầu. Chàng nhìn lên. Chiếc tầu trương cờ Mỹ.
Vài sĩ quan Mỹ đang kiểm soát công việc bốc hàng, từ trên boong tầu. Những khuôn mặt của họ có vẻ cởi mở, lịch sự. Đột nhiên, Stavros gọi lớn: “America…America…Mỹ…Mỹ…ê, ê, ê?”
Những sĩ quan trên tầu không chú ý đến chàng. Họ đang nhìn theo những đoàn phu khuân vác hàng lên tầu. Một người quá già yếu, ngã quị xuống dưới sức nặng của bó hàng. Bó hàng của lão ta lăn sang một bên. Ba người ở trên bến tầu chạy lại.
Stavros theo bản năng mà chính chàng không ngờ nữa, cũng đi về phía bó hàng, để giành việc. Một trận ẩu đả dữ dội diễn ra. Cả bốn người đều giành nhau việc làm. Stavros giành giật như một thú dữ. Tất cả bao nhiêu giận hờn bị dồn ép bấy lâu nay bùng nổ ra. Chỉ vài giây sau, chàng đã đoạt được bó hàng của lão già và giành được việc làm. Chàng cười gằn khi nâng bó hàng lên lưng, rồi bước lên chiếc cầu ván với vẻ đắc thắng hiện rõ.
Viên sĩ quan Mỹ đã nhìn vụ ấu đả. Lúc Stavros đi ngang qua mấy sĩ quan chàng vác bó hàng một cách hãnh diện. Viên sĩ quan phụ trách: “Chào chú bé!”
Stavros ưỡn ngực, huýt sáo, vênh váo, hãnh diện vì đã đắc thắng, và thoăn thoắt dưới sức nặng của bó hàng. Ba tiếng còi tầu hú lên, tưởng như mừng chiến thắng của Stavros.
Lúc chiếc tầu chất đầy hàng, bắt đầu ra khơi, thì mặt trời cũng vừa mọc. Cách bờ chừng hai trăm thước, còi tầu lại hụ lên ba lần, chào tạm biệt.
Bến tầu bây giờ trống vắng, ngoại trừ một bóng dáng đơn độc. Stavros đứng nhìn theo con tầu đang ra khơi. Chàng đã đến gần giấc mộng của chàng. Và bây giờ, chàng buồn bã quay mình rồi bỏ đi.
Khu bán hàng tạp hóa chiếm một góc thành phố gồm những con đường hẹp, hai bên đường nối tiếp nhau những cửa tiệm có cửa kính che kín. Lúc này là giờ mua bán nên khu tạp hóa đông kinh khủng. Những người bán hàng tranh giành nhau tràn ra lối đi giữa, hàng bày trên tấm giấy đặt trên mặt đường.
Stavros cầm một mảnh giấy nhỏ trong tay, hỏi đường đi, sau khi được chỉ dẫn lại tiếp tục cất bước. Tiếng huyên náo thật nhức tai.
Đến một góc khu phố, bỗng dững yên tĩnh hẳn lại. Đây là khu những cửa hiện bán thảm. Stavros dơ mảnh giấy trên tay, rồi đi dọc theo một cửa hiệu bán thảm, đọc những số nhà và tên cửa hiệu.
Những cửa hiệu này vắng quá. Stavros dừng lại. Chàng đã tìm thấy cửa hiệu “Công Ty Thảm Ba Tư Topouzoglou”. Stavros ngắm nghía mặt tiệm cửa hiệu nhỏ, tối tăm. Bên trong vẳng như một nhà mồ. Stavros cảm thấy thất vọng. Chàng đã tưởng sẽ thấy một “tiệm buôn phát đạt”.
Stavros bước vào. Dừng lại. Không một ai ra gặp chàng. Yên lặng. Rồi chợt chàng nghe rõ một tiếng ngáy lớn, đều đặn. Stavros nhìn quanh tìm xuất xứ.
Người chú họ nằm dài trên một chồng thảm ngủ say sưa. Một tên phu già đi dép bước về phía Stavros.
Giọng Stavros không dấu được thất vọng: “Đây có phải là hang buôn của ông Odysseus Topouzoglou không?”
Người phu: “Đúng rồi. Mời ông vào. Mời ông.”
Rồi hắn nhìn kỹ lại người khách, trông rõ vẻ rách rưới của chàng, và giọng gã đổi thay lập tức: “Ê, Anh muốn gì? Chúng tôi không cần gì cả.”
Lúc đó, người chú họ trở mình, rồi liên tiếp thốt ra một lô tiếng thở dài, ngáp, lầu bầu. “Á, Ả, À, Sịt, Sịt, À, Á.”
Stavros: “Ông ta nói gì vậy?”
Người phu: Ông ta đang than trách trời đất đã sinh ông ta ra trong thế giới như thế này.”
Stavros: “Tôi là cháu ông ta. Bao giờ thì ông ta dậy?”
Người phu: “Lúc nào có khách hàng.” Rồi nhìn xuống chân Stavros: “Ê. Nhìn đất cát anh tha vào! AI sẽ phải quét dọn đây? Lại tôi nữa!”
Lúc đó, chẳng hiểu cái gì đã đánh thức ông chú họ dậy. Ông nhìn quanh, mỉm cười vu vơ, miệng rớt rãi. Ông lau miệng, bầu nhầu. “Á, À.”
Người phu: “Này ông Topouzoglou. Người này nói hắn là cháu của ông.”
Cửa tiệm tối om. Mắt lão già không được sáng lắm. Hơn nữa, lúc ngủ lão bỏ kính ra. Bây giờ lão lại gần Stavros, thoạt tiên cười đon đả: “Ồ, ồ, mời vô, mời vô”. Rồi khi đeo kính vào, đã nhìn rõ, giọng lão thay đổi hẳn.
Ông chú họ: “Chuyện gì đã xảy ra cho cháu vậy?”
Stavros: “Thưa chú, cháu gặp nhiều rủi ro dọc đường”.
Ông chú họ: “Tội nghiệp. Tội nghiệp.” Quay qua người phu: “Artin. Mau lên. Ngay lập tức. Hai ly cà phê.”
Artin chậm rãi bước đi: “Thưa vâng. Ngay lập tức”.
Người chú họ: “Chú chờ cháu bao lâu nay. Chú rất vui mừng gặp cháu. Theo chú. Ra sau nhà. Chú có sẵn quần áo sạch. Rồi chú sẽ gọi thức ăn trưa cho cháu.”
Người chú họ dẫn Stavros đến một tiệm ăn nhìn ra hải cảng. Được phấn khích nhờ chất nghị lực còn lại, ông chú họ biểu diễn một bữa thịnh soạn. Còn Stavros thì như người đói lâu ngày, ăn không thèm chừa cả đầu cá.
Người chú họ: “Chúng ta cần có thêm hàng”.
Từ hải cảng, có tiếng còi tầu vang lên. Stavros quay đầu lắng nghe.
Người chú họ: “Chuyện gì vậy?”
Stavros: “Xin chú tha lỗi cho cháu. Cháu chỉ muốn nói là chú hình như không muốn bán các thứ hàng đang có.”
Ông chú họ: “Cháu nhận xét tinh lắm. Mọt con cá đối nữa nhé? Chú mời cháu! Mấy con cá nhỏ quá!”
Stavros hãy còn đói: “Chú đã mời cháu xin nhận. Cảm ơn chú”.
Lại có tiếng còi tầu vang lên.
Ông chú họ: “Cháu cũng thấy rằng chú không có những thứ hàng thích hợp cho thị trường ngày nay.”
Stavros chỉ nghe tiếng còi tầu.
Lúc trở về Công Ty buôn thảm Ba Tư Topouzoglou, ông chú họ chỉ cho Stavros xem những xấp thảm của ông.
Ông chú họ: “Ngay khi cháu thạo việc, việc đầu tiên mà chú phải làm là cầm số tiền mà cháu mang lên, rồi đi Ba Tư và mua những loại hàng…” Ông chú ý đến sự im lặng của Stavros. “Cháu làm sao vậy?”
Stavros đành thú nhận: “Cháu không mang lên đồng nào cả.”
Ông chú họ: “Sao…Sao?”
Stavros: “Cháu là một thằng ngu, và cháu bị người ta đánh cắp.”
Ông chú họ: “Cháu giỡn với chú thôi đó chớ?”
Stavros: “Thưa chú không. Cháu lấy làm xấu hổ phài nhìn mặt chú.”
Ông chú họ: “Nhưng cha cháu…”
Stavros: “Cháu rất xấu hổ phải thú thực là đã bị đánh cắp mất hết rồi!”
Lúc dó ông chú họ có vẻ như bị đứng tim. Ông ôm lấy ngực, rên rỉ.
Stavros: “Chú…chú làm sao vậy?”
Ông chú họ đột nhiên thét lên: “Nếu vậy tại sao mày lại chịu đi ăn trưa với tao?”
Stavros: “Thưa chú, cháu đang đói bụng.”
Ông chú họ hết rên rỉ lại gào thé: “Bây giờ mày cút cho khỏi mắt tao. Cút, cút ngay.”
Stavros định bỏ đi, thì ông chú họ gọi lại: “Khoan, khoan đi đã. Ngồi xuống đây. Lạy Chúa, xin cho tôi đủ thì giờ nuốt cơn tức này. Tại sao mày lại ăn bữa trưa của tao? Lại ăn những hai phần nữa chớ. Món gì cũng hai phần. Đúng là ngày tao phải phá sản đây mà.”
Một giờ sau Stavros ngồi một mình trước cửa tiệm. Ông chú họ bước lại gần, cầm theo một cái chổi, hét: “Này, cái thằng phá của, quét nhà đi!”
Ông chú họ: “Tao sẽ viết thư nói cho cha mày biết. Ông ta là người đứng đắn…”
Stavros vứt cái chổi và chạy vội lại ông chú họ: “Đừng, xin chú. Đừng để cho cha tôi biết chuyện này. Chú hứa đừng nói gì với cha tôi hết!”
Ông chú họ: “Tao chỉ định nói là cha mày nên…”
Stavros: “Chú muốn giết cha tôi sao chớ? Cha tôi đã đặt hết tin tưởng vào tôi. Chắc ông sẽ không sống nổi nếu…Tôi đang cố gắng để khỏi phụ lòng ông. Tôi có những dự định to lớn lắm. Cả nhà sẽ hãnh diện vì tôi. Nhưng bây giờ thì chưa có gì, chưa có gì cả. Chú nghe không? Chú hứa đi? Chú không viết gì hết nghe chưa?”
Ông chú họ: “Thôi được. Tao hứa. Bây giờ thì quét nhà đi. Thằng phá của!”
Stavros cầm chổi tiếp tục quét. Ông chủ họ đi về phía cửa sổ và nhìn ra đường. Stavros nói một mình: “Họ sẽ hãnh diện vì ta.”
Ông chú họ đứng bên cửa sổ, chỉ ra đường: “Coi đó. Những người giầu đi làm sau bữa trưa bằng xe ngựa, trong lúc tao…” CHợt như bắt được một sáng kiến thần diệu nào, reo lên: “Stavros. Nghe đây.” Stavros ngừng quét. Ông chú họ tiếp: “Chúa nhân lành. Mày nhìn xem.”
Ngoài đường một chiếc xe ngựa, vừa dừng lại trước một cửa tiệm to lớn. Một ông chủ tiệm thảm mập mạp, giầu có đang bước xuống.
Ông chú họ: “Mày nhìn kỹ đi. Đó là ông Aleko Sinyosoglou!” Một người có nhiều tiền, nhiều hàng họ, và bốn đứa con gái, đứa nào cũng xinh đẹp đến nỗi mỗi ngày ông lại mất dần hy vọng được làm ông ngoại. Mày hiểu chứ?”
Stavros: “Không.”
Ông chú họ: “Chúa giải quyết được mọi vấn đề. Lúc này chúng ta không được phép quân rằng mày là một thanh niên, trông cũng có vẻ bảnh trai, và nếu ăn mặc đàng hoàng thì…Bây giờ mày có hiểu chưa?”
Stavros lắc đầu: “Không” Rồi chàng quay đi ghê tởm: “Lạy Chúa!”
Ông chú họ nhìn lên bướng bỉnh. Bây giờ cơn giận của ông lại bừng lên:
“Không sao! Quét nhà đi. Tao sẽ giàn xếp một cuộc gặp gỡ, rồi mày sẽ thấy…”
Stavros lại quét nhà. Rồi đột ngột chàng ném chiếc chổi ra xa, suýt đụng vào người phu lúc đó nhảy dựng lên từ đàng sau mấy tấm thảm giống như một con vật thẹn thùng bị bắt gặp đang lẩn trốn. Không nói một tiếng nào, Stavros đi ra khỏi tiệm.
Sau cửa kiếng văn phòng hang Tầu Vận Tải Lloyd, cạnh những tấm bảng quảng cáo thông thường, còn trưng bày một mô hình chiếc tầu hành khách mang tên The Kaiser Wilhem, chạy đường Constantinople – Nữu Ước.
Stavros bước vào văn phòng. Đến quầy hàng, chàng hỏi người thư ký:
“Muốn đi Mỹ thì phải làm sao?”
Người thư ký nhìn chàng trai qua sống mũi: “Phải có tiền”.
Stavros: “Bao nhiêu?”
Người thư ký: “Chắc anh muốn hỏi giá vé hạng ba thôi phải không? Một trăm lẻ tám đồng tiền Thổ Nhĩ Kỳ”.
Đối với Stavros đây là một con số trời trăng. Chàng lặp lại: “Lạy Chúa! Một trăm lẻ tám đồng. Thôi được.”
Người thư ký nhìn chàng một cách khinh bỉ và bỏ đi. Nhưng Stavros đưa tay qua quầy hàng giữ hắn ta lại. Chàng đưa bàn tay kia chỉ vào ông Phó Giám Đốc, hỏi: “Ông ta là người Mỹ phải không?”
Ông Phó Giám Đốc là người Mỹ chính cống. Trong nhà ông ta cũng đội một chiếc nón rơm, và được những người làm công phục lắm. Gã thư ký đáp “Hoàn toàn Mỹ.” Giọng hắn kính cẩn như vừa nói đến một vị thần linh.
Nét mặt Stavros biểu lộ một sự thèm muốn tột độ, và ghen tức đối với người Mỹ, giọng cương quyết: “Tôi sẽ trở lại.”
Rồi chàng đột ngột bỏ đi ra khỏi văn phòng.
Trở lại gia đình của Stavros, cả nhà đang dùng cơm tối. Ông Isaac đang đọc cho cả nhà nghe – bà Vasso, các con, hai bà cô, ông chú già – một lá thư. Ông Isaac đọc:
“Và bây giờ tôi không biết cháu nó ở đâu nữa. Nói tóm lại, nó không đem cho tôi một xu nhỏ nào cả. Nó nói là nó bị ăn cướp giựt hết. Tôi cố gắng khuyên bảo, chỉ dẫn nó, vì tôi nghĩ đó là phận sự của tôi. Nhưng nó đột ngột ném cái chổi vô người phu rồi bỏ đi ra khỏi cửa hiệu, mắt long lên sòng sọc.”
Bà Vasso rên rỉ. Ông chú già bật cười lớn.
Bà Vasso: “Đồ ngu! Có gì buồn cười đâu mà cười?”
Isaac cầm một lá thư khác lên: “Bây giờ nghe đây. Thưa cha. Con không thể giao liền cho ông ta được. Không một khách hàng nào đặt chân vào tiệm của ông ta. Ông ta nằm ngủ suốt ngày trên đống thảm. Vì vậy con nói với ông ta là con bị cướp giật hết tiền rồi. Nhưng trong lúc đó, con có một dự địn lớn, một sáng kiến mới. Con sẽ có tin báo cho cha nay mai. Con đã tìm được một chiều hướng làm ăn khác. Một công việc nhiều hoạt động hơn, vâng thật vậy, hết sức hoạt động.”
Vasso: “Dù sao, lá thư này cũng đem đến cho chúng ta chút tin vui.”
Ông chú già: “Chỉ có trời biết chuyện gì xảy ra ở đó?”
Vasso: “Nó thì luôn luôn chỉ làm có mỗi việc đó.’
Ông Isaac đọc tiếp: “Sức khỏe con vẫn bình thường. Nhờ cha nói với mẹ, bằng cách này hay cách khác con vẫn kiếm được cái để ăn.”